TRƯỜNG THPT VÕ NGUYÊN GIÁP | ĐỀ THI THỬ THPT QG MÔN: NGỮ VĂN NĂM HỌC: 2021 (Thời gian làm bài: 120 phút) |
ĐỀ SỐ 1
I. ĐỌC HIỂU
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
(1)Trong cuộc trò chuyện lan man, một người bạn vong niên của tôi than thở rằng: “Điều đáng thất vọng nhất về giới trẻ ngày nay là họ ưa hưởng thụ quá!". Một người khác cười: “Hưởng thụ thì có gì sai? Thú thật là tôi đây, tôi cũng ra hưởng thụ”.
(2) Và tôi, tôi đồng ý với người bạn thứ hai. Tôi cũng không cho rằng sự ưa hưởng thụ là một điều sai trái hay là con đường dẫn đến vấp ngã. Ngược lại sai lầm của chúng ta nằm ở chỗ chúng ta thường đắm chìm trong ảo giác và ít khi thực sự biết hưởng thụ. Hưởng thụ thực sự không phải tàn phá, bất cứ thứ gì kể cả chính mình. Hưởng thụ thực sự là mong muốn giữ gìn, bảo vệ, bồi đắp... kể cả chính mình.
(Trích Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Phạm Lữ Ân, NXB Hội nhà văn, 2015)
Câu 1: Xác định phép liên kết chính được sử dụng trong phần (2) của đoạn trích.
Câu 2: Trong đoạn trích, người bạn vong niên của tác giả thất vọng điều gì nhất về giới trẻ?
Câu 3: Anh/chị hiểu thế nào về câu: “Hưởng thụ thực sự là mong muốn giữ gìn, bảo vệ, bồi đắp... kể cả chính mình”?
Câu 4: Anh/chị có đồng tình với quan điểm: “Tôi cũng không cho rằng sự ưa hưởng thụ là một điều sai trái hay là con đường dẫn đến vấp ngã” không? Vì sao?
II. LÀM VĂN
Câu 1:
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, Anh/ chị hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về ý nghĩa của việc hưởng thụ thực sự.
Câu 2:
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò sông Đà trong đoạn trích sau:
“…Không một phút nghỉ tay nghi mắt, phải phải luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sóng thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đã nơi di nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm của trận, có bốn cửa từ một của sinh, của sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa từ để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phia bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bàn sóng đáng luồng rồi, ông đồ ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trải tiền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn của tử. Ông đồ vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông trảnh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sẩn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền, Chỉ còn vắng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trung vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vi thứ ba nữa...” Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luông chết cả. Cái không sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thắng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyên vút qua cổng đá cánh mở, cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hàm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phả rồi cá tủa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi.
(Trích Người Lái Đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, SGK Ngữ Văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2007, tr.189-190)
---- HẾT ----
ĐÁP ÁN ĐỀ SỐ 1
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1
Phương pháp: Vận dụng những kiến thức về các phép liên kết trong đoạn văn.
Cách giải:
Phép liên kết chính được sử dụng trong đoạn thứ 2 là: Phép lặp (Hưởng thụ)
Câu 2
Phương pháp: Đọc, tìm ý.
Cách giải:
Trong đoạn trích, người bạn vong niên thất vọng nhất về giới trẻ là: “họ ưa hưởng thụ”.
Câu 3
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
“Hưởng thụ thực sự là mong muốn giữ gìn, bảo vệ, bồi đắp…kể cả chính mình” có thể hiểu là: để có thể hưởng thụ thực sự, chúng ta cần phải học hỏi và có hiểu biết nhất định về điều ta đang làm, đang tận hưởng, đang thưởng thức. Biết mình có gì, hiểu thứ mình có, và biết cách tận hưởng tối đa những gì ta xứng đáng được hưởng.
Câu 4
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
- Đồng tình với quan điểm của tác giả.
- Vì: hưởng thụ là một hành động hoàn toàn bình thường để tận hưởng thành quả mình đã làm ra, để sống trọn vẹn với thực tại, đó còn là cách cảm nhận hết ý nghĩa của cuộc đời. Hưởng thụ chỉ có ý nghĩa tiêu cực khi con người ta bị “chìm trong ảo giác”, hiểu sai lạc về hưởng thụ, để từ đó coi hưởng thụ là lối sống trụy lạc, xấu xí.
II. LÀM VĂN
Câu 1
Phương pháp:
- Tìm hiểu đề, xác định rõ vấn đề cần nghị luận Ý nghĩa của việc hưởng thụ thực sự
- Phân tích, lí giải, tổng hợp.
Cách giải:
* Yêu cầu:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn.
- Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
1. Giới thiệu vấn đề: Ý nghĩa của việc hưởng thụ thực sự.
2. Giải thích
Hưởng thụ là tận hưởng tối đa những những gì đẹp đẽ, tươi đẹp nhất mà cuộc sống này mang lại cho bạn.
3. Bàn luận
- Ý nghĩa của sự hưởng thụ:
+ Hưởng thụ đem lại cho ta sự di dưỡng về tâm hồn.
+ Hưởng thụ đem lại cho ta sự thoải mái trong cảm xúc, khiến ta yêu con người, cuộc sống này hơn.
+ Hưởng thụ cũng là cách để ta tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp cuộc sống, sống ý nghĩa với từng phút giây.
- Đừng đồng nghĩa việc hưởng thụ chỉ đơn thuần là vật chất, mà hưởng thụ còn là sự tận hưởng gì đẹp đẽ mà cuộc sống đẹp lại cho bạn mỗi ngày.
- Để có thể hưởng thụ thực sự, chúng ta cần phải học hỏi và có hiểu biết nhất định về điều ta đang làm, đang tận hưởng, đang thưởng thức. Biết mình có gì, hiểu thứ mình có, và biết cách tận hưởng tối đa những gì ta xứng đáng được hưởng, đó mới là hưởng thụ.
- Tuy nhiên, khi tuyệt đối hóa tâm lí hưởng thụ, con người sẽ dễ dàng sa vào lối sống ăn chơi sa đọa, chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân.
- Mở rộng vấn đề: Phê phán những kẻ lười làm ham hưởng thụ.
4. Tổng kết vấn đề
Câu 2
Phương pháp:
- Xác định rõ vấn đề cần nghị luận: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong đoạn trích. - Biểu cảm, bình luận, phân tích, tổng hợp.
Cách giải:
I. Mở bài
- Giới thiệu một số nét tiêu biểu về tác giả Nguyễn Tuân: Cuộc đời, con người và phong cách nghệ thuật đặc trưng của nhà thơ.
- Nêu khái quát chung về tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”: hoàn cảnh sáng tác, vị trí, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật.
- Khái quát nội dung: Hình tượng người lái đò sông Đà.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chân dung người lái đò.
- Tên gọi, lai lịch: Được gọi là người lái đò Sông Đà và người lái đò Lai Châu. Tên gọi đã ẩn chứa trong đó địa danh sinh sống, địa danh làm việc, nghề nghiệp. Người làm nghề chèo đò suốt dọc Sông Đà hơn mười năm liền. Nhân vật không có tên riêng mà gọi tên bằng địa danh sinh sống, địa danh làm việc. Tác giả muốn khẳng định rằng không chỉ có một ông lái đò phi phàm xuất chúng mà đây là một đại diện tiêu biểu cho vô số chất vàng mười đang lấp lánh tỏa sáng ở mảnh đất Tây Bắc.
- Chân dung: In đậm dấu ấn nghề nghiệp.
+ Tay ông lêu nghêu như cái sào,
+ Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng + Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông.
+ Nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù.
+ Cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun.
+ Ngực vú bả vai bầm lên một khoanh củ nâu – vết nghề nghiệp do đầu sào gửi lại. Đây là thứ huân chương lao động siêu hạng.
=> Bức chân dung rất trẻ tráng dù ông lái đò đã ngoài 70 tuổi và đây là thứ ngoại hình được hun đúc được dinh ra từ sông nước dữ dội, hiểm trở. Cho thấy sự gắn bó với nghề nghiệp của ông lái đò. Ông lái đò đã chèo lái, xuôi ngược trên Sông Đà hơn 100 lần, chính tay ông cầm lái khoảng hơn 60 lần. Ông đã gắn bó với nghề này hơn 10 năm trời.
---(Để xem đầy đủ nội dung của Đề thi số 1 vui lòng xem online hoặc đăng nhập tải về máy)---
ĐỀ SỐ 2
I. ĐỌC HIỂU
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
(1) Thỉnh thoảng, khi ngồi ngắm mấy hòn đá nhỏ đặt bên cạnh hồ cá trước sân nhà, mẹ tôi lại tủm tỉm nhắc lại một kỷ niệm vui ngày mới về làm dâu. Vốn tính gọn gàng, và ưa chăm sóc vườn cảnh, mới về mấy ngày mẹ đã ra tay sắp xếp lại cái hồ cá bằng xi măng be bé vốn để không từ lâu lắm, xin mấy con cá vàng, cá bảy màu về thả, gom mấy chậu hoa vứt lỏng chỏng khắp nơi, bày thêm mấy hòn đá nhỏ đủ màu để bài trí thành một góc vườn rất đẹp.
(2) ...... Mẹ nói, nhìn vào đó có thể thấy quá khứ, vị lai của con người, và rồi thấy lòng nhẹ như tơ. Có lúc, tôi đùa rằng: "Người Nhật vẫn luyện tâm thiền bằng cách ngắm "đá mọc". Còn mẹ, ngắm đá mấy chục năm rồi, mẹ đã bao giờ thấy đá nở hoa chưa?" Mẹ nghiêm mặt. "Thiên nhiên có đời sống riêng của nó. Đơn giản và lặng lẽ thôi nhưng có thể dạy cho con người nhiều lắm đấy! Mẹ không biết đá có nở hoa không, nhưng mẹ biết là khi con thấy trái tim và trí tưởng tượng của mình không nở hoa được nữa thì khi ấy con đích thị chỉ là một viên đá mà thôi!"
(3) Càng ngày con người càng thấy thiếu thiên nhiên. Và người ta cố đưa một chút thiên nhiên vào nhà để cân bằng lại cuộc sống công nghiệp bề bộn máy móc và kỹ thuật. (... .....) Mẹ tôi chỉ tự hỏi, người ta chơi đá như một cách đến gần với thiên nhiên hay một cách chiếm hữu nó? Bà cho rằng, sẽ vô duyên làm sao, nếu như những viên đá đặt trong vườn kia chi để trang điểm phô trương, chứ không phải để gợi nhớ đến con sông ngọn suối, không tưởng nhớ đến núi cao rừng sâu... Lãng phí làm sao, nếu ta không bao giờ chịu bỏ chút thời gian quý giá để ngồi ngắm đá "mọc" trong vườn, và để nhận ra rằng lòng mình vẫn nở hoa,...
(Trích: “Hãy tìm tôi giữa cánh đồng” – Đặng Nguyễn Đông Vy, NXB Hội nhà văn)
Câu 1: Đoạn trích trên đã sử dụng những phương thức biểu đạt nào?
Câu 2: Xác định biện pháp tu từ ở đoạn (1)
Câu 3: Em hiểu thế nào về câu văn sau: “...khi con thấy trái tim và trí tưởng tượng của mình không nở hoa được nữa thì khi ấy con đích thị chỉ là một viên đá mà thôi!"?
Câu 4: Thông điệp nào của đoạn trích có ý nghĩa nhất đối với anh/ chị ? Vì sao?
II. LÀM VĂN
Câu 1:
Anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) về ý tưởng: "Thiên nhiên có đời sống riêng của nó. Đơn giản và lặng lẽ thôi nhưng có thể dạy cho con người nhiều lắm đấy!"
Câu 2:
Hãy phân tích khát vọng tình yêu của người phụ nữ được thể hiện qua hai đoạn thơ:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu đổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Và:
“... Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
(“Sóng” – Xuân Quỳnh, SGK Ngữ văn 12, Tập 1, trang 156)
---- HẾT ----
ĐÁP ÁN ĐỀ SỐ 2
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1
Phương pháp: Vận dụng những kiến thức về các phương thức biểu đạt đã học: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận.
Cách giải:
Phương thức biểu đạt: Nghị luận, tự sự.
Câu 2
Phương pháp: Vận dụng kiến thức về các biện pháp tu từ đã học.
Cách giải:
- Biện pháp tu từ được sử dụng: Biện pháp liệt kê. (mới về mấy ngày mẹ đã ra tay sắp xếp lại cái hồ cá bằng xi măng be bé vốn để không từ lâu lắm, xin mấy con cá vàng, cá bảy màu về thả, gom mấy chậu hoa vứt lỏng chỏng khắp nơi, bày thêm mấy hòn đá nhỏ đủ màu để bài trí thành một góc vườn rất đẹp).
- Tác dụng: Tăng giá trị biểu đạt, diễn tả đầy đủ các công việc mẹ làm để trang trí lại khu vườn.
Câu 3
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
Học sinh đưa ra cách hiểu và lý giải.
Gợi ý:
Ý nghĩa câu: “...khi con thấy trái tim và trí tưởng tượng của mình không nở hoa được nữa thì khi ấy con đích thị chỉ là một viên đá mà thôi!”.
- Trái tim và trí tưởng tượng là mặt tâm hồn của con người.
- Nở hoa: Nói đến vẻ đẹp, sự thay đổi tích cực.
- Hòn đá: Sự vật vô chi vô giác, vô nghĩa.
-> Khi tâm hồn con người không có cảm xúc, không có giao cảm với thế giới bên ngoài, không có những thay đổi tích cực thì cuộc sống chỉ còn là một cuộc đời vô nghĩa.
Câu 4
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
- Học sinh đưa ra thông điệp có ý nghĩa với mình và lý giải.
- Gợi ý:
+ Luôn yêu thiên nhiên bằng cách cảm nhận vẻ đẹp của nó với sự giao cảm tự nhiên nhất chứ đừng yêu thiên nhiên theo cách chiếm hữu.
+ Trân trọng những vẻ đẹp thiên nhiên bình dị nhất vì nó giúp con người có thể tái sinh tâm hồn, cân bằng cảm xúc, phát triển trí tưởng tượng,...
II. LÀM VĂN
Câu 1
Phương pháp:
- Tìm hiểu đề, xác định rõ vấn đề cần nghị luận Thiên nhiên có đời sống riêng của nó. Đơn giản và lặng lẽ thôi nhưng có thể dạy cho con người nhiều lắm đấy.
- Phân tích, lí giải, tổng hợp.
Cách giải:
* Yêu cầu:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn.
- Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
1. Giới thiệu vấn đề
2. Giải thích
- Thất bại: là hỏng việc, thua mất, là không đạt được kết quả, mục đích như dự định.
- Thành công: là đạt được kế hoạch mục tiêu mình đã đề ra ban đầu
=> Trong hành trình để đi đến thành công không tránh khỏi những vấp ngã, thất bại. Nhưng ta phải biết điều chỉnh từ chính những thất bại đó thì bản thân mới có thể thành công.
3. Bàn luận
- Thái độ trước thất bại:
+ Trước một sự việc không thành, con người cần có sự bình tĩnh để tìm hiểu nguyên nhân của sự thất bại.
+ Dám đối mặt để chấp nhận, không né tránh sự thật, cũng không đổ lỗi hoàn toàn cho khách quan.
- Đứng lên từ thất bại
+ Biết đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã, không chán nản và lùi bước trước thất bại.
+ Biết rút ra bài học từ những thất bại đã qua để tiếp tục thực hiện công việc và ước mơ của mình.
4. Mở rộng vấn đề và liên hệ bản thân.
- Phê phán những con người sống thụ động, tiêu cực, dễ đầu hàng số phận, khi thất bại thì luôn đổ thừa cho hoàn cảnh.
- Khó tránh thất bại trong mỗi đời người và cũng nên hiểu rằng chính sự thất bại là một trong những điều kiện để đi đến thành công, “thất bại là mẹ thành công”.
- Phải biết cách chấp nhận sự thất bại để có thái độ sống tích cực. Không đắm chìm trong thất vọng nhưng cũng không được bất cần trước mọi sự việc, không để một sự thất bại nào đó lặp lại trong đời. Đó là bản lĩnh sống.
---(Để xem tiếp đáp án phần Làm văn vui lòng xem online hoặc đăng nhập tải về máy)---
ĐỀ SỐ 3
I. ĐỌC HIỂU
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Ta muốn có một cuộc sống bình thường thì sẽ gặp phải những khó khăn bình thường; ta muốn có cuộc sống tốt đẹp thì sẽ gặp phải những khó khăn lớn hơn. Đây chính là sự công bằng của cuộc đời, nếu vượt qua được thì ta sẽ là người chiến thắng; nếu khoog vượt qua được thì hãy ngoan ngoãn quay về cuộc sống trước đó. Có thực hiện được ước mơ hay không, không phải dựa vào ta thông minh đên đâu mà là xem ta có mỉm cười vượt qua mọi cửa ải khó khăn hay không. Điều già đi đầu tiên chưa bao giờ là dung mạo bề ngoài, mà chính là sự lụi tàn của tinh thần xông pha không mệt mỏi.
Ta leo lên được đỉnh núi nào thì đạt được độ cao đó; ta đạt được chừng nào được quyết định bởi trước đó ta đã nỗ lực bao nhiêu; chúng ta có cuộc sống như thế nào là do trước đó chúng ta đã từng vượt qua những khó khăn, rào cản ra sao. Khi ta ngưỡng mộ tiền bạc và địa vị của người khác thì cũng nên đặt mắt mình vào những nỗ lực và cố gắng mà họ đã bỏ ra chứ không nên chỉ nhìn vào những gì mà họ đạt được.
Có nhiều người không vượt qua được những khó khăn thử thách đặt giữa thành công nên cuối cùng đành chịu cảnh “sắp thành lại bại”. Yếu tố quyết định thu hoạch nhiều hay ít, không phải do thế giới này cho ta nhiều hay ít mà chính là dũng khí và trí tuệ ta đã bỏ ra bao nhiêu trước khó khăn. Bởi vậy, ta có thể biến ước mơ thành hiện thực hay không điều quan trọng chính là khi đứng trước cơ hội, thái độ của ta là lo sợ trước sau, bão tàn thủ khuyết (*), hay là dùng sức mạnh vũ bão để chiến thắng khó khăn nơi đầu sóng, ngọn gió. Đối với người biết mỉm cười đối diện với khó khăn và luôn giữ nụ cười đến phút cuối cùng thì những gì họ đạt được là điều đương nhiên.
(Chớ vội vã dù dòng đời xô ngã, Gytaso Rinpoche, NXB Hồng Đức, 2019, trang 183 -184) (*) Bão tàn thủ khuyết: giữ khư khư những đồ vật cũ rách, tư tưởng bảo thủ không chịu tiếp thu những cái mới (Sđd).
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chủ yếu của văn bản.
Câu 2: Theo anh/chị, điều gì sẽ xảy ra nếu “khi đứng trước cơ hội, thái độ của ta là lo sợ trước sau, bão tàn thủ khuyết”?
Câu 3: Theo anh/chị, “sức mạnh vũ bão để chiến thắng khó khăn nơi đầu sóng, ngọn gió” có thể là sức mạnh đến từ đâu?
Câu 4: Vì sao “khi ta ngưỡng mộ tền bạc và địa vị của người khác thì cũng nên đặt mắt mình vào những nỗ lực và cố gắng mà họ đã bỏ ra chứ không nên chỉ nhìn vào những gì họ mà họ đã đạt được”?
II. LÀM VĂN
Câu 1: Dựa vào những nội dung trong phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của việc “mỉm cười đối diện với khó khăn”?
Câu 2: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của sông Đà hung bạo và trữ tình trong hai đoạn văn bản sau:
“Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Và
“Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh núi đồi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”.
(Trích: Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân)
Từ đó, hãy nhận xét về sự thay đổi trong bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Tuân ở hai đoạn văn bản trên?
---- HẾT ----
ĐÁP ÁN ĐỀ SỐ 3
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1.
Phương pháp: Vận dụng những kiến thức về các phương thức biểu đạt đã học: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận.
Cách giải:
Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận.
Câu 2.
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
Nếu “khi đứng trước cơ hội, thái độ của ta là lo sợ trước sau, bão tàn thủ khuyết” thì ta sẽ đánh mất cơ hội để tiến thân và sẽ không có cơ hội để thành công, không thể biến ước mơ thành hiện thực.
Câu 3.
Phương pháp: Phân tích, lý giải.
Cách giải:
“Sức mạnh vũ bão để chiến thắng khó khăn nơi đầu sóng ngọn gió” là nguồn sức mạnh đến từ dũng khí, trí tuệ của mỗi cá nhân.
Câu 4.
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
“Khi ta ngưỡng mộ tiền bạc và địa vị của người khác thì cũng nên đặt mắt mình vào những nỗ lực và cố gắng mà họ đã bỏ ra chứ không nên chỉ nhìn vào những gì mà họ đã đạt được” vì:
- Để thấy được những gì họ nhận được là xứng đáng, đó không phải là thần may mắn đến với họ, mà là phần quà cho những công sức họ đã bỏ ra.
- Đồng thời thành công của họ cũng là bài học, động lực ta cũng phải cố gắng kiên trì, nỗ lực theo đuổi để đạt được thành công của chính mình. Đừng chỉ đứng một chỗ ngưỡng vọng mà hãy thay đổi để bản thân mình được như họ, thậm chí hơn họ.
II. LÀM VĂN
Câu 1.
Phương pháp:
- Tìm hiểu đề, xác định rõ vấn đề cần nghị luận “Mỉm cười đối diện với khó khăn”.
- Phân tích, lí giải, tổng hợp.
Cách giải:
* Yêu cầu:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn.
- Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
a. Nêu vấn đề:
Giới thiệu vấn đề: Mỉm cười đối diện với khó khăn.
b. Giải thích vấn đề:
“Mỉm cười đối diện với khó khăn” có thể được hiểu là: khi đứng trước khó khăn đừng lo lắng, sợ hãi, nản chí mà hãy coi đó như một bài học mà trong cuộc sống này chúng ta cần phải trải qua để trưởng thành. Mỉm cười, lạc quan với thất bại để rồi sau đó đứng lên và tiến bước về phía trước.
c. Bàn luận vấn đề:
- Khó khăn, thất bại là những điều mà bất cứ ai cũng sẽ gặp phải trong cuộc sống.
- Khi đứng trước thất bại, con người thường có hai cách ứng xử:
+ Sụp đổ, tuyệt vọng, gục ngã và không bao giờ lấy lại được động lực để chiến đấu nữa.
+ Mỉm cười, mạnh mẽ đứng lên sau vấp ngã và tiếp tục chiến đấu để chinh phục những khó khăn, thử thách khác.
- Mỉm cười khi đứng trước khó khăn chính là thái độ sống cần có của mỗi cá nhân, bởi:
+ Trong cuộc đời này chúng ta chắc chắn sẽ phải trải qua vô vàn khó khăn, thất bại, nó như là một phần tất yếu của cuộc sống.
+ Từ trong khó khăn hãy tìm giải pháp, đừng đổ lỗi, đừng ngồi im chịu chết. Nếu có thất bại cũng đừng sợ hãi, hãy mạnh mẽ đứng lên, rút kinh nghiệm và tiếp tục chiến đấu.
+ Và chính từ những khó khăn đó mà ý chí, bản lĩnh của ta được tôi rèn, khiến ta ngày càng trưởng thành hơn, thành công cũng sẽ đến với ta dễ dàng hơn.
- Dẫn chứng: HS lấy dẫn chứng minh họa phù hợp.
- Phê phán những kẻ yếu đuối, gục ngã trước những khó khăn, thử thách của cuộc sống.
d. Tổng kết vấn đề.
---(Để xem đầy đủ nội dung của Đề thi số 3 vui lòng xem online hoặc đăng nhập tải về máy)---
Trên đây là một phần trích đoạn nội dung Bộ 3 đề thi thử THPT QG môn Ngữ văn năm 2021 Trường THPT Võ Nguyên Giáp. Để xem thêm nhiều tài liệu tham khảo hữu ích khác các em chọn chức năng xem online hoặc đăng nhập vào trang Chúng tôi.net để tải tài liệu về máy tính.
Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các em học sinh ôn tập tốt và đạt thành tích cao trong học tập.
Chúc các em học tập tốt !