Đề bài: Bằng một bài văn ngắn em hãy đóng vai Rùa Vàng kể lại sự tích Hồ Gươm.
Gợi ý làm bài:
1. Bài văn mẫu số 1
Ta chính là Rùa Vàng linh thiêng, người hộ mệnh của dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử qua. Vào sáu trăm năm trước, ta đã giúp Lê Lợi đánh tan giặc Minh cứu đất nước khỏi lầm than nhờ vào một thanh kiếm có khắc chữ “Thuận Thiên”. Ấy là ta đã vâng mệnh Long Quân lên cứu nước cứu dân, giúp vị vua hiền tài. Câu chuyện này đã lưu lại thành truyền thuyết lưu danh ngàn năm qua.
Ngày ấy, ta ngụ ở hồ nước lớn đã được hơn ngàn năm. Như thường lệ, cứ vài tháng một lần ta lại ra chỗ đến chỗ Ngọc Sơn bây giờ để xem xét người Việt ta sinh sống ra sao. Bao bước thăng trầm lịch sử, biến cố của dân Nam ta đều thông hiểu như lòng bàn tay. Lần đó bơi đến gần bờ, ta nghe dân thành Thăng Long than trời khóc đất vì bị quân Minh xâm lược đến hoang tàn. Ta ngay lập tức đem câu chuyện kể với Long Quân xin một ân điển cứu nước cứu dân. Và chuyện về gươm thần, tên hồ Hoàn Kiếm sinh ra từ đó.
Bấy giờ ở vùng núi Lam Sơn hiểm trở gập ghềnh có một nghĩa quân nổi dậy chống lại bọn chúng, nhưng những buổi đầu do lực lượng còn non yếu mà nghĩa quân gặp biết bao khó khăn, có khi mấy tuần lương thực hết, vũ khí thiếu thốn… Điều này gây nhiều bất lợi cho việc chiến đấu chống quân thù. Từ câu chuyện của ta đã trình và từ tình hình thực tế lầm than của dân chúng cần tìm một người tài lãnh đạo, Long Quân định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần để họ giết trừ giặc hung.
Vào một đêm trăng sáng, ở một bờ sông vắng Long Quân sai ta cắp gươm thần thả vào lưới đánh cá của Lê Thận - một chàng trai khỏe mạnh có chí khí và có lòng yêu nước, tính tình hiền lành, chất phác. Lê Thận kéo lưới lên thấy nằng nặng, mừng thầm cứ nghĩ là bắt được cá to. Nhưng khi chàng ta thò tay vào lưới lấy ra thì chỉ thấy một thanh sắt vut không đáng giá, bèn vứt luôn xuống sông không đoái hoài và chèo thuyền sang thả lưới ở nơi khác. Chính ta đã thả gươm vào lưới. Đến lần thứ ba khi kéo lưới lên, Thận vẫn thấy thanh sắt của hai lần trước, chàng lấy làm kỳ lạ. Đúng lúc đó, có một ánh chớp lóe lên từ phía xa, chàng nhìn rõ đó là một lưỡi gươm và lấy làm sung sướng.
Về sau chính Lê Thận đã gia nhập quân khởi nghĩa Lam Sơn. Ta đã không nhầm khi tin tưởng con người đó. Đó là chàng trai hăng hái, gan dạ, không ngại nguy hiểm, dũng cảm chiến đấu. Cảm kích vì có một người anh dũng trong nghĩa quân, một hôm chủ tướng Lê Lợi cùng mấy tuỳ tòng đến thăm nhà của Lê Thận. Thanh gươm thần như chủ ý từ trước gặp được người chủ tướng sáng suốt nên đã tự động sáng rực lên trong túp lều tối om không một ánh đèn. Lê Lợi cầm lưỡi gươm lên xem và thấy hai chữ “Thuận Thiên” trên lưỡi gươm.
Song không ai nghĩ đó là một lưỡi gươm thần rồi chuyện đó cũng nhanh chóng bị quên đi. Có một lần Lê Lợi cùng vài người đi qua một khu rừng thấy trên ngọn cây cao có một ánh sáng lấp lánh chiếu rọi vào mắt. Ông trèo lên cây xem thử thì thấy một cái chuôi gươm nạm ngọc quý giá. Bỗng nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, ông mang chuôi về nhà.
Ba ngày sau đó, khi gặp lại mọi người trong nhà của Lê Thận, Lê Lợi đem chuyện bắt được chuôi gươm kể lại cho họ nghe. Mọi người đem lưỡi gươm tra vào chuôi thì vừa như in. Như vậy là gươm thần đã tìm được người chủ công sáng suốt xứng đáng cầm gươm thần dẫn dắt nhân dân đánh đuổi giặc dữ giữ gìn bờ cõi. Đến đây thì nhiệm vụ của ta đã hoàn thành, thanh gươm thần đã được đặt vào đúng vào vị trí của nó.
