Truyện kể Tây Tạng dành cho học sinh tiểu học

1. Thầy tu và anh thợ mộc

Ngày xửa ngày xưa, xưa đến nỗi không ai còn nhớ nữa, tại một vương quốc nọ có một anh thợ mộc và một lão thầy tu.

Lão thầy tu là một kẻ độc ác và hám tiền. Một ngày đẹp trời nọ, lão ta tỉ tê bảo anh thợ mộc:

- Anh hãy xây cho ta một ngôi nhà, để thưởng công, ta sẽ cầu thần linh ban cho anh hạnh phúc.

- Những lời cầu nguyện của ông, tôi chả thiết! Anh thợ mộc cộc lốc đáp lời. Hạnh phúc và vận may của tôi là do đôi bàn tay và chiếc rìu này mang lại.

“Mi chẳng mất gì để mà chờ đợi”, thầy tu hậm hực nghĩ bụng, “mi sẽ phải trả giá vì thói hỗn xược của mình!” Ngày đêm lão ta nghĩ cách trả thù anh thợ mộc. Sau cùng lão ta cũng tìm ra. Lão ta tâu với nhà vua:

- Tâu hoàng thượng, thần xin được mạn phép tâu rằng, hôm qua, thần đã ở trên trời. Thần đã gặp ai? Chính là nhà vua quá cố, phụ hoàng của hoàng thượng. Mọi sự đều rất tốt đẹp, trừ việc Người nói với thần Người muốn cho xây một ngôi đền, nhưng như hoàng thượng đã rõ, trên trời không có nhiều thợ mộc. Vì thế Người khẩn thiết yêu cầu hoàng thượng gửi cho Người anh thợ mộc của hoàng cung, vì anh là một thợ mộc tài hoa.

- Tại sao không, nhà vua đồng ý ngay lập tức. Nhưng làm thế nào gửi anh thợ mộc lên cho Người bây giờ?

- Xin hoàng thượng đừng lo! Các thầy tu chúng thần ít nhiều có kinh nghiệm trong những chuyện thế này, thầy tu trình bày kế hoạch của lão ta với nhà vua. Thần sẽ làm một cái lều gỗ nhốt anh thợ mộc vào trong, xếp quanh lều một đống củi lớn rồi châm lửa. Khi lều bén lửa, một làn khói trắng sẽ bốc lên trời. Trên làn khói ấy, như cưỡi trên mình ngựa, anh thợ mộc sẽ lên hầu đức vua quá cố.

Nhà vua chấp thuận và sai báo cho anh thợ mộc biết.

- Tôi có thể làm gì được, khốn khổ thân tôi, anh thợ mộc than thở với vợ khi trở về nhà. Lão thầy tu muốn tôi chết.

- Mình có thể làm gì ư? Có khó gì! Chị vợ bảo chồng. Ngay tối nay, chúng mình sẽ đào một đường hầm từ nhà chúng mình đến cái lều gỗ người ta đang dựng. Ngày mai, mình sẽ nhanh chóng trở về theo đường hầm ấy!

Ngày hôm sau, người ta đến tìm anh thợ mộc, nhốt anh vào trong lều, xếp củi xung quanh và châm lửa. Khi khói trắng bắt đầu bốc lên, thầy tu la toáng:

- Hãy nhìn kìa! Chính anh ta đấy, Người trông thấy anh ta phải không? Người có thấy anh ta vội vã lên trời, trên con ngựa bạch không?

Chẳng ai thấy gì ngoài khói. Nhưng mọi người đều làm như trông thấy anh thợ mộc trên con ngựa của anh.

Trong khi đó, anh thợ mộc về nhà theo con đường hầm, nấp kĩ sau lò sưởi, suốt một tháng không thò mũi ra ngoài, suy nghĩ cách trả thù thầy tu. Sau một tháng. Anh ra trình diện đàng hoàng trong cung vua. Ai nấy nhìn anh tròn mắt, nhất là lão thầy tu.

- Ngươi đã về đấy à? Nhà vua ngạc nhiên hỏi.

- Như hoàng thượng đã thấy, thần từ trên trời về thẳng đây, anh thợ mộc trả lời và cung kính cúi đầu. Xây ngôi đền thật là vất vả! Tâu hoàng thượng, trên trời, họ làm ăn còn lạc hậu lắm. Nhưng thần đã xây dựng xong cho đức vua quá cố một ngôi đền. Người rất hài lòng. Hiện giờ, Người chỉ còn một yêu cầu, thần xin tâu lên hoàng thượng. Trong ngôi đền mới, cố nhiên phải có một thầy tu. Hoàng thượng biết rõ hơn ai hết: Một ngôi đền mà không có thầy tu là điều không sao tưởng nổi. Thêm nữa, đức vua quá cố không chấp nhận một thầy tu bất kỳ nào trong ngôi đền đẹp đẽ trên trời của Người. Phải là một thầy tu vĩ đại! Đức vua quá cố của Người muốn có thầy tu của hoàng cung, bởi người ta đã đồn lên tận trời vinh quang và trí tuệ thông thái của ông.

- Chắc chắn ta có thể dâng lên Người thầy tu của ta, nhưng làm thế nào gửi ông ta lên trên ấy?

- Như cách của thần, tâu hoàng thượng, như cách của thần! Anh thợ mộc trả lời, vờ như ngây thơ. Đó là cách nhanh nhất.

Thầy tu sợ tái xanh tái tử, nhưng không thể nào thoái thác. Lão ta chặc lưỡi: “Dẫu sao, nếu gã thợ mộc có thể từ trời về được, tại sao ta lại không?” Ngây thơ, lão để mặc mọi người nhốt mình vào lều và nổi lửa.

Ngọn lửa bùng lên cao, cao mãi, một cột khói đen nặng bốc lên, mang theo lên trời linh hồn đen tối của lão thầy tu độc ác.

2. Bức tranh gấm

Một hôm bà mẹ bán hết hàng sớm hơn thường lệ. Đang lang thang trong chợ tìm người bán gạo rẻ, chợt bà chú ý đến một bức tranh lớn treo trong một cửa hiệu.

Xưa kia, trong một vùng cằn cỗi dưới chân núi, có một bà góa nghèo sống cùng ba người con trai. Người con cả là một tên vô tích sự, người con thứ hai chẳng hơn gì, duy chỉ có người con út là thương người và siêng năng, thường cố sức mình giúp mẹ. Bà mẹ dệt suốt ngày, dưới những ngón tay khéo léo của bà nở ra muôn bông hoa đẹp, vô số chim chóc và đủ loại muông thú. Bà mang những tranh gấm ra chợ tỉnh gần đấy và đổi lại đủ tiền nuôi các con cùng bản thân. Người con út thường vào rừng kiếm củi, nhưng hai anh lớn thì lười biếng chỉ nằm ườn sưởi nắng chờ mẹ cho ăn.

Một hôm bà mẹ bán hết hàng sớm hơn thường lệ. Đang lang thang trong chợ tìm người bán gạo rẻ, chợt bà chú ý đến một bức tranh lớn treo trong một cửa hiệu. Bà đến gần để xem kĩ hơn. Bức tranh thể hiện một ngọn núi giống như ngọn núi sau làng bà, nhưng dưới chân núi, không phải những mái tranh nghèo lụp xụp mà là những ngôi nhà nhỏ đẹp đẽ, sạch sẽ, quây quần. Ngôi nhà đẹp nhất có nhiều tầng, sừng sững giữa một mảnh vườn có con suối lấp lánh ánh bạc chảy qua, với một chiếc hồ nhỏ nơi đàn cá đỏ bơi lội tung tăng. Trong sân gà vịt, gia cầm quanh quẩn kiếm ăn, những con cừu trắng gặm cỏ trên đồi, những cánh đồng ngô vàng rực trải dài ngút tầm mắt. Bên trên bức tranh trữ tình, tỏa sáng một vầng mặt trời đỏ rực.

Bị chinh phục bởi bức tranh đẹp, bà mẹ không thể rời mắt. Chẳng kịp nghĩ ngợi, bà dốc hết số tiền vừa bán gấm ra mua bức tranh. Trong túi chỉ còn vài đồng, bà đong ít gạo mang về. “Chỉ một lần”, bà tự nhủ, “chẳng phải gì ghê gớm. Lần sau, ta sẽ chuẩn bị cho các con món gì đó tươm tất hơn.” Trên đường về, chốc chốc bà lại dừng bước, giở cuộn tranh ra ngắm nghía. Sao mà những ngôi nhà sáng rỡ đến thế, sao mà dòng suối lấp lánh đến thế, bà đếm xem có bao nhiêu gà, bao nhiêu vịt, bà thán phục mảnh vườn rau tươi tốt, đến gần nhà, bà như ngửi thấy mùi hương hoa lung linh trong vườn. Cảnh trong tranh khiến bà sung sướng như chưa từng sung sướng thế trong đời.

Về nhà, bà mẹ treo tranh ngoài cửa. Bà không thể rời mắt. Hai người con lớn càu nhàu, chúng thấy thật lố bịch khi phí tiền mua một bức tranh, nhưng người con út tuyên bố:

- Con chúc cho mẹ có được căn nhà như trong tranh, với một mảnh vườn đẹp như thế. Nếu là mẹ, con sẽ dệt một bức tranh gấm theo mẫu này. Khi dệt căn nhà, những bông hoa, dòng suối, đàn gà, mẹ sẽ có cảm tưởng có những thứ đó thực.

- Đừng làm mẹ kích động, người anh cả ngáp dài. Nếu mẹ dệt chỉ vì ý thích thì lấy đâu ra tiền mà sống?

- đúng thế, người anh thứ hai phụ họa, nếu mẹ muốn sống như một quý phu nhân thì hãy chờ kiếp sau. Có thể sẽ sung sướng hơn hiện nay.

Nhưng ý của người con út khiến bà xiêu lòng.

- Đừng sợ mẹ làm khổ các con, bà dỗ dành. Mẹ sẽ dệt theo sở thích buổi tối và sáng sớm. Mẹ đã nuôi nấng các con cho đến nay, mẹ sẽ tiếp tục nuôi nấng các con. Dứt lời, bà đi mua những con chỉ đẹp nhất, và bắt tay vào dệt.

Suốt một năm dài bà mẹ ngồi bên khung cửi. Đêm nào bà cũng đốt một ngọn đuốc, khói cay làm mắt bà đỏ hoe, nước mắt trào ra. Từng giọt nước mắt trong như pha lê rơi xuống bức gấm bà đang dệt, bà hòa nhập chúng vào bức tranh. Bằng cách ấy, bà mẹ dệt bằng nước mắt con suối nhỏ và mặt hồ gợn sóng rập rờn.

Năm thứ hai, đôi mắt bà mẹ tội nghiệp rát bỏng đến ứa máu, những giọt nước mắt đỏ tươi rơi xuống bức gấm. Bà hòa nhập chúng vào tranh. Bằng cách ấy, bà dệt nên những bông hoa đỏ và mặt trời màu đồng chiếu sáng trên vòm trời.

Năm thứ ba, bức tranh gấm hoàn thành. Nó chứa đựng tất cả những gì có trong bức tranh mẫu. Một vùng ngợp màu xanh dưới chân ngọn núi cao, những căn nhà lấp lánh ánh bạc, những cánh đồng ngô vàng rực, những mảnh vườn rau, cây ăn quả, những bụi rậm điểm tô, và nơi rìa làng, thay vì căn nhà tồi tàn của bà mẹ là một tòa nhà to cao lừng lững, với những cột đỏ, cửa vàng và mái lam. Phía sau nhà, những con cừu gặm cỏ trên đồi xanh, cùng những con trâu, con bò, gà con vàng ươm, vịt con nô đùa trên cỏ, những chú chim rạch không trung sải cánh bay nhanh.

Lớp cảnh trước của bức tranh là một mảnh vườn cây cối xum xuê, hoa nở tưng bừng, chính giữa là một hồ nhỏ với đàn cá đỏ, từ đó phun ra một dòng suối lấp lánh ánh bạc chảy qua cánh đồng lúa. Phía sau làng là những cánh đồng ngô vàng rực, trải dài ngút tầm mắt. Tít trên cao, mặt trời màu đồng lấp lánh trên nền trời xanh.

Bà mẹ giụi cặp mắt đỏ hoe, nở một nụ cười mãn nguyện.

- Lại đây xem, các con, đẹp xiết bao!

Ba người con sán lại, trầm trồ thán phục.

- Nếu đem bán thì được bao nhiêu tiền vàng nhỉ? Người con cả hỏi.

- Với một món hàng thế này, có thể được món tiền khá đấy, người con thứ hai phụ họa. Nhưng người con út tuyên bố:

- Mẹ chúng ta đã xây cho chúng ta một ngôi nhà bằng gấm. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng và sống ở đó bằng tâm tưởng.

- Mẹ dệt bức tranh theo sở thích. Mẹ sẽ không bán cho ai cả. Nhưng ở đây, trong bóng tối, mẹ con ta không nhìn rõ những gì trên đó. Hãy mang ra ánh sáng.

Bà mẹ treo bức tranh gấm của mình ra ngoài. Tất cả màu sắc đều rực rỡ. Chỉ dưới ánh sáng ngày rất tỏ, người ta mới thấy bức tranh đẹp đến thế nào. Xóm giềng xúm lại ngắm nghía, ai nấy trầm trồ khen khiến bà mẹ cười sung sướng.

Thốt nhiên bà cảm thấy một làn gió mát mơn man trên má mình. Bức gấm rung rinh. Một cơn gió mạnh lay động nó như đập thảm và cuối cùng giật tung nó khỏi cánh cửa. Thoáng sau, bức tranh đã bay rất xa trong không trung.

Bà mẹ kêu lên và ngất đi. Xóm giềng chạy tản ra khắp nơi tìm bức tranh, những người con cũng tìm khắp xung quanh, nhưng không ai tìm được.

Sau hôm mất tranh, bà mẹ bắt đầu lang thang như một linh hồn chịu tội. Người con út cố hết sức phục hồi sức khỏe cho mẹ, nấu xúp gừng cho mẹ ăn, nhưng bà vẫn suy sụp đi trông thấy.

Một thời gian sau, bà gọi người con cả đến, bảo:

- Con ơi, nếu con muốn mẹ còn sống thì hãy đi tìm bức tranh gấm mang về đây. Không có nó, khác nào mẹ mất nửa cuộc đời.

Người con cả xỏ dép và đi về phía Đông. Sau một tháng anh ta đến một hẻm núi, nơi đó có một căn lều đá. Trước lều có một con ngựa vươn cổ lên bụi dâu tây. “Tại sao con ngựa không ăn quả dâu tây?” người con cả tự hỏi. “Tại sao nó đứng đấy, vươn cổ, há mõm?” Lại gần hơn, anh ta nhận ra con ngựa là ngựa đá. Người con cả hết sức ngạc nhiên. Anh ta đứng thần người, sửng sốt ngắm nhìn con ngựa đá và căn lều đá, bỗng một bà già tươi cười xuất hiện trên ngưỡng cửa:

- Con tìm gì ở đây, con trai của ta? Bà niềm nở hỏi.

- Con tìm một bức tranh gấm do mẹ con dệt, người con cả đáp. Bức tranh thể hiện cảnh một ngôi nhà, một dòng suối, một mảnh vườn, đàn gia cầm, mặt trời và những bông hoa. Vì bức tranh ấy, chúng con đã ăn không ngon, ngủ không yên suốt ba năm ròng, mẹ con vừa dệt xong thì gió cuốn đi mất, có Trời biết là đi đâu. Mẹ sai con đi tìm. Tình cờ bà có thấy nó ở đâu không?

- Có, ta có biết, bà già nhún vai nói. Các nàng tiên Núi Mặt trời đã mượn bức tranh ấy đấy! Các nàng muốn dùng nó làm mẫu để mỗi nàng thêu một bức gấm đẹp.

- Con hài lòng được biết phải đi đâu mà tìm, người con cả thở phào nhẹ nhõm. Bà có thể chỉ đường cho con đến Núi Mặt trời không? Con sẽ đến thẳng nơi ấy, xong mới yên tâm được.

- Nói thì dễ, làm thì khó đấy, bà già cười khe khẽ. Muốn đến Núi Mặt trời, con không có cách nào khác là cưỡi con ngựa này.

- Nhưng con ngựa này bằng đá! Người con cả nhận xét.

- Không quan trọng, bà già nói. Con ngựa sẽ hồi sinh, nếu con trồng vào lợi nó răng của con để nó có thể ăn được mười quả dâu. Nếu con muốn, ta có thể đánh rụng răng con bằng hòn đá này.

Người con cả sợ hãi nhìn bà già. Đầu gối anh ta run lẩy bẩy.

- Cái đó còn chưa thấm vào đâu, bà già tiếp tục, không để ý đến vẻ sợ hãi của anh chàng. Trên con ngựa này, con phải băng qua một núi lửa, phải vượt qua một biển băng, thoát khỏi biển băng con sẽ thấy Núi Mặt Trời và các nàng tiên. Nhưng nếu dọc đường con chỉ thở dài một tiếng thì hoặc lửa sẽ đốt con thành tro bụi, hoặc những tảng băng sẽ tiêu diệt con, hoặc sóng biển sẽ nhận chìm con.

Người con cả vội lùi lại một hai bước, nhìn con đường mình vừa đi tới. Bà già mỉm cười:

- Nếu trái tim con không mách bảo thì đừng khiên cưỡng! Tốt hơn hãy trở về nhà. Ta sẽ cho con một hộp nhỏ đầy tiền vàng để đi đường.

- Bà sẽ cho con tiền vàng, không phải đổi gì sao? Người con cả sững sờ hỏi.

- Phải, không đổi gì cả. Hoặc nếu muốn, để con có cái ăn khi đói, bà già lạ lùng trả lời.

- Chúa tôi, nếu quả vậy, con ưng quay về nhà... Người con cả cầm lấy tiền và biến mất bằng con đường đã đưa anh ta đến.

Đến ngã tư, anh ta tự nhủ: “Số vàng này, cho một người thì đủ, nhưng nếu chia tư thì ít quá. Ta ưng ra thành phố hơn là về nhà. Ta sẽ sống như một lãnh chúa!” Thế là anh ta ra thành phố.

Thấy lâu quá mà con cả không trở lại, bà mẹ bảo người con thứ:

- Anh con chu du, chẳng biết đi đâu? Có lẽ nó đã quên chúng ta rồi. Con trai, con hãy đi tìm cho mẹ bức tranh gấm.

Người con thứ xỏ dép và lên đường. Anh ta đi một ngày, một tuần, một tháng và đến túp lều đá. Anh ta trông thấy con ngựa đá vươn cổ lên những quả dâu. Một bà già hiện ra trên ngưỡng cửa, hỏi:

- Trận gió lành nào đưa con đến nơi này, con trai của ta?

- Con tìm bức tranh gấm mẹ con dệt. Gió đã cuốn đi.

- Anh cả con đã qua đây, bà già thở dài, nhưng nó sợ đi đoạt lại bức gấm phải qua lửa, qua băng, phải cưỡi trên con ngựa này.

- Nhưng đây là con ngựa đá?    

- Nếu con chịu nhổ răng bằng một hòn đá, để ta có thể trồng răng của con cho con ngựa, ngay khi con ngựa ăn được mười quả dâu, nó sẽ sống lại và mang con đến bên các nàng tiên của Núi Mặt Trời. Các nàng sẽ trả con bức tranh.

- Chỉ còn thiếu nước ấy nữa thôi, con sẽ bị nhổ răng! Người con thứ hoảng sợ. Con ưng quay về nhà hơn.

- Nếu vậy, ta sẽ cho con một hộp tiền vàng. Anh con cũng đã được ngần ấy.

 “Chính vì lẽ đó mà anh trai ta không trở về nhà,” người con thứ nghĩ bụng. “Anh ấy làm thế là đúng. Anh ấy hưởng tiền một mình.” Người con thứ cầm hộp tiền vàng bà già cho, lễ phép cảm ơn, rồi ba chân bốn cẳng chuồn mất. Đến ngã tư đường, anh ta không do dự một giây, đi thẳng ra thành phố. “Giờ đây, ta sẽ tận hưởng thời vận của ta!” anh ta khấp khởi mừng thầm. “Tại sao ta phải chia sẻ cho người khác?”

Một tháng nữa lại trôi qua, bà mẹ gọi con út đến và bảo:

- Con ơi, mẹ giờ yếu như một con ruồi. Nếu không tìm lại được bức gấm, mẹ sẽ không cầm cự được bao lâu nữa. Hai anh con đi rong chơi, chẳng biết ở nơi nào? Chắc chúng không còn nghĩ gì đến chúng ta. Con vẫn là đứa con mẹ tin cậy nhất. Con hãy đi tìm bức gấm cho mẹ.

Người con út xỏ dép và lên đường. Chàng đến hẻm núi, nơi phía trước căn lều đá có con ngựa đá đang vươn cổ lên chùm dâu, và trên ngưỡng cửa là một bà già nhỏ bé như chờ chàng. Bà chào đón chàng và nói:

- Đường đến bức tranh gấm rất gian nan. Hai anh con đã ưng nhận của ta mỗi người một hộp tiền vàng, đi ra thành phố rồi.

- Con không sợ gì hết, con không cần vàng. Tiền vàng không trả lại cho mẹ con sức khỏe. Con phải làm gì đây để lấy lại bức tranh gấm cho mẹ mình?

Bà già nói cho người con út biết đường đi phải qua lửa và đá băng. Bà cũng nói muốn làm con ngựa sống lại phải cho nó răng của chàng. Bà chưa dứt lời chàng trai đã lấy một hòn đá đập gẫy răng mình, cấy vào hàm ngựa. Con ngựa sống lại, ăn mười quả dâu. chàng trai nhảy lên mình ngựa phi nhanh như gió.

- Đừng quên con không được thở dài một tiếng, ngay cả khi lửa liếm vào con và băng làm sầy da con, nếu thở dài con sẽ chết! Bà già nhỏ bé gọi với theo.

Mệt đứt hơi, chàng trai phi ngựa càng lúc càng sâu vào vùng núi đá, đến một nơi lửa phun ra từ lòng đất. Chàng trai thúc ngựa, vượt qua bức tường lửa. Lửa thiêu đốt chàng, làm chàng ngạt thở, nhưng chàng không thở dài một tiếng nào. Khi chàng tưởng lửa sắp thiêu chết mình thì con ngựa nhảy một bước dài, chưa kịp hiểu rõ sự tình đã thấy cả người cả ngựa trên một con đường mòn râm mát giữa các tảng đá. Người con út lau mồ hôi trán, hít đầy lồng ngực không khí mát lành, rồi thúc ngựa, tiếp tục cuộc hành trình. Thày trò đi như thế rất lâu, lâu lắm, đến khi chàng trai cảm thấy một luồng khí lạnh. Xa xa nghe có tiếng ầm ầm. Chàng trai lại thúc ngựa. Thầy trò phi như gió, chợt con đường kẹt giữa những mỏm đá nhô ra. Con ngựa dừng lại. Chàng trai rét run, đưa mắt nhìn xung quanh. Thầy trò đang đứng trước mênh mông biển sóng. Nhìn đến ngút tầm mắt, phía trước họ một biển băng vô tận, với những núi băng trôi khổng lồ đầy đe dọa, va vào nhau răng rắc. Xa tít tắp phía bên kia biển băng, có thể hình dung một ngọn núi xanh chan hòa ánh nắng mặt trời. “Núi Mặt Trời!” người con út reo lên. “Mau, ngựa tốt của ta, phải gấp lên, chúng ta gần đến nơi rồi!” Con ngựa nhảy không do dự xuống làn sóng băng. Khối băng chuyển động đốt cháy và cào xước da chàng kị sĩ, những con sóng xô đẩy chàng, đe dọa đánh ngã chàng. Nhưng chàng trai mím chặt môi, không một tiếng thở dài. Khi chàng tưởng mình sắp chìm ngập trong băng thì con ngựa vừa tới bờ. Mặt trời ấm áp tức thì sấy khô quần áo chàng, làm liền sẹo các vết thương của chàng và trước khi kịp hiểu ra sao, chàng đã ở trên đỉnh núi. Trước mặt chàng lấp lánh một tòa lâu đài pha lê. Tiếng cười, tiếng hát của các thiếu nữ vẳng đến từ ngoài vườn.

Chàng trai qua cổng sân chầu, đoạn nhảy xuống ngựa. Chàng thấy trước mắt mình một đám các thiếu nữ vô cùng xinh đẹp đang dệt gấm. Bức tranh của mẹ chàng đặt ở giữa. Trông thấy chàng trai, các thiếu nữ bỏ khung cửi, xúm quanh cười đùa. Thiếu nữ trẻ nhất, mặc áo đỏ sẫm, chàng thấy đặc biệt dễ thương.

Giữa lúc đó, một phu nhân rất đẹp tiến lại gần chàng. Bà mặc một chiếc áo óng ánh như phản chỉếu của muôn tia nắng mặt trời trên biển. Mái tóc dài của bà được giữ bằng một chiếc lược vàng.

- Ta là Chúa tiên, bà nói. Chưa ai từng đến đây. Tại sao con thực hiện chuyến đi nguy hiểm này?

- Con đến tìm bức tranh gấm của mẹ con. Gió đã mang nó đến tận lâu đài của bà, và mẹ con đã ngã bệnh.

- Chẳng phải ngẫu nhiên gió cuốn bức tranh gấm của mẹ con đến đây, chính chúng ta đã ra lệnh cho gió. Chúng ta muốn dùng bức gấm ấy làm mẫu dệt cho mỗi chúng ta một bức tranh đẹp. Nếu con cho chúng ta đêm nay nữa, ngày mai con có thể mang bức gấm đi. Và trong lúc chờ đợi, con là khách của chúng ta, Chúa tiên mỉm cười nói.

Chàng trai sống trong một giấc mơ. Các nàng tiên xúm quanh chàng cười đùa. Các nàng cho chàng nếm rượu tiên và thức ăn nơi tiên giới, như các thánh thần được thế. Sau đó, các nàng nhanh chóng bắt tay vào  công việc. Các nàng dệt đến chiều tối. Khi hoàng hôn buông xuống, các nàng treo trên vòm trời một viên ngọc lấp lánh, chiếu sáng trong đêm, và các nàng lại dệt đến nửa đêm mới đi ngủ. Chàng trai kiệt sức vì bấy nhiêu cảm xúc, lăn ra ngủ li bì. Riêng nàng tiên trẻ nhất, nàng tiên chàng ưng ngay từ phút đầu, vẫn thức. Nàng ngắm nhìn bức tranh của bà mẹ, rồi bức tranh của mình, và thở dài. Không nàng tiên nào dệt được bức tranh đẹp như bức tranh của bà. Không dòng suối nào lấp lánh bằng dòng suối dệt bằng nước mắt của bà, không mặt trời nào chiếu tỏa bằng mặt trời thấm máu của bà. Nàng tiên trẻ nhìn chàng trai đang ngủ, và nảy ra một ý. Nàng lấy một sợi chỉ lụa, thêu trên bức tranh của bà mẹ một nàng tiên nhỏ mặc áo đỏ sẫm, đứng bên bờ hồ nhìn đàn cá đỏ.

Chàng trai trẻ thức giấc lúc nửa đêm. Gian phòng trống vắng. Giữa phòng chỉ có duy nhất bức tranh của mẹ chàng. Chàng trai chiêm ngưỡng bức tranh giây lát, rồi tự nhủ: “Tại sao phải đợi đến sáng mai? Mẹ ta đang ốm, và tình trạng của mẹ xấu đi từng ngày.” Chàng cuộn bức gấm luồn vào trong áo choàng, nhảy lên ngựa và trở lại con đường băng lửa. Sóng biển tuyệt vọng quăng về phía chàng những khối băng to nhất, núi lửa thè những lưỡi lửa chực nuốt chửng chàng. Chàng trai trẻ không hề thở dài và, trước khi kịp hiểu rõ sự tình, đã thấy mình đứng trước túp lều đá. Bà già bé nhỏ tươi cười chờ chàng trước ngưỡng cửa:

- Ta sung sướng thấy con trở về, con trai của ta. Con là một chàng trai tốt bụng và dũng cảm. Con đã đạt được điều con muốn. Ta sẽ trả lại răng cho con. Bà lấy răng trên hàm ngựa trồng lại vào hàm răng của chàng trai. Lập tức, con ngựa hóa đá.

- Con hãy cầm lấy, đây là đôi dép bằng da hươu, bà già tốt bụng bảo chàng. Xỏ đôi dép này vào, con sẽ nhanh chóng về tới nhà.

Chàng trai nồng nhiệt cảm ơn bà già nhân hậu đã tận tình giúp đỡ, đoạn xỏ đôi dép bằng da hươu và, chẳng biết bằng cách nào, chàng đã đứng trước căn nhà nhỏ thân thuộc. Trông thấy chàng, một bà hàng xóm chạy ra. Bà rầu rĩ nói:

- Thật tốt là cháu đã về. Ai biết mẹ cháu sẽ ra sao. Bà không ra khỏi nhà nữa, mắt sắp lòa rồi. Bác không biết...

Chàng trai chạy bổ vào nhà và kêu to: “Mẹ ơi, nhìn này, nhìn này!” Chàng lấy bức gấm trong áo giở ra. Gian phòng bừng sáng.

Biết con trai đã mang về cho mình bức tranh gấm, bà mẹ reo lên vui mừng. Lập tức bà khỏi bệnh. Bà xuống giường, ngạc nhiên thấy sức khỏe của mình phục hồi nhanh chóng. Bà nhìn bức tranh, đột nhiên bà thấy nó nhiều lần đẹp hơn, bà bảo con trai:

- Con hãy mang nó ra ngoài, để mọi người có thể nhìn nó rõ hơn.

Người con út mang bức tranh ra ngoài ánh sáng và giở. Màu sắc sáng ngời ngời. Thình lình, một trận gió nổi lên và bức tranh trải ra xa, xa hơn nữa, cuối cùng trùm lên toàn bộ cảnh vật xung quanh. Bà mẹ bước ra từ một ngôi nhà tầng đẹp đẽ. Bà nhìn quanh, mắt đẫm lệ hạnh phúc. Trải ngút tầm mắt, những cánh đồng ngô vàng rực đến tận chân núi, những đàn gia súc nhởn nhơ gặm cỏ, đám mây gà con vàng ươm tung tăng giữa bầy vịt con, một mảnh vườn đẹp có dòng suối chảy qua, và trong vườn muôn bông hoa đẹp nhất nở tưng bừng. Cảnh vật thiên nhiên y như trong bức tranh. Từ những căn nhà nhỏ lấp lánh ánh bạc, xóm giềng chạy ra, choáng ngợp, không thể tin vào điều kỳ diệu này.

Người con út nắm tay mẹ mình dắt ra vườn. Hai mẹ con bước chầm chậm đến bên bờ hồ nhỏ, không thể tin nổi trước bấy nhiêu điều kỳ ảo. Đột nhiên, người con sững sờ dừng bước, tim đập dồn dập. Bên hồ là nàng tiên nhỏ xinh đẹp áo đỏ sẫm, đang mỉm cười với chàng.

- Nàng từ đâu đến? Chàng trai hỏi. Nàng tiên cất tiếng cười trong veo, đoạn chớp chớp mắt thỏ thẻ.

- Em thêu mình trên bức tranh của mẹ chàng và chàng đã mang em theo. Vì bức tranh sống dậy nên em ở đây.

Bà mẹ nhìn nàng, hết sức sung sướng.

- Bây giờ, chúng ta đã có một ngôi nhà lớn, chỉ thiếu một cô con gái nữa thôi.

Nàng tiên nhìn chàng trai trẻ đang tiến lại phía mình.

- Nàng có thuận tình lấy ta không? Chàng khẽ hỏi. Nàng tiên gật đầu tỏ ý ưng thuận.

Một bữa tiệc lớn được tổ chức mừng hôn lễ. Ngoài xóm giềng, bà mẹ mời tất cả hành khất trong vùng. Hai người anh lớn cũng nghe phong thanh. Từ lâu họ đã tiêu xài hết những đồng tiền vàng, hoặc do thói quen được người khác nuôi, họ trở thành ăn mày. Về đến căn nhà xưa, thấy cảnh vật đổi thay, họ xấu hổ vì quần áo rách rưới, không dám vào. Họ bỏ đi xa, thế rồi mất tăm trong thế giới rộng lớn.

Người con trai út, cùng cô vợ tiên và bà mẹ, sống hạnh phúc trọn đời trong một miền trù phú dưới mặt trời ấm áp.

3. Cô gái có hoa dẻ trắng

Gần con sông lớn Tsangpo, trong một vùng đầy thú dữ có một người thợ săn chỉ có một con trai độc nhất tên là Losang. Vốn khéo léo và dũng cảm, chàng được cha cho đi săn cùng từ khi còn là một chú bé.

Gần con sông lớn Tsangpo, trong một vùng đầy thú dữ có một người thợ săn chỉ có một con trai độc nhất tên là Losang. Vốn khéo léo và dũng cảm, chàng được cha cho đi săn cùng từ khi còn là một chú bé. Tròn tuổi hai mươi, chú bé trở thành một chàng thanh niên nhanh nhẹn và hăng như cọp núi, cử động mau lẹ như hươu, về tài bắn cung thì trong vòng nhiều dặm không ai sánh bằng. Vì chàng mảnh dẻ như một cây tre, lại có cặp mắt to, thẫm màu và u buồn, tất cả các cô gái trong vùng đều để ý tới chàng, nhưng Losang không quan tâm đến một ai.

Một ngày nọ, chàng đang nằm dài bên bờ sông uể oải nhai một nhánh cỏ, nhìn đám lau sậy rập rờn nhè nhẹ trong gió, bỗng thấy một con diệc trắng bay lên khỏi mặt nước. Lập tức, chàng giương cây cung ngắm và ph...ự...ư...t! mũi tên bay đi. Con diệc trắng kêu lên một tiếng não lòng và rơi xuống giữa sông, dòng nước cuốn nó đi. Con chim biến mất trước khi chàng trai trẻ kịp phản ứng. Losang nhìn rất lâu dòng nước đã cuốn con chim đi, lòng buồn lạ lùng. Cùng lúc đó, trên bờ bên kia xuất hiện một thiếu nữ. Nàng gài trên tóc một bông hoa dẻ trắng và cầm trong tay một chiếc xô làm bằng vỏ cây bulô. Nàng cúi mình xuống sông múc nước đầy xô, mỉm cười với chàng trai trẻ và cất tiếng hát:

“Chàng có con mắt sẫm màu và u buồn,

Thế nhưng hạnh phúc đang đợi chàng.”

Từ bờ bên này, Losang nghe rõ lời bài hát của thiếu nữ.

Chàng chỉnh cây cung và ph...ự...ư...t! Mũi tên xuyên qua xô. Nước phun ra từ lỗ thủng. Thiếu nữ cố lấy tay bịt giữ nước, nhưng vô ích. Nàng cáu anh chàng trâng tráo:

- Chàng không có việc gì hay hơn để làm ư? Cha chàng có con ngựa bảy cựa, nếu chàng cưỡi được nó thì ít ra cũng có cái để mà huyênh hoang.

Dứt lời, nàng xách xô quay trở lại con đường từ đó nàng vừa đến. Losang dõi theo cho đến khi bóng nàng mất hút sau những ngọn núi xám xa xa.

Tối đó về nhà chàng thưa chuyện với cha già:

- Thưa cha, hãy cho con mượn con ngựa bảy cựa của cha. Con muốn cưỡi nó.

- Con nghĩ gì vậy, con trai? người cha lo ngại, hỏi. Làm sao con biết con ngựa đó? Cha chưa bao giờ nói cho con biết, vậy mà, bây giờ, đột nhiên con yêu cầu cha cho con cưỡi.

- Con nghe đồn cha có con ngựa ấy. Dân làng sẽ chế nhạo con. Họ sẽ nói rằng con sợ. Nếu cha đã từng cưỡi thì con cũng có thể. Cha thực lòng tin con sẽ không thể hay sao?

- Cha biết, cha biết lắm, người cha lo lắng nói, nhưng cưỡi con ngựa ấy là đùa với tính mệnh mình đấy. Chính cha đã phải từ bỏ bao nhiêu năm nay.

Hai cha con bàn cãi rất lâu, cho đến khi người cha đành ưng thuận.

- Con nghe kĩ đây, người cha thở dài cam chịu, con có trông thấy dãy núi ở phía chân trời kia không? Cứ đi về hướng ấy, khi nào con vượt qua ba đỉnh núi và ba thung lũng, con sẽ tới Núi Đá Vàng. Tít trên cao, con sẽ thấy một lòng chảo lớn đầy nước, chắc chắn con ngựa ở gần đấy. Nhưng nếu lòng chảo cạn khô, con sẽ thấy con ngựa bên bờ ao, dưới chân núi. Nhất là, con phải hết sức đề phòng!

- Cha yên tâm, con sẽ hết sức đề phòng! Người con hứa và lập tức lên đường. Chàng dễ dàng tìm ra Núi Đá Vàng, rồi lòng chảo mãi trên cao: Nhưng lòng chảo cạn khô và con ngựa không ở đấy. Losang chầm chậm đi xuống phía ao. Bất thần, mặt đất rung chuyển và, ở khúc quanh của con đường, một con thú lớn xuất hiện. “Không phải ngựa mà là một con quái vật”, chàng trai trẻ nhủ thầm. Con ngựa nhìn chàng bằng đôi mắt to như đôi bánh xe, lông bờm của nó cho đến lông đuôi như những sợi chão lớn, dài quét đất. Con ngựa lao vào Losang. Chàng trai vừa hay nép mình sau một tảng đá. Con ngựa vụt qua trước mặt chàng như cơn gió lốc, bờm quét sỏi trên đường, móng tóe lửa.

“Ta không thể cưỡi lên mình nó nếu cứ như thế này. Nhưng ta không sợ!” chàng bực mình rượt theo con ngựa. Con vật quất mạnh bộ bờm lớn khiến chàng không tài nào lại gần. Losang suy nghĩ giây lát rồi trèo lên một cây thông rừng bên đường. Khi con ngựa lao đến gần cây thông, chàng buông mình rơi từ cành cây xuống lưng ngựa, bám chặt lấy bộ bờm. Con ngựa lồng lên man dại, vật bộ bờm như một ngọn roi, cày móng nát đất, nhưng chàng trai níu vững. Hoàng hôn buông xuống, cuối cùng con ngựa cũng dịu dần. Toàn thân nó run rẩy, nhưng khi Losang vỗ vào cổ thì nó tiến lên, vâng lời như một con cừu.

Người cùng ngựa đến sông lớn Tsangpo đúng vào lúc, trên bờ bên kia, thiếu nữ có hoa dẻ trắng múc nước đầy xô. Losang giương cung, nheo mắt ngắm và ph...ự...ư...t! Một lần nữa mũi tên xuyên thủng chiếc xô bằng vỏ cây bulô.

Thiếu nữ ngẩng đầu lên, trông thấy chàng trai và con ngựa khổng lồ.

- Cưỡi trên mình ngựa chẳng có gì ghê gớm! Tiếng nói của thiếu nữ vang khắp mặt sông. Cách đây hai ngàn dặm có một con sông khác, nơi ấy có người đẹp Boumo: Sẽ là vị hôn thê của chàng đấy! Nàng đã có nhiều kẻ cầu hôn, nhưng chỉ có chàng là người Boumo chờ đợi! Nếu chàng đến tận nơi, nàng sẽ chọn chàng. Nhưng liệu chàng có dám đến đấy không? Em ngờ đấy! Chàng chỉ giỏi bắn tên vào xô của các cô gái thôi!

Nói xong mấy lời trên, nàng quay người và rảo bước xa dần, chẳng mấy chốc đã biến mất, như thể bị những ngọn núi xám nuốt chửng.

Losang giong ngựa về nhà, nhưng chẳng gì có thể làm chàng vui được nữa. Chàng thậm chí không để tâm đến lời khen của cha. Chàng đột ngột bảo cha:

- Cha ạ, con sẽ đi tìm Boumo. Hình như nàng sống cách đây hai ngàn dặm bên bờ một con sông và nàng sẽ lấy con làm chồng.

- Con lại nhồi nhét cái gì vào đầu vậy? Người cha chắp tay kêu trời. Rất nhiều chàng trai khác đã thử vận may trước con, nhưng tất cả đều về tay không. Không một con đường nào dẫn đến đó, khắp nơi là những hiểm nguy dễ khiến con người ta bỏ mạng. Còn tệ hơn là khuất phục ba con ngựa như thế kia.

- Chính vì thế mà con muốn đến tận nơi, để không một ai còn có thể nhạo báng con.

Chàng ra khỏi căn nhà tranh, đợi cha ngủ say rồi lặng lẽ chuẩn bị cho chuyến đi. Khi bầu trời bắt đầu rạng hồng về phương đông, chàng nhảy lên con ngựa khổng lồ. Con ngựa giậm chân bồn chồn, lát sau nó phi nước đại làm bốc lên một luồng mây bụi.

Khi người cha thức giấc thì chàng kỵ sĩ và con ngựa đã ở xa lắm rồi.

Losang trước tiên đến con sông nơi thiếu nữ lạ thường lấy nước. Chàng cùng ngựa bơi qua sông. Sang bờ bên kia, chàng phi tới những ngọn núi xám, nơi thiếu nữ luôn biến mất. đi sâu vào núi, chàng cảm thấy mặt đất rung chuyển dưới vó ngựa. Chàng giụi mắt, ngỡ ngàng: Không phải những ngọn núi, mà là lưng một con rồng khổng lồ bằng đất sét! Con rồng uốn mình và bằng các vòng uốn lớn hết cuộn lại duỗi tới chỗ có ba mươi tám thiếu nữ xinh đẹp đang nắm tay nhau.

Losang quá sửng sốt nấp vội sau một tảng đá, nhưng các thiếu nữ đã trông thấy chàng. Họ van xin:

- Hỡi người anh hùng trên mình ngựa khổng lồ, hãy bảo vệ chúng em! Không có sự giúp đỡ của chàng, không bao giờ chúng em có thể trở về nhà, không có chàng, tất cả chúng em sẽ chết!

- Làm thế nào ta có thể giải cứu các nàng? Không vũ khí nào có thể giết chết một con quái vật như thế này. Ta sẽ thử phóng một mũi tên, nhưng không chắc sẽ hạ được nó!

Các thiếu nữ nín thở quan sát Losang giương cung ngắm hồi lâu, đoạn buông tên. Ph...ự...ư...t! Mũi tên cắm phập vào đầu con rồng. Con rồng vặn mình điên dại, máu đen phun trào từ vết thương của nó mạnh đến nỗi bật vào ngực chàng trai. Losang kêu lên đau đớn, đổ vật xuống choáng váng lăn lộn dưới vó ngựa.

Các thiếu nữ xinh đẹp khóc lóc nỉ non. Nhưng thiếu nữ trẻ nhất trấn an họ và nói dịu dàng:

- Nhanh lên, các chị của em, chạy đi tìm nước cứu người anh hùng của chúng ta!

Bản thân nàng cúi xuống đầu rồng, rứt viên ngọc lấp lánh từ trán con vật nhơ bẩn. Nàng đặt viên ngọc lên ngực chàng trai đang ngất lịm đi.

Losang thở một hơi dài và mở mắt. Ba mươi tám khuôn mặt thiếu nữ xinh đẹp vây quanh chàng. Cô lớn tuổi nhất nói:

- Chàng đã cứu chúng em, chàng trai trẻ, chúng em muốn thưởng công chàng. Hãy chọn một người trong số chúng em, người đó sẽ lấy chàng làm chồng.

- Ta không thể nhận, Losang đứng dậy. Ta đã có một vị hôn thê. Nàng Boumo nào đấy. Ta đến đây chính để tìm nàng.

- Hãy cho chúng em biết, chàng đang nói về Boumo nào? Cô lớn tuổi lại hỏi. Chàng đã nhìn kỹ chúng em chưa? Chúng em là những thiếu nữ xinh đẹp nhất vùng, vì thế mà con rồng chọn chúng em. Chẳng lẽ không ai trong chúng em làm chàng vừa lòng?

Losang không muốn làm phật lòng họ bèn nói:

- Được, ta sẽ chọn một trong các nàng. Chàng nhìn họ. Thiếu nữ trẻ nhất đứng cúi đầu phía sau. Đó là cô gái đã rứt viên ngọc trên đầu rồng. Đột nhiên, nàng gợi cho Losang nhớ đến một ai đó.

- Ta sẽ mang cô gái này theo, chàng quyết định.

- Đó là người trẻ nhất trong số chúng em và cũng xinh nhất, cô lớn tuổi mỉm cười. Vậy thì, các em, hãy chuẩn bị cho chàng quà đi đường.

Họ nhào bột bọc viên ngọc lấp lánh vào trong, nặn thành hình một con ngựa, thêm một cái bờm và một cái đuôi bằng lông đuôi của con ngựa khổng lồ. Gió thổi hiu hiu, chẳng mấy chốc đã thổi lớn con ngựa. Nó mang tầm vóc một con ngựa bình thường và sống dậy. Đó là một con ngựa rất đẹp.

- Đây là một con ngựa thần kỳ, các thiếu nữ giải thích. Nó chạy không thua gì con ngựa khổng lồ của chàng. Đến đấy các nàng từ biệt Losang. Chàng trai tiếp tục lên đường cùng người thiếu nữ trẻ nhất.

Một ý nghĩ thoáng qua tâm trí chàng. Thỉnh thoảng, chàng liếc xéo người bạn đồng hành. Rồi chàng đột nhiên hỏi:

- Nàng thường ra sông lấy nước phải không? Ta đã trông thấy một thiếu nữ, nhưng xa quá, hình như cô ấy giống nàng.

Thiếu nữ lắng nghe, ánh mắt nàng lấp lánh.

- Nhưng cô ấy gài một bông hoa dẻ trắng trên tóc, Losang suy nghĩ rồi nói thêm.

Người đẹp cười:

- Chàng thấy đấy, không phải em. Nhưng chàng có thích em không, tại sao chàng chọn em?

- Thôi, Losang nhíu mày. Nàng biết rằng ta chỉ nghĩ đến Boumo.

- Boumo, lúc nào cũng Boumo, chỉ có Boumo, tại sao? Người đẹp hỏi. Chàng chưa hề trông thấy cô ấy. Nói cho đúng ai biết cô ấy như thế nào?

- Ta không biết cô ấy như thế nào, nhưng đúng là ta đi tìm cô ấy, Losang tuyên bố, giọng quả quyết. Tuy nhiên để không làm phật lòng thiếu nữ đi cùng, chàng vội nói thêm: đừng sợ, ta cũng sẽ chăm sóc nàng. Bây giờ nàng là em gái nhỏ của ta. Khi nào ta lấy Boumo, ta sẽ tìm cho nàng một người chồng tốt.

Trong lúc đó, họ đã băng qua rừng, đến bên bờ một dòng sông nước chảy xiết. Vắt qua sông là một thân cây lớn làm cầu. Trước mặt là một miệng hang đen ngòm.

- Chúng ta đi nào, Losang thúc ngựa. Họ vượt qua dòng sông trên thân cây vắt ngang. Đến bờ bên kia, chàng trai trẻ muốn dấn vào, nhưng con ngựa của chàng dừng lại trước miệng hang tối. Từ dưới đáy hang, vọng lên tiếng ngáy và những tiếng gầm gừ kinh khủng. Cạnh vòm cửa hang, có tiếng ai đó sụt sịt:

- Ôi, con người dũng cảm trên mình ngựa lớn, đừng vào hang này! Chàng trai dò xét ánh tranh tối tranh sáng trong hang, nhận ra một cô bé gày gò, cổ và cổ tay bị đóng vào gông.

- Em tên là Meto, cô bé tiếp tục. Hang này là nơi ở của tám con quỷ xấu xí mà em phải phục vụ. Chúng bắt em về đây hôm em ra bờ sông nhặt vỏ sò. Chúng dọa sẽ ăn thịt em nếu em không làm bếp cho chúng. Chàng có thể tưởng tượng được không? Chúng ăn thịt người! May là lúc này chúng đang say rượu ngủ vùi, nhưng nếu chàng làm chúng thức giấc, chúng sẽ ăn thịt cả ba chúng ta.  Chàng hãy nhìn đống xương ở góc hang mà xem!

Losang nghe nói thế thì rất đỗi kinh ngạc, lại trông thấy những giọt nước mắt lớn như những hạt ngọc trào ra từ đôi mắt cô bé, chàng nổi giận đùng đùng:

- Đừng sợ gì cả, cô bé, ta sẽ không để cho chúng tiếp tục hành hạ em. Ta sẽ đưa em về nhà. Nhưng lúc này, ta phải đi qua hang vì đó là con đường đưa ta đến với Boumo.

Chàng vừa dứt lời, bỗng nghe trong hang có tiếng thở khủng khiếp như tiếng bễ rèn: chính là một trong tám con quỷ vừa ngáp vừa nheo sáu con mắt bên bị ánh sáng rọi trúng.

- Hãy chạy về phía sau, Meto thì thầm, ở phía bên kia của hang này có chôn một chiếc rìu thần, chàng hãy đào lấy chiếc rìu đó, bằng không chàng không thể  thắng chúng.

Losang đã quá mệt sau một ngày gắng sức, đến mức khó khăn lắm chàng mới ngồi vững trên yên, nhưng thu hết sức lực còn lại, chàng nhảy xuống ngựa, chạy vòng quanh hang, chẳng mấy chốc đã tìm thấy nơi giấu chiếc rìu thần.

Con quỷ thứ nhất uể oải mở một mắt, liếm mép lè nhè:

- Măm, măm, ta đánh hơi thấy mùi thịt tươi!

- Hừ! Hừ! Ta thấy hơi đói, con quỷ thứ hai nói mê trong lúc vẫn ngáy khò khò.

- Ta thấy có cái gì đó trong hang, con thứ ba cất giọng ngái ngủ, hít một hơi thật sâu, và cố thử tự mình đứng dậy.

Từ cửa hang cô bé Meto tội nghiệp kêu lên:

- Đó là em gái tôi. Hãy trông cái túi thêu nhỏ xinh này, em tôi vừa mang đến cho tôi đấy!

Chẳng con quỷ nào thèm để ý đến lời cô bé nói.

- Hôm qua, tao ăn uống nhiều quá, con quỷ thứ tư phân trần, nó đã giẫm phải đuôi đến lần thứ ba.

Con quỷ thứ năm cáu tiết.

- Tao đã bảo mày rồi, đừng có uống đến say... Và nó lại cố duỗi tám cái cẳng ra.

- úi chà! Mày có lý, nhưng khi chúng tao đã mê uống quá... những con quỷ khác đồng thanh, vừa ngáp vừa quay nhìn tứ phía, hết thở lại nấc.

Trong khi đó, Losang cào hết đất dưới gốc thông rừng và lấy được chiếc rìu thần. Trước khi lũ quỷ kịp tỉnh hẳn, chàng nhảy vào giữa hang.

- Ra là thế, là thế, ăn thịt người hử? Vậy thì, ta sẽ băm các ngươi thành thịt viên!

Lũ quỷ mở to mắt nhìn chàng ngạc nhiên: Tên này ở đâu ra vậy. Chúng điên tiết gầm lên, nhưng Losang không để cho chúng kịp trở tay. Chàng phang rìu tới tấp, chẳng mấy chốc đã chặt bảy tên đứt đôi.

- úi chà! Có thế chứ! Losang thở phào nhẹ nhõm. Nhưng hãy còn quá sớm! Chàng bỗng ngửi thấy mùi nồng nặc sau lưng. “Chú ý!” hai thiếu nữ cùng kêu lên, thiếu nữ lúc đầu vội chạy đến bên đống lửa rút que cời nung đỏ. Chàng trai cảm thấy cổ họng mình tắc nghẹn, những móng vuốt siết chặt đến nỗi chàng tức thở. Chàng buông chiếc rìu thần. “Là con quỷ thứ tám”, chàng nghĩ, “ta đã có cảm giác chúng không đủ cả tám mà.”

Thiếu nữ nhận thấy Losang không thể thoát khỏi vòng ôm của con quỷ, không do dự, nàng quật mạnh chiếc que cời nóng bỏng.

“Ối”, con quỷ rú lên, buông con mồi. Chàng trai lợi dụng tình thế lao ra cướp lại chiếc rìu thần, và không để kẻ địch kịp trở tay, chàng bổ nó vỡ sọ!

- Thế là thoát nợ! Losang tuyên bố, hết sức hài lòng. Mong rằng những khó khăn như thế này sẽ không quá nhiều trên con đường của ta. Em đã giúp đỡ ta quá nhiều, cô bé. Bây giờ, chúng ta phải trả lại tự do cho em. Bằng những nhát rìu, chàng phá tan chiếc gông đang cầm tù Meto.

Cô bé cảm ơn chàng nồng nhiệt, mắt ngấn lệ. Cô biếu chàng một túi vải nhỏ thêu khéo léo vô cùng.

- Túi này đựng các loại cỏ thuốc, cô nói với nụ cười bí hiểm. Có thể một ngày nào đó, nó sẽ giúp ích cho chàng!

Losang vừa giắt chiếc túi vào thắt lưng vừa nói:

- Ta cảm ơn em. Nhưng bây giờ, chúng ta sẽ làm gì với em đây? Làm thế nào em về nhà được?

- Nếu chàng không phản đối, thiếu nữ lúc đầu nói, em có thể đưa cô bé về nhà với bố mẹ cô ấy. Chàng xem, em có thể mượn con ngựa khổng lồ của chàng, nó có thể mang cả hai chúng em dễ dàng. Còn chàng, trong khi chờ đợi, hãy cưỡi con ngựa thần kỳ của em. Chàng cứ đi trước. Sau khi đưa cô bé về nhà, em sẽ nhanh chóng đuổi kịp chàng.

- Đồng ý, Losang nói. Ta sẽ đi thẳng, đợi nàng trên ngọn đồi đằng kia. Hãy theo dấu ngựa của ta, và nhất là nhanh lên!

Họ tạm biệt nhau. Losang cưỡi con ngựa thần kỳ lên đường. Chàng cố tình đi chậm. Khi lên đến đỉnh đồi, chàng xuống ngựa chờ thiếu nữ. Chàng chờ ở đó rất lâu, ngồi trên một phiến đá mắt dõi nhìn ra xa xem thiếu nữ đến chưa. Chẳng có gì hiện ra phía chân trời. Đúng lúc ấy, mây đen ùn ùn kéo đến, cả bầu trời đột nhiên đầy mây và một cơn gió to nổi lên trong không gian âm u đến ngột ngạt. Những hạt mưa to tướng lộp bộp rơi, gió hú mỗi lúc một mạnh hơn, và dưới luồng gió ấy Losang, vô cùng kinh ngạc, thấy con ngựa của mình bé dần, bé dần đến khi biến mất hoàn toàn. Chỉ còn lại viên ngọc lấp lánh trên mặt đất.

Losang còn có thể làm gì? Chỉ chờ đợi, ngồi dưới một tán cây tiếp tục đợi thiếu nữ. Mặt trời trở lại, đuổi mây, chiếu những tia nắng chói chang. Đã gần trưa, trời nóng ngột ngạt, thiếu nữ vẫn không thấy đâu.

“Nàng đi lâu thật!” Losang cằn nhằn. “Ta sẽ đi bộ vậy. Nàng đi ngựa sẽ mau chóng đuổi kịp ta.” Nghĩ vậy chàng đi bộ xuống sườn đồi bên kia, đến chỗ có một dòng sông nhỏ, chàng xuống nước định lội qua.

Ngay bước đầu tiên, chàng đã bị lún sâu trong bùn đến đầu gối. Bước thứ hai, bùn đến thắt lưng! Rồi chẳng biết từ đâu, một đám mây muỗi đói xông vào chàng. Losang cố sức tự vệ, nhưng đuổi được một con thì mười con khác xông vào. Chúng xông vào mỗi lúc một nhiều, mỗi lúc một dày đặc, đến mức quanh đầu chàng đen kịt.

“Những con vật bẩn thỉu này định ăn tươi nuốt sống mình đây!” Chàng thấy một con muỗi to bằng nắm đấm lao về phía mình. Losang tránh sang một bên. Trong lúc hoa chân múa tay chàng chạm vào chiếc túi đựng các loại cỏ thơm. “Biết đâu mùi thơm của cỏ chẳng đuổi được muỗi?” chàng nghĩ. Chàng lấy một nhúm cỏ bóp nát thành bột trong lòng bàn tay, rồi xoa lên người. Tức thì, đàn muỗi bỏ đi trong tiếng vo ve vang rền. Losang thở phào nhẹ nhõm! Tuy nhiên chàng vẫn bị sa lầy trong bùn, tiến lên một bước hay lùi xuống một bước đều không được.

“Cô gái này dềnh dàng ở đâu vậy?” chàng cằn nhằn. Cuối cùng chàng nghe có tiếng vó ngựa lốp cốp, lốp cốp! Chót vót trên đỉnh đồi, bóng dáng nữ kỵ sĩ trẻ hiện rõ trên nền trời. Nàng dừng ngựa kêu lên, giọng trách móc:

- Tại sao chàng vội vã thế, lại dầm nước nữa chứ? Tắm sông dễ chịu không?

- Tuyệt! Losang làu bàu. Với một con lợn lòi, thế này hẳn dễ chịu lắm!

- Chàng thì, chẳng có gì hợp với chàng cả, thiếu nữ khúc khích, che miệng cười chế nhạo. Nàng bước xuống mép nước, nhìn xung quanh ngạc nhiên:

- Tại sao chàng đi bộ? Chàng đã làm gì con ngựa thần kỳ rồi?

- Nó đã bốc hơi ngay khi phải gió. Chỉ còn cái này thôi! Losang làu bàu trả lời, giơ cho cô gái xem viên ngọc cầm trên tay.

- Ôi, quả vậy, một con ngựa thần kỳ không bền lắm đâu! Nhưng chàng hãy giữ cẩn thận viên ngọc, có thể nó sẽ còn có ích.

Đến đây, người đẹp giúp Losang nhảy lên ngồi trên ngựa. Hai người trẻ tuổi vượt qua con sông đặc quánh bùn không gặp trở ngại gì nữa, cuối cùng tới một vùng hoang vu nơi những đầm lầy trải dài ngút mắt. Phía chân trời sừng sững một ngọn đồi, chàng trai chỉ cho người thiếu nữ:

- Sau quả đồi kia là thung lũng có dòng sông chảy qua. Cạnh đấy là nơi Boumo ở.

- Boumo của chàng không biết phải ơn chàng thế nào cho đủ, vì tất cả những gì chàng đã phải chịu đựng để đi tìm cô ấy, thiếu nữ dịu dàng nói. Ai biết cô ấy trông ra sao? Chàng có chắc là chàng không muốn trở về cùng em?

- Khi ta đã làm gì, ta sẽ làm tới cùng, Losang trả lời kiên quyết. Và họ phi ngựa suốt buổi sáng, băng qua các đầm lầy, dưới ánh mặt trời như thiêu như đốt trên đầu, xung quanh nước lẫn bùn từ vó ngựa bắn lên. Cuối cùng, họ tới một quả đồi khá cao, trên đỉnh đồi có một con đường bằng phẳng dẫn xuống bờ sông.

- Rốt cục chúng ta đã tới nơi, thiếu nữ nói và nhảy xuống ngựa. Em sẽ chờ chàng ở đây, tại nhà những người trung thực em quen. Chúng ta sẽ gặp lại nhau khi chàng đã xong việc của chàng.

- Đồng ý, chàng trai nói, cảm thấy rất nhẹ mình. Ta tự hỏi cha của Boumo sẽ chào đón ta ra sao, nếu ta đến nhà ông có nàng đi cùng.

Chàng tạm biệt thiếu nữ, lên ngựa đi tìm cha của Boumo. Những người nông dân cho chàng biết ông tên là Norbou, một người tốt hơn cả là đừng gặp. Họ chỉ cho chàng ngôi nhà, và chàng trai trẻ của chúng ta đến ngay.

Norbou lắng nghe Losang, nghiêm khắc xét nét chàng hồi lâu rồi nói:

- Con không phải là người đầu tiên đến cầu hôn, con trai ạ. Đã có nhiều người đến đây và họ đã hối hận vô cùng. Hãy nghĩ kĩ trước khi cầu hôn!

- Con đã vượt qua mọi trở ngại của cuộc hành trình không phải để bây giờ quay gót, Losang tuyên bố.

- Vậy thì chúng ta có thể bắt đầu ngay lập tức. Vả lại, biết đâu con sẽ hợp với con gái ta?

- Thế thì xin hãy gọi nàng đến đây. Con muốn được gặp nàng.

- Còn khối thời giờ cho việc ấy. Trước tiên con phải chứng tỏ con có xứng đáng không đã. Đi theo ta!

Ông dẫn chàng trai ra sân, một con ngựa lông vàng yên cương đầy đủ đã chờ sẵn ở đó. Ông đặt lên yên ngựa một xu đồng thủng lỗ quất rồi mạnh roi. Con ngựa phóng vụt đi, người cha cười nói: “Bây giờ con bắt nó lại, và nhớ phóng mũi tên qua lỗ đồng xu!” Ông vừa nói đến đây Losang đã nhảy lên con ngựa khổng lồ và ph...ự...ư...t! Mũi tên của chàng xuyên trúng đích. Khi con ngựa lông vàng trở lại, Norbou thấy mũi tên xuyên đúng lỗ đồng xu.

- Có thể được đấy, ông tức giận nói. Nhưng tối rồi, để mai hẵng hay. Con sẽ nghỉ đêm tại nhà ta. Phòng này dành cho con. Đến trước cửa, ông né người nhường cho chàng trai bước vào.

Losang bước qua ngưỡng cửa và bốp! Chàng vập đầu phải một thanh xà thấp ngay trên cửa, chàng xây xẩm mặt mày. “Người cha hẳn cố ý bố trí thanh xà ở chỗ này.” chàng nghĩ bụng, nhưng không nói gì.

- Nào, nào, có tiếng cười nhạo sau lưng chàng, con không thể thận trọng hơn được sao? Suýt nữa thì con tự hại mình ngay trong nhà ta đấy! Bây giờ tốt rồi, chúc ngủ ngon! Người cha khép cửa, nhưng Losang vẫn nghe được tiếng cười nhạo khe khẽ. Chàng thấy mình đứng giữa bóng tối mịt mù, mở căng mắt cũng không nhìn thấy gì. Chợt chàng nhớ đến viên ngọc. Chàng đặt viên ngọc trong lòng bàn tay. Gian phòng sáng lên trắng mờ. Bấy giờ chàng mới thấy, dưới sàn nhà và trên tường, cả một đám mây đen muỗi lớn và các loại bọ độc kêu vo vo vang rền chực lao vào chàng với vẻ phàm ăn ghê gớm.

“Cái này ta cũng chẳng lạ gì”, Losang nghĩ bụng ngạo mạn. Chàng mở chiếc túi nhỏ và vãi một ít cỏ ra xung quanh. Chỗ còn lại chàng chà xát khắp người rồi thản nhiên nằm xuống, chẳng bao lâu thì ngủ ngon lành.

Sáng sớm hôm sau Norbou rón rén đến gần cửa, nhón chân, áp tai nghe xem chuyện gì xảy ra bên trong, rất ngạc nhiên chẳng thấy gì cả. Ông mở cửa nhìn qua khe. Cuối cùng ông bước hẳn vào.

- Thế nào, con trai, con ngủ ngon không? Ông láu lỉnh hỏi. Nhưng ngay lập tức ông thôi cười. Qua cánh cửa hé mở ánh sáng lọt vào phòng, ông nhận thấy Losang đang nằm rất thoải mái, phủ kín nền nhà là từng lớp muỗi và côn trùng chết.

- Cảm ơn ông đã quan tâm đến con, Losang tỉnh ngủ, uể oải ngồi dậy trên giường. Đời con chưa từng được ngủ đàng hoàng thế này. Con thấy ông chu đáo với khách quá!

- Con thấy... Vì rằng..., người cha không biết nói sao. Ta làm những gì có thể! Cái chính là con vẫn mạnh khoẻ. Thử thách cuối cùng đang chờ con. Đây là lúc xem con có thật sự tha thiết muốn cưới con gái ta hay không!

Ông ra khỏi phòng, chàng trai theo chân ông. Hai người đến một chỗ hẻo lánh nơi một đám đông đang tụ tập. Losang chợt sững người. Giữa đám đông có một hàng rào ngăn cách tạo thành một khu hình vòng tròn, chính giữa khu hình vòng tròn, trên một cái bục nhỏ, có một cô gái. Đống củi cháy rừng rực, đám người hò la:

- Người anh hùng dũng cảm, Boumo của chàng đấy: Chàng đã vượt qua mọi trở ngại, giờ hãy đi qua đống lửa này và nàng sẽ thuộc về chàng.

Chàng trai sững sờ kinh ngạc nhìn Boumo. Thiếu nữ cúi đầu, mái tóc nàng gài một bông hoa dẻ trắng.

“Chính là nàng, người đẹp bên sông”, Losang định thần. “ Đúng nàng rồi, có bông hoa trắng trên mái tóc.”

Thiếu nữ ngẩng đầu lên và mỉm cười:

- Ôi, không! Chàng trai kêu lên. Nàng chính là người con gái đã theo ta đến tận đây, người con gái ta đã giành lại từ tay con rồng. Hay là ta nhầm? Nàng giống cả hai người đến thế!

Thiếu nữ gỡ bông hoa trên mái tóc, ném về phía Losang.

- Em là Boumo, người mà chàng bấy lâu tìm kiếm. Nhưng em cũng là thiếu nữ lấy nước bên sông, và người con gái chàng giành lại từ tay rồng. Chàng đã nhầm lẫn vì bông hoa dẻ trắng, bông hoa đã khiến chàng không nhận ra em.

Losang nhanh chóng hiểu ra. Chàng cầm rìu thần, mở đường qua những cành củi giàn thiêu đang rừng rực cháy, ôm thiếu nữ trong vòng tay đưa ra ngoài vòng lửa.

- Thật là một người anh hùng đích thực! Đám đông reo hò thán phục.

Norbou thở dài tuyên bố:

- Ta phải thú nhận rằng con gái ta khó tìm đâu cho được một vị hôn phu hơn con. Con có thể lấy nó. Còn Boumo, con muốn của hồi môn gì? Cha sẽ cho con tất cả những gì con muốn.

- Con đã chuẩn bị của hồi môn từ lâu rồi, thưa cha! Boumo mỉm cười trả lời và nàng chạy đi tìm hai chiếc xô bằng vỏ cây bulô. Mỗi chiếc xô mang một mũi tên xuyên qua thành. Losang sung sướng mỉm cười, rồi chàng nhìn vào mắt Boumo, thật gần, nói với giọng trang nghiêm:

- Tại sao nàng để ta chịu đựng suốt dọc đường như thế, Boumo? Tại sao nàng không nói với ta, ở nhà chúng ta, ở làng, rằng nàng là cô gái có bông hoa dẻ trắng, và chính là nàng, cô gái cưỡi con ngựa thần kỳ?

Boumo dịu dàng trả lời:

- Em thường nghe nói về chàng, và em muốn hiểu chàng tường tận hơn.

- Bây giờ nàng đã hiểu ta, nàng có hài lòng không?

- Vâng, Boumo ra dấu bằng mắt. Nhưng chỉ hài lòng không thôi liệu đã đủ hay chưa. Em phải được biết rành rẽ về người đàn ông em sẽ lấy làm chồng. Mà chàng thì vừa tốt bụng vừa đẹp người, vừa hiểu lẽ phải vừa dũng cảm, bền bỉ lại mạnh mẽ. Em chưa từng gặp được một người như chàng. Boumo lặng ngắm chàng trai bằng đôi mắt tràn đầy yêu thương, và nàng đẹp đến nỗi Losang không thể thốt nên lời.

- Nàng vừa ngoan hiền vừa xinh đẹp, cuối cùng chàng sung sướng nói. Ta tin đã tìm thấy hạnh phúc lớn của đời mình!

Con ngựa khổng lồ hí vang sau họ, vừa hí nó vừa gõ móng xuống đất.

- Nàng thấy không, Losang mỉm cười, nó cũng muốn về nhà đấy! Lại đây, chúng ta lên đường!

Thiếu nữ nói lời từ biệt cha và bà con làng xóm. Losang đặt nàng lên yên, phía trước mình. Những cái móng khổng lồ gõ lộp cộp trên nền đất và, trước khi kịp nhận ra, họ đã mất hút phía chân trời. Lần này, một con đường bằng phẳng trải trước mắt họ, và họ tới bờ sông Tsangpo không gặp một trở ngại nhỏ.

Người thợ săn vui mừng thấy con trai trở về bình yên vô sự, mang theo vị hôn thê xinh đẹp. Họ sẽ còn sống nhiều năm dài trong bình an và hạnh phúc vì Boumo không chỉ xinh đẹp mà còn rất mực thảo hiền.

4. Họa sĩ Touo-lan-ka

Lưỡi Hái Lớn rất tò mò muốn biết Touo-lan-ka vẽ gì. Gã lại gần để xem. Con tim băng giá của gã run rẩy. Trong tranh, một thiếu nữ xinh đẹp như cười với gã!

Rất xa ở miền Nam Trung Quốc, nơi những người Tai sinh sống, có một thôn làng vây quanh bởi những bãi trồng cọ. Không xa ngoài rìa làng, bên bờ một con sông nước trong vắt, sừng sững một cái chòi cũ nát, bằng tre ken lại với nhau. Đó là nơi rất xa xưa họa sĩ Touo-lan-ka từng sống. Ông không phải là một họa sĩ bình thường, khó tìm thấy một người giống ông. Ông say mê hội họa như bị “ma ám”. Ông vẽ trên bất cứ thứ gì vô tình rơi vào tay: trên giấy, trên lụa hay trên gỗ. Ông hiếm khi ra ngoài, chỉ lúc này hay lúc khác ghé qua đền thờ, hoặc vào làng, nhưng đừng tưởng để cầu nguyện hoặc dâng lễ vật cúng các vị thần. Không! Điều này không thuộc bản tính của ông. Ông ngồi đó, im lặng trong một góc, quan sát những người vào ra, ghi khắc những nét riêng biệt của họ vào tâm trí. Về nhà, ông giam mình trong chòi, vớ lấy bút và bắt đầu vẽ, vẽ và vẽ. Dẫu cho bên ngoài mặt trời có chói chang, mặt trăng lạnh có tỏa sáng, ông cũng không hay biết. Mỗi ngày ông vẽ bảy gương mặt, sau một tuần thành bảy lần bảy bốn mươi chín gương mặt, treo trên vách chòi tre. Cho tới một đêm - đó là một đêm dông bão, gió điên cuồng thổi cây cối đổ rạp, sấm rền vang - ông vừa vẽ xong khuôn mặt thứ bốn mươi chín của tuần thì có ai đó đập cửa.

“Có thể là ai đây?” Họa sĩ càu nhàu. “Kẻ nào ma dẫn lối quỷ đưa đường đến đây vào lúc gió bão, đến con cú cũng phải nằm im thế này?”

- Ta là Thần Chết. Ta cai quản linh hồn những người chết ở vùng này. Đêm nay Ngọc hoàng sai ta đến bắt ngươi.

 “Sao Thiên lôi không đánh chết mi, tên đáng nguyền rủa!” Touo-lan-ka nghĩ, cảm thấy trong lòng một nỗi buồn sâu xa. Thu hết can đảm, ông ra mở cửa. Trên ngưỡng cửa, sừng sững một bóng đen, tối tăm hơn đêm tối.

- Vào đi, Touo-lan-ka bảo, nhưng mi phải đợi một lát, ta còn phải vẽ xong bức này. Rồi như chẳng có gì xảy ra, ông quay lưng lại Thần Chết, cầm bút và tiếp tục vẽ.

Thấy Touo-lan-ka chẳng hề bận tâm, cứ bình thản vẽ, Thần Chết sốt ruột:

- Đi thôi, chúng ta phải nhanh lên một tí, ngươi không thể bắt Ngọc hoàng chờ như thế!

- Đừng nổi nóng, họa sĩ bình tĩnh trả lời, ít ra ta còn phải vẽ xong em gái nhỏ này. Thà mi cứ đi trước đi, và nói với chủ mi hãy kiên tâm một chút.

Lưỡi Hái Lớn rất tò mò muốn biết Touo-lan-ka vẽ gì. Gã lại gần để xem. Con tim băng giá của gã run rẩy. Trong tranh, một thiếu nữ xinh đẹp như cười với gã! Chưa bao giờ gã thấy một khuôn mặt đẹp đến thế. Lặng lẽ, gã nhón chân chuồn khỏi chòi tre quay trở về trời.

- Thế nào, ngươi về một mình ư? Ngọc hoàng nghiêm giọng hỏi.

- Xin Ngọc hoàng xá tội cho thần, lần này không thể được, thần phải để cho hắn vẽ xong một khuôn mặt.

- Đời ta chưa thấy chuyện thế này bao giờ! Ngọc hoàng gầm lên, mất hết bình tĩnh. Đi, nhanh cấp tốc giải hắn lên đây cho ta! Đây là Luật Nhà trời. Ta không thể để cho Luật Nhà trời bị một tên họa sĩ vi phạm!

Lưỡi Hái Lớn vậy là phải xuống mặt đất một lần nữa. Qua bãi trồng cọ, gã trông thấy xa xa ánh lửa nhỏ leo lét nhấp nháy nơi cửa sổ chòi tre, đốm sáng duy nhất trong đêm đen sâu thẳm. Gã mở cửa bất thình lình, nhưng sững sờ lùi lại. Từ trong tranh, một khuôn mặt thiếu nữ xiết bao dịu dàng, xiết bao trong sáng đang mỉm cười với gã! Một gương mặt như thế, ngay trên Trời cũng khó thấy.

“Lại vội vàng rồi”, họa sĩ làu bàu, vẫn đắm chìm với bức tranh. Nhưng lần này Thần Chết không để bị gạt ra rìa, Touo-lan-ka đành vâng lời, thu thập họa cụ, vài bức phác thảo, một cây nến thờ và đi theo Thần Chết.

Khi cả hai đến trước Ngọc hoàng, họa sĩ quỳ gối rạp mình đúng như một kẻ phàm trần phải thế. Tay trái ông cầm cây nến cháy, tay phải những họa cụ.

- Được lắm, được lắm, Ngọc hoàng gật đầu hào hiệp, ta biết dưới mặt đất ngươi là một họa sĩ lừng danh, và ngươi không thể sống không có hội họa. Nay, ngươi có thể tiếp tục vẽ trên Trời!

Touo-lan-ka cúi rạp mình, tạ ơn Ngọc hoàng ban cho ân huệ ấy. Thế nhưng, ông không thể cầm được vài giọt nước mắt. Điều đó cũng dễ hiểu! Ông phải xa rời xứ sở của mình, xa rời mặt đất, so với nơi ấy không một Trời nào có thể sánh bằng. Hơi buồn, ông thổi tắt ngọn nến trong tay. Thần Chết dẫn ông đến gặp Thần Sống:

- Từ nay, chỗ của ngươi là ở đây: hãy làm ngay bây giờ việc ngươi phải làm!

Thế là họa sĩ ở cận kề Thần Sống. Ông bày ra đất cạnh mình bút vẽ, viên đá nhào mực, chiếc bình nước nhỏ, thỏi mực Tàu, và ông lại vẽ. Cứ mỗi lần Thần Sống phải trao linh hồn cho một đứa trẻ sơ sinh, Touo-lan-ka tìm trong các bức chân dung của ông một bức phù hợp hơn cả với con người tương lai đó.

Thế nhưng, cũng phải thừa nhận rằng Touo-lan-ka thường hay ăn gian! Ông không muốn xa rời những bức chân dung đẹp nhất: Ông giữ chúng cho riêng mình. Các bà mẹ Tai dâng cho ông biết bao đồ cúng lễ xa hoa mong ông gán cho em bé của các bà khuôn mặt đẹp nhất đời, nhưng đều vô hiệu: Những khuôn mặt đẹp nhất, ông giữ cho riêng mình, ở trên Trời kia.

5. Biển tiền vàng - Mây trắng tìm chồng

Đó là ngày thứ mười lăm của tuần trăng thứ tám, trên mặt đất xảy ra những điều kỳ diệu lạ lùng và cái không thể trở thành có thể. Trên trời, một vầng trăng vàng lớn lơ lửng.

Anh thợ săn Lan-fou xách giỏ lên núi cao nhặt phân lợn lòi. Sau khi đã leo một quãng dài vất vả, anh đến đỉnh núi, phóng tầm mắt nhìn về phía thung lũng thường vẫn tối đen, mệt đứt hơi. Trước mặt anh, như trong tầm tay, thung lũng ngập trong ánh trăng vàng rực rỡ. Lan-fou bấm vào bàn tay. Có phải thật là ánh sáng không, hay là - anh không thể tin - một biển tiền đuy-ca vàng?

“Nhưng chúng ở đâu ra? Và ai đã vất chúng xuống mặt nước như thế?” Lan-fou băn khoăn tự hỏi, đưa mắt nhìn xung quanh. Trên mặt biển vàng chợt có cái gì động đậy. Nhìn kĩ, Lan-fou thấy một con thuyền vàng đang tiến thẳng về phía mình và trên con thuyền vàng - Lan-fou dụi mắt - trên con thuyền, quả vậy, không phải là mơ, một người đàn bà đẹp. Con thuyền tiến thẳng về phía anh.

- Ta là tiên mặt trăng, bà cất giọng ngọt ngào. Ta đợi anh. Anh đến rất đúng lúc. Đêm nay các kho tàng của trái đất đều mở. Mỗi người đến thung lũng này đều nhận được phần của mình. Dứt lời, bà tiên đưa cho Lan-fou ba đuy-ca vàng.

Lan-fou cảm ơn và sung sướng quay về. Nhưng mới đi được mấy bước, anh nảy ra ý nghĩ: “Cả một biển tiền đuy-ca mênh mông thế này! Ta có thể hỏi xin thêm một ít nữa!” Anh quay trở lại chỗ bà tiên đang bơi thuyền trên biển vàng.

- Tiên mặt trăng, tôi nghèo lắm, xin bà cho tôi ba đuy-ca nữa, Lan-fou nài nỉ.

Bà tiên mỉm cười, nhúng tay xuống biển, lấy lên cho Lan-fou ba đuy-ca lấp lánh.

Anh thợ săn trẻ cảm ơn và quay gót trở về nhà. Đi dọc biển vàng, anh nghĩ: “Sáu đuy-ca thì có nghĩa lý gì, xung quanh đây có hàng ngàn, hàng ngàn. Ta không quay lại hỏi xin bà tiên nữa, ta sẽ lấy đầy giỏ này. Ta sẽ sống không phải lo đến ngày mai”.

Đi đến một tấm ván bắc qua suối làm cầu, anh sực tỉnh: “Một giỏ tiền thì có nghĩa lý gì. Nếu ta mang về nhà đầy một ủng tiền thì sao nhỉ? Phải! Ta sẽ không mất thì giờ với cái giỏ nữa.” Nghĩ là làm: Anh vứt cái giỏ xuống suối, chạy thật nhanh về nhà.

Về đến nhà, anh lấy một chiếc ủng và trở lại con đường lên núi. “Nhưng chỉ có độc một chiếc ủng thì có nghĩa lý gì?” Anh nghĩ bụng. “Thật là tiếc nếu bỏ lại bấy nhiêu đuy-ca lấp lánh, tốt nhất là gọi vợ ta, để cô ấy đem theo chiếc ủng thứ hai.”

- Nhanh lên, mình, dậy nhanh! Anh lay gọi vợ, mắt sáng rực.

Lan-fou chạy như điên lên núi, chị vợ theo sau, nhằm hướng biển đuy-ca. Đến cái cầu, anh tự nhủ: “Hai chiếc ủng, chẳng có nghĩa lý gì cả. Tốt nhất là gọi bố vợ và mẹ vợ ta đến giúp một tay, mang theo chiếc xe bò.” Anh vội vàng quay trở về, theo sau vẫn là chị vợ. Họ chạy về gọi bố mẹ vợ đến giúp. Cả bốn người chạy lên núi, mệt tưởng đứt hơi. Họ vừa chạy vừa thở hổn hển, nhưng kia rồi, họ đã gần đến đỉnh núi, ngay sau đỉnh núi thôi sẽ là biển đuy-ca trải dài vô tận. Nhưng, gì thế này? Mặt trăng như mờ dần... mờ dần, đỉnh núi tràn ngập ánh sáng hồng, rồi ánh sáng đỏ của mặt trời mới mọc tràn ngập khắp.

Chết lặng vì kinh ngạc, Lan-fou đứng nhìn thung lũng. Biển đuy-ca vàng đã biến mất.

- Đuy-ca đâu? Chị vợ kêu lên.

- Đuy-ca đâu cả rồi? Bố mẹ vợ kêu lên.

- Biến mất cả rồi, Lan-fou hổn hển trả lời. Chúng đã biến mất không thể cứu vãn được rồi. Chúng sẽ không bao giờ trở lại. Anh thuật lại cho mọi người nghe anh đã nhận được của bà tiên mặt trăng ba đuy-ca vàng như thế nào, rồi ba đuy-ca nữa, kế đó anh đã về nhà với một giỏ đầy vàng mà anh đã vứt xuống suối ra sao.

Tràn đầy hy vọng, họ vội vàng đi về phía chiếc cầu ván nhỏ. Dòng nước hung dữ cuộn xoáy trong lòng suối, chỉ thấy có đá, không còn dấu vết của chiếc giỏ.

- Thật tiếc chiếc giỏ, Lan-fou than thở, giờ tôi chỉ còn cách đan một chiếc giỏ khác!

Mây trắng tìm chồng

Biển Jou mênh mông và cồn sóng. Hiếm khi gió để cho biển lặng. Nhưng dẫu gió quất biển mạnh như thế nào, rạch sóng sâu như thế nào, chưa bao giờ người ta nhìn thấy đáy biển, đến tận ngày nay cũng vậy.

Người ta kể rằng xa xưa lắm, có một vương quốc bên bờ biển Jou, do một ông vua hùng mạnh trị vì. Vua chỉ huy mười thượng thư, mỗi thượng thư chỉ huy mười đại tướng, mỗi đại tướng chỉ huy một ngàn lính được toàn dân trong vương quốc tuân lệnh. Trong vương quốc không ai dám nói hay làm trái những gì bề trên đòi hỏi. Ngay chính công chúa cũng không thể làm điều nàng muốn. Đến tuổi các cô gái khác nghĩ đến chuyện lấy chồng, nàng đẹp tuyệt trần, khôn ngoan và tốt bụng. Rất nhiều chàng trai từ khắp nơi đến cầu hôn. Trong vòng hai năm, nhà vua lần lượt từ chối hết người cầu hôn này đến người cầu hôn khác. Trong khi đó công chúa ở trong tòa lầu nhỏ sơn đỏ kế bên vườn thượng uyển, nàng lặng lẽ gảy cây đàn luýt hình bán nguyệt, mắt mơ màng nhìn ra xa, nơi có một ngọn núi cao, đỉnh vờn mây trắng. Người ta gọi đó là Núi Mây.

Trên đỉnh núi ấy có một người duy nhất không sợ uy lực của nhà vua. Quân lính của nhà vua né tránh chàng, ngay cả các mưu sĩ của nhà vua cũng không dám làm chàng nổi giận. Thiên hạ thầm cảm phục, họ kể đã trông thấy chàng cưỡi một con ngựa trắng, từ đó họ gọi chàng là “Thủ lĩnh Albin”.

Một hôm, nhà vua bảo công chúa:

- Cha vừa đuổi một kẻ cầu hôn của vương quốc láng giềng. Thái độ hắn ta quá khúm núm. Hắn ta phải biết rằng: đối với cha thì danh tiếng hay sức mạnh cũng thế mà thôi. Cha khinh bỉ một đứa con rể sợ cha.

- Nếu chàng ta không sợ cha thì sao ạ? Công chúa dịu dàng hỏi.

- Một đứa con rể không sợ cha, cha căm ghét. Cho đến nay chưa kẻ nào sống sót nếu cha nổi giận.

Lòng dạ rối bời, công chúa trở lại tòa lầu của nàng, lấy cây đàn luýt ưa thích ra gảy.

Cây đàn luýt hát:

“Hỡi người sống trên Núi Mây, hãy đến và mang em đi với chàng! Mắt chàng là những áng mây trắng đáng yêu trên bầu trời mùa hạ, mắt chàng là những áng mây đen hung dữ trong bão táp điên cuồng. Móng ngựa của chàng gõ nhịp chắc nịch trên những con đường màu trắng của bầu trời, con tuấn mã của chàng hí vang khi trời tối sầm. Quân lính chạy trốn trước chàng và trái tim bọn chỉ huy run rẩy. Đến nhanh đi, hỡi chàng, con người em hằng mơ tưởng, hãy đến và mang đi nàng công chúa tội nghiệp!”

- Cây đàn luýt của nàng hát bài gì vậy, thưa công chúa? Từ trên cao, đột nhiên vẳng xuống một tiếng chim lảnh lót, vui tươi. Ngạc nhiên, công chúa ngẩng đầu lên và trông thấy một con khướu nhỏ.

- Em đã nghe rõ rồi đấy, công chúa đỏ mặt trả lời.

- Em sẽ đi nói với chàng! Con khướu cười phá lên.

- Không, xin đừng nói với chàng! Công chúa van xin, nhưng con khướu đã sải cánh và biến mất.

Đến đỉnh Núi Mây, con khướu lượn ba vòng trên đầu Thủ lĩnh Albin.

- Có chuyện gì thế, khướu của ta? Chàng hỏi.

- Lên ngựa mau, đi tìm công chúa. Nàng đang chờ chàng! Con khướu liến láu, ra vẻ mệt nhoài.

- Mi nói về công chúa nào? Albin sửng sốt.

- Thì công chúa của chúng ta chứ còn ai, con khướu giải thích, điềm nhiên chuốt mượt bộ lông. Nàng công chúa của vương quốc hùng mạnh bên bờ biển Jou. Nàng công chúa kiều diễm nhất, dễ thương nhất mà tôi từng biết.

Albin suy nghĩ một lát, rồi hỏi lại vẻ nghi hoặc:

- Nàng sẽ lấy ta làm chồng ư?

- Cố nhiên là tôi không bịa ra, con khướu phật ý. Nhưng cha nàng là một ông vua hùng mạnh và độc ác, ai ai cũng sợ.

- Ta không sợ, Albin kết luận. Chàng thúc con ngựa trắng trung thành và, con khướu chưa kịp chuốt chiếc lông vũ cuối cùng, chàng đã mất hút phía chân trời.

Đúng lúc đó, công chúa chuẩn bị về cung điện. Nàng thở dài, buông cây đàn luýt và ra khỏi tòa lầu. Đột nhiên, một cơn gió thổi mạnh, dường như có một kị sĩ đang lao đi trong mây. Tim nàng như ngừng đập. Từ trên trời một con ngựa trắng đáp xuống. Albin xuống ngựa, chầm chậm tiến lại gần công chúa. Chàng cũng thấy tim mình thắt lại vì rung động trước một thiếu nữ xinh đẹp đến thế và mảnh mai đến thế.

- Nàng có thuận lấy ta làm chồng không, thưa công chúa? Chàng hỏi, giọng trầm ấm.

Công chúa hướng ánh mắt dịu hiền về phía chàng và Albin mỉm cười với nàng.

- Nàng lại đây! Và nàng công chúa đến cạnh chàng trẻ tuổi. Nàng sẽ không hối tiếc chứ? Nàng không nhớ cung vàng điện ngọc chứ? Chàng gặng hỏi. Công chúa chỉ cúi đầu không nói gì. Albin bế nàng trong tay, nhảy lên con ngựa thần phong. Thoáng chốc không ai còn trông thấy họ hay nghe nói gì về họ nữa.

Bấy giờ, trong cung vua, người ta phát hiện thấy công chúa đã biến mất, quả là một màn náo động ra trò! Nhà vua phái quân lính lùng sục khắp mọi nơi, nhưng cứ như thể mặt đất đã nuốt chửng con gái ông. Ngày cũng như đêm, quân lính quần thảo dọc ngang vương quốc, mãi cho đến ngày một sứ giả trở về báo tin đôi khi người dân ở chân Núi Mây có nghe thấy tiếng hát dịu dàng của công chúa vẳng xuống từ trên những đám mây trắng.

- Tâu Hoàng thượng, chắc hẳn Thủ lĩnh Albin đã bắt công chúa của chúng ta đi! Sứ giả hổn hển thông báo.

Một mối lo sợ kinh hoàng bao trùm lên đám quần thần. Nhà vua nổi cơn thịnh nộ điên cuồng. Tuy nhiên, ông cũng sợ phải thách đấu tay đôi với một chiến binh sáng giá như Albin. Ông lấy thế làm nhục nhã, đến nỗi ngày cũng như đêm ông không thể nghĩ gì khác hơn tìm cách tiêu diệt Albin. Ông vò đầu bứt tóc. Ông bắt tất cả các mưu sĩ, các tướng lĩnh, cả các sứ giả cũng phải làm như thế. Cuối cùng, một ngày, một triều thần của ông nảy ra ý:

- Nếu không thể làm cách nào khác, đành phải dùng mưu mẹo vậy, tâu hoàng thượng, tài trí của Người sẽ đánh giá đúng lời khuyên của thần, lão ta rạp mình tâu lên nhà vua.

- Nói nhanh điều ngươi khuyên ta, nhà vua nôn nóng phán. Lão mưu sĩ trình bày kế hoạch của mình.

Thế là, ngay hôm đó, các sứ giả của triều đình được phái đến Núi Mây. Sau mấy ngày đường, các sứ giả đến đỉnh Núi Mây. Albin ra gặp họ. Trông thấy vóc dáng cường tráng và kiên nghị của chàng, những người can đảm nhất trong các sứ giả cũng phải rùng mình. Họ kính cẩn cúi chào. Sứ giả cao tuổi nhất lên tiếng:

- