Bộ 3 đề thi thử THPT QG môn Ngữ văn năm 2021 trường THPT Nguyễn Hữu Thận

TRƯỜNG THPT NGUYỄN HỮU THẬN

ĐỀ THI THỬ THPT QG

MÔN: NGỮ VĂN

NĂM HỌC: 2021

(Thời gian làm bài: 120 phút)

 

ĐỀ SỐ 1

I. ĐỌC HIỂU

“Cái thú tự học cũng giống cái thú đi chơi bộ ấy. Tự học cũng là một cuộc du lịch, du lịch bằng trí óc, một cuộc du lịch say mê gấp trăm du lịch bằng chân, vì nó là du lịch trong không gian lẫn thời gian. Những sự hiểu biết của loài người là một thế giới mênh mông. Kể làm sao được những vật hữu hình và vô hình mà ta sẽ thấy trong cuộc du lịch bằng sách vở?

[…] Tự học còn là một thú vui rất thanh nhã, nó nâng cao tâm hồn ta lên. Ta thấy như tự bắc được một cái cầu giữa tâm hồn ta và tâm hồn các danh nhân trong muôn thuở.

Chắc bạn còn nhớ lời của Von – te: Người siêng học lần lần tự khoác cho mình một cái tôn vọng mà chức tước, của cải đều không cho được”. […]

Thiêng liêng thay sự tự học! Mỗi lần vào một thư viện công cộng, tôi đều có cảm giác rờn rợn mà lâng lâng như vào một tòa đền […]. Ở đây không có hương, không có trầm nhưng có hàng chục, hàng trăm người đang tụng niệm, vì đọc sách có khác chi tụng kinh và sách vở nào đứng đắn mà chẳng là một cuốn kinh?”

(Nguyễn Hiến Lê, Tự học – một nhu cầu thời đại, NXB Văn hóa – thông tin, Hà Nội, 2003 – Trích theo Ngữ Văn 11 – Tập một – NXB GD 2009, tr 212)

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên?

Câu 2: Hãy giải thích cụm từ “thú vui rất thanh nhã” mà người viết sử dụng trong đoạn trích trên.

Câu 3: Xác định các biện pháp tu từ và hiệu quả của nó trong câu văn sau: “Tự học cũng là một cuộc du lịch, du lịch bằng trí óc, một cuộc du lịch say mê gấp trăm du lịch bằng chân, vì nó là du lịch trong không gian lẫn thời gian.”

Câu 4: Anh/ Chị có đồng tình với ý kiến của Nguyễn Hiến Lê: “sách nào đứng đắn mà chằng là một cuốn kinh?”. Vì sao?

II. LÀM VĂN

Câu 1:

Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về vai trò của “tự học” đối với con người.

Câu 2:

Anh/Chị hãy phân tích nhân vật người lái đò trong đoạn trích tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân. Từ đó liên hệ với nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử từ” để thấy sự thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận và khám phá con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945.

---- HẾT ----

ĐÁP ÁN ĐỀ SỐ 1

I. ĐỌC HIỂU

Câu 1:

- Phương thức biểu đạt: nghị luận.

Câu 2:

- “Thú vui rất thanh nhã” là niềm say mê vui thú mang sắc thái lịch sự, khiêm tốn không phô trương nhưng lại đem đến cho người đọc những niềm vui đích thực.

Câu 3:

- Biện pháp nghệ thuật:

+ So sánh: so sánh tự học cũng như đi du lịch

+ Điệp từ: du lịch      

- Tác dụng: khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc tự học đối với mỗi cá nhân.

Câu 4:

Vì:

- Một cuốn sách hay còn mang lại cho ta những tri thức, kinh nghiệm của nhân loại.

- Cuốn sách hay còn bồi đắp tư tưởng, tình cảm hướng con người đến cái đích chân – thiện – mĩ.

II. Làm văn

Câu 1:

* Giới thiệu vấn đề.

* Giải thích vấn đề:

- Học là quá trình thu nhận kiến thức từ người khác truyền lại, rèn luyện thành kỹ năng, nhận thức. Các hình thức thu nhận kiến thức: Học ở trên lớp, học ở trường, học thầy, học bạn...

- Tự học là sự chủ động, tích cực, độc lập tìm hiểu, lĩnh hội tri thức và hình thành kỹ năng cho mình. Tự học là tự mình tìm hiểu nghiên cứu, thu nhặt các kiến thức tự luyện tập để có kỹ năng. Tự học có thể không cần sự hướng dẫn của người khác.

* Bàn luận về tự học:

- Vai trò, ý nghĩa của việc của tự học 

+ Tự học giúp ta lĩnh hội tri thức một cách chủ động, toàn diện.

+ Tự học giúp con người trở nên năng động, sáng tạo, không ỷ lại, không phụ thuộc vào người khác. Từ đó biết tự bổ sung những khiếm khuyết của mình để tự hoàn thiện bản thân.

+ Tự học sẽ giúp tri thức được khắc sâu hơn.

+ Tự học là con đường ngắn nhất để hoàn thiện bản thân và biến ước mơ thành hiện thực.

+ Người có tinh thần tự học luôn là những người chủ động, tự tin trong cuộc sống.

- Tự học như thế nào cho có hiệu quả:

+ Luôn có một cuốn sổ tay ghi chép lại kiến thức được học và những điều hữu ích mà bản thân quan sát được.

+ Bản thân cần sự tích cực, chủ động, tự mày mò tìm hiểu, nếu không hiểu cần có sự chỉ bảo, hướng dẫn của thầy cô giáo.

+ Người học phải trình bày ý kiến của mình đối với những vấn đề chưa rõ, chưa hiểu với người dạy để nắm chắc kiến thức.

- Chứng minh: học sinh lấy dẫn chứng phù hợp với yêu cầu đề bài, có phân tích ngắn gọn.

- Mở rộng vấn đề và liên hệ bản thân

+ Bên cạnh đó vẫn còn những bạn có lối học thụ động, học chay, học vẹt không mang lại hiệu quả.

+ Bản thân mỗi chúng ta phải xây dựng cho mình tinh thần tự học trên nền tảng của sự say mê, ham học, ham hiểu biết, giàu khát vọng và kiên trì trên con đường chinh phục tri thức.

+ Mỗi con người cần chủ động, tích cực, sáng tạo, độc lập trong học tập. Có như vậy mới chiếm lĩnh được tri thức để vươn tới những ước mơ, hoài bão của mình.

+ Bản thân em đã tự học thế nào?

* Tổng kết vấn đề: Dù ở hình thức nào thì sự chủ động tiếp nhận tri thức của người học vẫn là quan trọng nhất bởi nó luôn giúp con người có được kiến thức vững vàng sâu sắc.

Câu 2:

1. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:

- Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại, có thể coi ông là một định nghĩa về người nghệ sĩ.

- Nét nổi bật trong phong cách của ông là ở chỗ luôn nhìn sự vật ở phương diện văn hóa và mĩ thuật, nhìn con người ở phẩm chất nghệ sĩ và tài hoa. Ông thường có cảm hứng mãnh liệt với cái cá biệt, phi thường, dữ dội và tuyệt mĩ.

- Người lái đò sông Đà là bài tùy bút được in trong tập Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân. Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi. Người lái đò sông Đà cho ta diện mạo của một Nguyễn Tuân khao khát được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời này.

- Hình tượng người lái đò sông Đà là hình tượng trung tâm của tác phẩm…

---(Để xem tiếp đáp án phần Làm văn vui lòng xem online hoặc đăng nhập tải về máy)---

 

ĐỀ SỐ 2

I. ĐỌC – HIỂU

Lòng nhân ở mỗi con người, luôn tiềm ẩn và nếu nó được dung dưỡng và bồi đắp thì sẽ tạo ra những nhân cách sống đẹp và giúp ích cho xã hội. Câu chuyện bé gái Hải An 7 tuổi mấy vì bệnh hiểm nghèo để lại giác mạc cho người sống đang tiếp tục loan tỏa, và đặc biệt là nó đã đánh thức lòng nhân trong nhiều người chúng ta.

Những ngày qua, hàng trăm cuộc gọi điện và email hoặc trực tiếp đến nhờ tư vấn và đăng kí hiến tặng mô tạng tại Trung tâm Điều phối hiến ghép mô tạng quốc gia. Điều đó không phải bỗng dưng, nó được bắt đầu từ “đốm lửa nhỏ” mang tên Hải An. Một sự mất mát dù đau đớn nhưng lan truyền được cái đẹp, thậm chí tạo nên được một nguồn cảm hứng. Lòng nhân con người trong xã hội đầy bộn bề lo toan cơm áo gạo tiền dễ bị “ngủ yên”, nếu không được đánh thức thì nó sẽ mãi “ngủ yên”.

Đời người trải qua sinh – bệnh – lão – tử và thường ngẫm rằng chết là hết. Nhưng với y học ngày càng phát triển, con người chết đi không chỉ để lại tiếng mà còn có thể để lại một phần cơ thể, giúp ích cho những người khác đang sống.

Không chỉ ở Việt Nam mà cả tại những quốc gia phát triển và văn minh bậc nhất thể giới như ở châu Âu và Bắc Mỹ, không phải cá nhân nào, gia đình nào cũng dễ dàng chấp nhận một thực tế hiến tặng mô tạng khi người thân mình mất đi. Các trường hợp hiến tặng chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ nhoi nhưng cũng chẳng thể trách móc vì đó là quyền của mỗi cá nhân, quyền con người.

Thế mà một bé gái 7 tuổi, trong cơn bệnh hiểm nghèo, đã đồng ý hiến tặng mô tạng, đó mới là câu chuyện hiếm có. Chính vì thế, nó đã tạo ra được sự xúc động lan truyền trong xã hội, thúc đẩy sự mạnh dạn trong suy nghĩ của nhiều người về việc đăng kí hiến tặng mô tạng. Và hơn thế nữa, “đốm lửa nhỏ” Hải An cùng người mẹ của bé dã gợi cảm hứng về một suy nghĩ khác cho nhiều người: Trong cái chết nghĩ về sự sống, ta tiếp tục được sống trong một sự sống khác với tình yêu và sự chở che.

Sự đánh thức lòng nhân và gợi cảm hứng về một cách sống đẹp luôn là điều mà mỗi con người hướng đến, qua đó chúng ta mới tạo được những giá trị sống về mặt tinh thần mạnh mẽ có thể lay động bao người.

Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?

Câu 2: Theo tác giả vì sao “một bé gái 7 tuổi, trong cơn bệnh hiểm nghèo, đã đồng ý hiến tặng mô tạng, đó mới là câu chuyện hiếm có”?

Câu 3: Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến “Lòng nhân ở mỗi con người, luôn tiềm ẩn và nếu nó được dung dưỡng và bồi đắp thì sẽ tạo ra những nhân cách sống đẹp và giúp ích cho xã hội”?

Câu 4: Qua đoạn trích anh/chị rút ra được bài học gì cho mình?

II. LÀM VĂN

Câu 1.

Từ nội dung phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một bài văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sự cần thiết phải lan tỏa những việc tử tế trong xã hội ngày nay.

Câu 2.

Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài). Từ đó liên hệ nhân vật Liên trong tác phaảm “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam) để nhận xét về tư tưởng nhân đạo của hai nhà văn.

---- HẾT ----

ĐÁP ÁN ĐỀ SỐ 2

I. ĐỌC – HIỂU

Câu 1:

- Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận

Câu 2:

- Vì: “Không chỉ ở Việt Nam mà cả những quốc gia phát triển và văn minh bậc nhất thế giới như ở Châu Âu và Bắc Mỹ, không phải cá nhân nào, gia đình nào cũng dễ dàng chấp nhận một thực tế hiến tặng mô tạng khi người thân mình mất đi. Các trường hợp hiến tặng chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ nhoi nhưng cũng chẳng thể trách móc vì đó là quyền của mỗi cá nhân, quyền con người”.

Câu 3:

“Lòng nhân ở mỗi con người, luôn tiềm ẩn và nếu nó được dung dưỡng và bồi đắp thì sẽ tạo ra những nhân cách sống đẹp và giúp ích cho xã hội”

- Lòng nhân – tình yêu thương con người là cái bản chất, cái vốn có trong mỗi con người.

- Lòng nhân không phải lúc nào cũng được biểu lộ rõ ràng, dễ thấy mà đôi khi nó bị khuất lấp bởi những bộn bề cuộc sống, bởi vậy cần có những hành động cụ thể để đem tình yêu thương đó vào thực tiễn.

- Khi cả xã hội đối xử với nhau tràn ngập tình yêu thương cuộc sống sẽ trở nên đẹp đẽ hơn, hạnh phúc hơn.

Câu 4:

Mỗi học sinh có thể tự rút ra cho mình những bài học khác nhau từ nội dung đoạn trích. Sau đây là một vài gợi ý:

- Tình yêu thương khi được lan tỏa sẽ đem lại những tác động tích cực cho cộng đồng xã hội.

- Mỗi chúng ta cần sống một cách tử tế, luôn yêu thương, sẵn sàng giúp đỡ những người xung quanh bằng sự chân thành.

II. LÀM VĂN

Câu 1:

* Giới thiệu vấn đề

* Giải thích vấn đề

- Sống tử tế: là sống tốt với những người xung quanh, sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ mọi người, không chỉ biết đến cá nhân mình, những việc tử tế làm phục hồi các giá trị đạo đức chân chính, hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội tốt đẹp.

=> Sống tử tế là lối sống tốt đẹp, cần có trong mỗi con người để làm xã hội ngày một tốt đẹp hơn.

* Bàn luận vấn đề

- Sự cần thiết của việc lan tỏa lối sống tử tế:

+ Lối sống tử tế đem lại niềm vui, sự hạnh phúc cho chính bản thân mình. Tố Hữu đã từng nói: “Đã là con chim, chiếc lá/ Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh/ Lẽ nào vay mà không có trả/ Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”

+ Lối sống tử tế khi được lan tỏa sẽ khiến cho xã hội trở nên tốt đẹp hơn.

+ Biết yêu thương những người xung quanh, cho đi – nhận lại yêu thương là điều đẹp đẽ và tuyệt vời nhất đối với chúng ta.

+ Trong xã hội ngày càng phát triển, con người ngày một vô cảm, tình yêu thương giữa con người với con người ngày càng trở thành món quà xa xỉ thì việc lan truyền những người tử tế, việc tử tế càng trở nên quan trọng hơn.

- Những hành động cần thiết để thực hiện điều tử tế:

+ Luôn quan tâm, giúp đỡ những người quanh mình mà trước hết là giúp đỡ người thân: ông bà, cha mẹ,…

+ Sống chân thành, mở rộng tấm lòng, cho đi bằng sự chân thật, không nghĩ đến những lợi ích khác.

+ Lên án những kẻ sống hời hợt, ích kỉ, chỉ suy nghĩ cho riêng mình.

- Mở rộng vấn đề và liên hệ bản thân

+ Trong một môi trường sống đầy rẫy những việc không tử tế thì câu chuyện thực hành sự tử tế gặp không ít những thách thức. Tuy nhiên, tất cả đều có thể vượt qua nếu ta còn biết nghĩ đến mọi người. Tất cả chúng ta, dù ít dù nhiều, đều từng được hưởng sự tử tế hay ân huệ của cuộc đời. Lẽ nào ý thức về sự đáp đền không mảy may xuất hiện trong ta?

+ Em đã làm gì để thực hiện lối sống tử tế?

---(Để xem đầy đủ nội dung của Đề thi số 2 vui lòng xem online hoặc đăng nhập tải về máy)---

 

ĐỀ SỐ 3

I. ĐỌC HIỂU

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

... Bây giờ, tôi muốn bạn xem lại hai thực đơn mà lâu nay bạn cũng như xã hội vẫn dùng. Chúng ta đang chạy đua nhiều lúc quá sức cho thực đơn thể chất của chúng ta. Chúng ta tìm mọi cách để có được những thực phẩm tốt nhất, ngon nhất, và lạ nhất để phục vụ mình. Chúng ta thường cất câu hỏi: Hôm nay sẽ ăn gì? Thế nhưng, chúng ta hầu như không cất tiếng hỏi: Hôm nay chúng ta sẽ đọc gì, xem gì, nghe gì. Khi chúng ta kiếm được tiền thì hầu như chúng ta chỉ nghĩ đến việc hưởng thụ vật chất như ăn uống, mua sắm, tích lũy mà chúng ta quá ít nghĩ đến việc tổ chức một cuộc sống tinh thần. Nhiều người khi có một mảnh đất rộng thường xây một ngôi nhà càng to càng tốt mà không nghĩ đến một mảnh vườn để trồng cây và hoa và chim chóc đến ở...

Mới đây, tôi xem một bộ phim nói về một dự án của các sinh viên thuộc một số trường đại họ ở Tokyo Nhật Bản. Những sinh viên này lập ra một dự án có tên Dự án Phục hồi Kỷ niệm. Công việc của dự án là tìm lại những bức ảnh của các gia đình bị trận sóng thần trước đó cuốn đi. .. Có một người cha chỉ có duy nhất một đứa con gái nhưng đã bị sóng thần cướp đi sinh mạng. Ông không còn bất cứ tấm ảnh nào của con ông. Dự án Phục hồi Kỷ niệm đã tìm lại được một tấm ảnh con gái ông. Với ông, tấm ảnh đứa con gái bé bỏng của mình đã trở thành tài sản quý báu nhất của ông và làm cho nỗi đau đớn mất con của ông vơi đi rất nhiều. Vật chất và đời sống đầy đủ của nước Nhật không thể mang đến cho người cha kia hạnh phúc nhưng một kí ức đẹp đã cứu ông khỏi đau đớn và tuyệt vọng...

(Nguyễn Quang Thiều – Người Việt đang sống với tâm hồn khô cằn?)

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.

Câu 2: Hai thực đơn này được tác giả đề cập đến trong văn bản là gì?

Câu 3: Nhận xét của Anh/chị về Dự án Phục hồi Kỷ niệm của những sinh viên Nhật được đề cập trong đoạn trích trên.

Câu 4: Qua việc đọc hiểu đoạn trích trên, anh chị có nhận thức như thế nào về một cuộc sống hạnh phúc thực sự. 

II. LÀM VĂN

Câu 1

Từ nội dung đoạn trích trên, anh chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về những hậu quả của việc: Chúng ta quá ít nghĩ đến việc tổ chức một cuộc sống tinh thần.

Câu 2

Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau đây:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

(Tây Tiến – Quang Dũng – Ngữ Văn 12, Tập một)

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đình núi nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

(Việt Bắc – Tố Hữu – Ngữ Văn 12, Tập một)

---- HẾT ----

ĐÁP ÁN ĐỀ SỐ 3

I. ĐỌC – HIỂU

Câu 1:

- Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận.

Câu 2:

- Hai thực đơn này được tác giả đề cập đến trong bài là thực đơn thể chất (vật chất) và thực đơn cho cuộc sống tinh thần.

Câu 3:

- Học sinh trình bày nhận xét, quan điểm cá nhân, có thể dựa vào một số gợi ý sau:

+ Dự án này chính là một lời khẳng định vai trò to lớn của đời sống tinh thần đối với mỗi con người. Cuộc sống bề bộn với gánh nặng vật chất đôi khi làm người ta lãng quên đi những giá trị tinh thần vô giá. Dù vậy, đời sống tinh thần vẫn là yếu tố cần thiết và không thể thiếu để có cuộc sống hạnh phúc.

+ Đây là một dự án có ý nghĩa vô cùng to lớn, không chỉ đối với đất nước Nhật Bản mà còn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng sinh viên Nhật Bản ý thức được mối quan hệ giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần trong cuộc sống con người, là điều mà thế hệ trẻ hiện nay cần học hỏi.

Câu 4:

- Học sinh trình bày nhận xét, quan điểm cá nhân, có thể dựa vào một số gợi ý sau:

+ Một cuộc sống hạnh phúc thực sự là một cuộc sống có sự cân bằng, hài hòa giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần.

+ Yếu tố vật chất cần thiết cho cuộc sống hạnh phúc, tuy nhiên, con người cần biết sử dụng yếu tố vật chất như một phương tiện để tạo nên một đời sống tinh thần phong phú, giàu có.

II. LÀM VĂN

Câu 1:

* Giới thiệu vấn đề

* Giải thích vấn đề: Tinh thần là những gì thuộc về ý nghĩa, tình cảm,… thuộc về nội tâm của con người. Như vậy cuộc sống tinh thần có thể hiểu là những hoạt động để duy trì yếu tố tinh thần của con người.

* Khái quát thực trạng: Một thực trạng vô cùng đáng buồn hiện nay đó là con người ngày càng chạy theo những nhu cầu, mong muốn vô tận về vật chất mà bỏ quên việc phải xây dựng  đời sống tinh thần.

* Nêu hậu quả:

- Việc quá ít nghĩ đến việc xây dựng đời sống tinh thần sẽ dẫn đến việc đời sống tinh thần con người ngày càng trở nên khô héo, đơn điệu, nhàm chán.

- Quá ít nghĩ đến việc tổ chức một cuộc sống tinh thần cũng chính là nguyên nhân gây ra hiện tượng vô cảm trong cuộc sống ngày nay.

- Vô cảm, đời sống tinh thần đơn điệu, bị bỏ quên sẽ dẫn đến việc con người không biết cách cư xử với nhau, không biết đến lòng nhân văn nhân ái. Dễ mắc các thói kiêu ngạo, tàn nhẫn, vô tâm.

- Đời sống tinh thần con người không phong phú cũng góp phần làm cho hiệu quả công việc giảm sút, kìm hãm sự phát triển kinh tế cá nhân và xã hội.

* Giải pháp:

- Bồi đắp tâm hồn bằng những hoạt động nghệ thuật như: đọc sách, đọc thơ, nghe nhạc, ngắm tranh, trồng cây ...Hiểu một bài thơ hay, đọc một quyển sách hay, ngắm một bức tranh đẹp, nghe một bài nhạc đặc sắc v.v… đều làm cho ta có những cảm xúc tuyệt vời về cái Đẹp. Những cảm xúc tuyệt vời về cái Đẹp sẽ dẫn đến những hành động đẹp trong cuộc sống.

Câu 2:

1. Giới thiệu khái quát về hai tác giả, tác phẩm, đoạn trích:

- Quang Dũng (1921-1988), quê Hà Nội. Ông là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn. Tố Hữu (1920-2002), quê ở Huế, một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam với hồn thơ đậm đà tính dân tộc.

- Tây Tiến (1948), Việt Bắc (1954) đều là những thành tựu đặc sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp, đều là những bài ca không thể nào quên về một thời gian khổ mà hào hùng, hào hoa của lịch sử dân tộc.

- Hai đoạn thơ trên đều viết về nỗi nhớ của các tác giả với núi rừng Tây Bắc và một quãng đời không thể nào quên.

2. Phân tích:

a. Cảm nhận về đoạn thơ trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng:

* Nội dung:

- Trước hết là khung cảnh thiên nhiên:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”

+ Không gian được bao trùm bởi một màn sương giăng mắc trở nên mờ ảo, như hư, như thực. Sương chiều bảng lảng đầy thi vị, chứ không còn là “sương lấp đoàn quân mỏi” khi màn đêm buông xuống

+ Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử, chỉ có màu lau trắng trải dài tít tắp, phất phơ theo chiều gió thổi, xôn xao ẩn chứa những nỗi niềm của con người… Thiên nhiên như có linh hồn, “hồn lau” hài hòa với “hồn thơ” của những người lính đa cảm. Cũng có thể hiểu “hồn lau” là một ẩn dụ đặc sắc gợi về vẻ đẹp giản dị, gần gũi, hồn hậu của những con người miền Tây- những người lao động trên sông nước mênh mông.

- Trên nền thiên nhiên tĩnh lặng và thơ mộng đó nổi bật hình ảnh con người:

“Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

+ “Dáng người trên độc mộc” phải chăng đó là dáng hình mềm mại, uyển chuyển của thiếu nữ sơn cước trên chiếc thuyền độc mộc trên dòng sông Mã, tạo nên chất thơ làm tiêu tan vẻ dữ dội của “dòng nước lũ” hung hãn

+ Như để hoà hợp với con người, những bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên trên dòng nước xiết. “Hoa đong đưa” là một hình ảnh lạ, hoa lá vô tri như được thổi hồn vào, gợi ra ánh mắt lúng liếng tình tứ của những cô gái vùng núi xinh đẹp trẻ trung

=> Hình ảnh người đẹp thấp thoáng trong các khổ thơ đã điểm cho kí ức Tây Tiến chút lãng mạn, mơ mộng, khiến cho câu chữ trở nên mềm mại hơn và lòng người cũng nhẹ nhàng hơn…

- Những từ có thấy, có nhớ là những lời tự hỏi lòng mình đầy bâng khuâng, lưu luyến khi đã cách xa với Tây Tiến cả về không gian và thời gian…

* Nghệ thuật: Bút pháp lãng mạn được tác giả sử dụng một cách tinh tế khiến hình ảnh thiên nhiên và con người miền Tây hiện lên độc đáo…

b. Cảm nhận về đoạn thơ trong bài “Việt Bắc” của Tố Hữu:

* Nội dung:

- Đây là lời của người đi (những cán bộ kháng chiến đã từng gắn bó và công tác ở Việt Bắc, trong đó có Tố Hữu), khẳng định với người ở lại rằng: dù về xuôi, dù xa cách nhau về không gian địa lí nhưng vẫn nhớ Việt Bắc như nhớ người yêu. Từ đó, muốn nói nỗi nhớ của tình yêu là nỗi nhớ cháy bỏng, nỗi da diết nhất, thường trực nhất, để từ đó khẳng định nỗi nhớ và tấm lòng thủy chung của mình với Việt Bắc – suối nguồn nuôi dưỡng của cách mạng.

- Sau lời khẳng định là những hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc đẹp như khúc hát đồng quê. Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, bản khói cùng sương,… là hình ảnh rất đặc trưng cho khung cảnh núi rừng êm đềm, thơ mộng ở Việt Bắc. Trên cái nền trữ tình là hình ảnh con người Việt Bắc tần tảo, chịu thương chịu khó. Con người và thiên nhiên hài hòa gắn bó trong nỗi nhớ người về xuôi.

* Nghệ thuật:

- Các hình ảnh trong hoài niệm nhưng hiện lên thật cụ thể, rõ nét, chứng tỏ sự gắn bó sâu sắc và nỗi nhớ tha thiết.

- Thể thơ lục bát cùng với biện pháp so sánh, điệp từ… đã góp phần thể hiện sâu sắc nỗi nhớ và tấm lòng thủy chung của người về.

c. So sánh hai đoạn thơ:

- Sự tương đồng: Hai đoạn thơ tiêu biểu cho thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp, thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc, Tây Bắc và tình cảm gắn bó của tác giả đối với con người và miền đất xa xôi của Tổ quốc.

---(Để xem đầy đủ nội dung của Đề thi số 3 vui lòng xem online hoặc đăng nhập tải về máy)---

 

Trên đây là một phần trích đoạn nội dung Bộ 3 đề thi thử THPT QG môn Ngữ văn năm 2021 Trường THPT Nguyễn Hữu Thận. Để xem thêm nhiều tài liệu tham khảo hữu ích khác các em chọn chức năng xem online hoặc đăng nhập vào trang Chúng tôi.net để tải tài liệu về máy tính.

Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các em học sinh ôn tập tốt và đạt thành tích cao trong học tập.

Chúc các em học tập tốt !

Tham khảo thêm

Bình luận

Có Thể Bạn Quan Tâm ?