Một năm trôi qua, nghĩa quân của Lê Lợi với gươm thần giúp sức đã tung hoành khắp trận địa, nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng mạnh, liên tiếp giành được thắng lợi, làm cho giặc Minh bạt vía hồn kinh. Uy thanh của nghĩa quân vang vọng khắp nơi, lấy được nhiều lòng tin của nhân dân. Nhờ có gươm thần, quân ta hăng chiến đấu đã mạnh lại càng thêm mạnh, chiến thắng liên tiếp. Chẳng mấy chốc mà đất nước sạch bóng quân thù, Lê Lợi lên làm vua, lấy hiệu là Lê Thái Tổ.
Sau khi mọi chuyện đã được giải quyết, nước nhà đã sạch bóng quân thù, ta liền vội vã lên đường, thực hiện nhiệm vụ mà Long Quân giao. Khi đoàn thuyền rồng của nhà vua hiện ra trước mắt. Ta từ từ nổi lên mặt nước và bơi ra đón trước mũi thuyền. Ta cất giọng chậm rãi: “Việc đã xong. Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân”.
Sau khi nghe ta nói, Lê Lợi nâng gươm hướng về phía ta và nói: “Xin Thần Kim Quy về báo lại với Đức Long Quân rằng Lê Lợi thay mặt muôn dân kính cẩn đội ơn Ngài đã cho mượn gươm báu giúp dân, giúp nước. Xin cho chúng dân đổi tên hồ này thành hồ Hoàn Kiếm để đời đời nhớ đến công đức của Ngài”. Nghe xong, ta chậm rãi gật đầu, ngậm gươm thần rồi lặn xuống nước. Một vệt sáng le lói từ mặt hồ trong xanh chiếu lên như sự đồng ý trước lời thỉnh cầu của nhà vua.
Cũng từ lúc đó hồ Tả Vọng được đổi tên thành Hồ Gươm hay Hồ Hoàn Kiếm. Và trong nhân gian vẫn còn lưu truyền sự tích Hồ Gươm cho đến tận ngày hôm nay ghi công một cuộc chiến vẻ vang của dân tộc.
2. Bài văn mẫu số 2
Ta vốn là Rùa Vàng, một vị tướng của Lạc Long Quân. Một hôm, ta được Lạc Long Quân triệu đến gặp. Vừa đến nơi, ngài lập tức ra truyền lệnh cho triệu kiến và ra lệnh cho ta đem thanh gươm thần xuống giúp nhân dân dẹp yên quân giặc.
Bấy giờ ở vùng núi Lam Sơn có một nghĩa quân ngày đêm rèn sức luyện tài để đợi ngày đánh giặc. Do nghĩa quân mới thành lập chưa lâu nên lực lượng còn non yếu lại gặp nhiều khó khăn: thiếu thốn lương thực, vũ khí… Tuy vậy, chủ tướng của họ lại là một người có tài tên là Lê Lợi.
Một đêm nọ, ta cắp lưỡi gươm thần thả vào lưới của người đánh cá là Lê Thận - một chàng trai khỏe mạnh, có chí khí. Lê Thận khi kéo lưới thấy nặng tưởng rằng cá to. Hóa ra khi vớt lên chỉ thấy một thanh thanh sắt, liền vứt xuống sông. Liên tiếp ba lần như vậy, chắc hẳn Lê Thận thấy kỳ lạ nên đã quyết định đem về nhà. Về sau, Lê Thận tham gia nghĩa quân Lam Sơn, chiến đấu vô cùng dũng cảm.
Một lần nọ, Lê Lợi cùng tùy tùng đến thăm nhà Lê Thận. Bỗng nhiên thấy phía góc nhà lóe sáng, Lê Lợi tiến đến gần xem là cầm lên xem là vật thì gì thì thấy hai chữ “Thuận Thiên”. Song lại không ai nghĩ đó là lưỡi gươm thần. Một lần nọ, trên đường Lê Lợi cùng vài người đi qua một khu rừng thấy trên ngọn cây cao có một ánh sáng lấp lánh chiếu rọi vào mắt. Ông trèo lên cây xem thử thì thấy một cái chuôi gươm nạm ngọc quý giá. Bỗng nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, ông mang chuôi về tra vào lưỡi gươm thì vừa như in.
Một năm trôi qua, nhờ có gươm thần giúp sức, nghĩa quân của Lê Lợi đánh đến đâu thắng đến đó. Thanh thế ngày một vang xa. Quân Minh được dẹp tan. Lê Lợi lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ. Vua cho cưỡi thuyền trên hồ Tả Vọng thì thấy ta nổi lên. Ta bèn nói với vua:
- Việc lớn đã thành. Xin bệ hạ trả lại gươm báu cho đức Long Quân.
Sau khi nghe ta nói, Lê Lợi bèn đem gươm báu trả lại rồi nói:
- Xin cảm tạ ngài cùng đức Long Quân đã cho mượn gươm báu để đánh tan quân giặc, bảo vệ nước nhà.
Nghe xong, ta gật đầu rồi lặn xuống hồ. Từ đó, người dân đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm (hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm).
3. Bài văn mẫu số 3
Quân Minh mượn cớ thừa cơ xâm chiếm nước Đại Việt. Chúng dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn cớ, coi nhân dân Đại Việt như cỏ rác. Chúng ỷ mạnh hiếp yếu, làm nhiều điều bạo ngược, hung tàn, tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, đi ngược lại với đạo lý làm người, thật không thể dung thứ. Ta nghe nói vùng Lam Sơn có nghĩa quân nổi dậy chống lại bọn chúng. Người này có mệnh đế vương. Những buổi đầu thế lực còn non yếu, quân thù đang mạnh nên nghĩa quân nhiều lần thất bại. Lạc Long Quân sai ta mang gươm thần của ta trao cho nghĩa quân để họ dâng cho minh chủ, nâng cao sĩ khí mà giúp họ dẹp giặc, thực thi chính nghĩa.
Nhận lấy gươm báu, ta bồi hồi suy nghĩ. Vào một nọ, ở một bến vắng, ta đã mang gươm bỏ vào lưới của Lê Thận - một chàng trai khỏe mạnh làm nghề đánh cá, có lòng yêu nước thiết tha. Sợ Thận hoảng sợ khi thấy gươm quý, ta đã biến nó thành thanh sắt sét gỉ xấu xí. Hai lần kéo lưới lên không thấy cá. Thận chỉ thấy một thanh sắt, chàng vứt luôn xuống nước và thất vọng. Lần thứ ba, ta lại bỏ vào lưới của Thận. Thấy sự việc lạ lùng, Thận mang thanh sắt về nhà, vứt vào góc tối và không còn nhớ đến nữa.
Về sau, Thận gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, chàng xông pha chiến trận, không nề gian nguy. Một hôm chủ tướng Lê Lợi cùng tùy tùng đến nhà Thận. Trong túp lều tối om, một góc nhà bỗng sáng rực lên. Thấy lạ, Lê Lợi lại cầm thanh sắt, thấy đó là thành gươm có khắc hai chữ “Thuận Thiên”. Biết trời đất đã hiển linh báo trước, Lê Lợi vô cùng vui mừng.
Quân thù vẫn hoành hành, nghĩa quân thì gặp nhiều gian nan, có khi mấy tuần lương cạn, mỗi người một ngả. Một hôm Lê Lợi một mình thoát khỏi vòng vây của giặc, lạc vào trong rừng. Đang đi, bỗng thấy trên ngọn cây có ánh sáng lạ, Lê Lợi nhìn kỹ thì thấy một chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, liền cho mang chuôi gươm về.
Về đến doanh trại, Lê Lợi đem chuyện lạ nói với các tướng lĩnh:
- Vừa nói trên đường, ta bắt được một chuôi gươm nạm ngọc, tỏa sáng lấp lánh, ta e rằng chuôi gươm này với lưỡi gươm kia ở nhà Lê Thận có liên quan. Phải chăng trời thử lòng trao cho chúng ta mệnh lớn! Nếu vậy ta cùng anh em phải gắng chí, khắc phục gian nan…
Lê Thận đem lưỡi gươm tra vào chuôi thì vừa như in. Chàng nâng gươm nói với Lê Lợi:
- Đây là ý trời lòng dân muốn phó thác cho minh công việc lớn. Chúng tôi nguyện đem máu xương của mình phò minh công, cùng với thanh gươm thần này báo đền nợ nước.
Từ đó, hùng khí nghĩa quân ngày một tăng. Trong tay Lê Lợi, thanh gươm thần tung hoành khắp các trận địa, làm cho quân Minh bạt vía kinh hồn. Chiến công liên tiếp, uy danh của nghĩa quân vang dội. Quân Minh ngày càng kế cùng lực kiệt cho đến lúc phải đầu hàng. Non sông lại thu về một mối, nhân dân khắp chôn lại vui hưởng thái bình.
Khi Đại Việt đã sạch bóng quân giặc, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, đất nước đã thái bình. Thần lạc Long sai ta đi lấy lại gươm thần. Nhân lúc nhà vua cùng các đại thần du thuyền trên hồ Tả Vọng, ta hiện lên trước thuyền. Vì cảm được linh khí mà thanh gươm bắt đồng động đậy, khẽ rung lên. Thấy ta, nhà vua cùng các đại thần vô cùng kinh ngạc. Nhà vua cho thuyền nhẹ lại. Ta bơi lại mạn thuyền tâu:
- Xin bệ hạ hoàn lại gươm cho Long Quân.
Ngay lập tức nhà vua rút gươm đưa cho ta. Ta vội đón lấy thanh gươm và lặn xuống. Cũng từ đó nhân dân quanh vùng đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm, hay hồ Hoàn Kiếm để ghi nhớ sự tích ấy.
4. Bài văn mẫu số 4
Tôi chính là Rùa Vàng đã cho vua Lê Lợi mượn kiếm để đánh giặc giữ nước. Vào thời giặc Minh đặt ách đô hộ ở nước Nam, chúng coi dân ta như cỏ rác, làm bao điều bạo ngược. Tận mắt chứng kiến cảnh ấy, tôi vô cùng đau lòng. Bây giờ, thế lực ta còn yếu nên nhiều lần bị thua. Đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để giết giặc. Nhưng đức Long Quân chưa biết tìm cách nào để chọn ra người tài, xứng đáng nhận ấn kiếm. Tôi được giao nhiệm vụ đi tìm người xứng đáng để trao kiếm báu. Tôi bèn chia kiếm làm hai nửa, một nửa thì có lưỡi gươm, nửa kia là chuôi gươm. Lưỡi gươm thì tôi thả xuống biển còn chuôi thì giấu trong rừng. Thời đó, có chàng trai tên Lê Thận, người Thanh Hóa, làm nghề chài lưới ven sông. Một đêm nọ, anh thả lưới bắt cá nhưng tôi bèn ngậm lưỡi gươm đặt vào lưới của anh ta. Anh ta kéo lưới lên ba lần đều thấy lưỡi gươm mắc vào lưới bèn mang về nhà. Lúc đầu, Lê Thận tưởng đó chỉ là một thanh sắt nhưng khi anh ta đưa lại cạnh mồi lửa thì mới biết đó là một lưỡi gươm. Anh ta đem cất lưỡi gươm cẩn thận nhưng vẫn không biết là gươm quý. Về sau, Lê Thận gia nhập đoàn quân khởi nghĩa Lam Sơn. Một lần, chủ tướng Lê Lợi cùng mấy người tùy từng đến nhà Lê Thận. Trong bóng tối, thanh sắt sáng rực lên. Tôi biết thanh gươm đã chọn được người làm chủ. Khi Lê Lợi cầm lưỡi gươm lên, thấy khắc hai chữ "Thuận Thiên" nhưng ông ta vẫn chưa biết đó là báu vật.
Trong một lần bị giặc đuổi, tôi đã dẫn Lê Lợi đến chỗ có chuôi gươm nạm ngọc. Tôi đã giấu nó trên ngọn đa. Khi Lê Lợi đến, nó phát sáng thì chắc chắn Lê Lợi sẽ nhìn thấy. Quả nhiên, Lê Lợi đã leo lên ngọn đa, nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi đem giắt chuôi gươm vào thắt lưng.
Ba ngày sau, khi gặp lại mọi người, Lê Lợi đem câu chuyện kể cho mọi người nghe. Khi đem lưỡi gươm tra vào chuôi gươm thì vừa in. Thế là tôi đã hoàn thành được nhiệm vụ Long Quân giao. Từ khi có gươm báu, nhuệ khí của nghĩa quân tăng lên vùn vụt. Thanh gươm trong tay Lê Lợi tung hoành khắp nơi khiến giặc Minh khiếp vía. Có gươm thần trong tay, Lê Lợi càng trở nên mạnh mẽ, chẳng khác nào rồng mọc thêm cánh. Gươm mở đường cho họ đánh đến khi quét sạch bóng giặc trên đất nước.
Khi đất nước đã hòa bình, Long Quân sai tôi đòi lại kiếm. Nhân dịp vua cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng, tôi bèn tiến lại gần thuyền vua và nói: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân”. Vua nâng gươm tiến về phía tôi, tôi đớp lấy thanh gươm và lặn xuống nước.
Sau lần đó, Lê Lợi đã cho đổi tên hồ Tả Vọng là Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm. Cái tên đó nhắc mọi người nhớ đến ơn của Long Quân cho mượn kiếm báu đánh giặc.
------Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp------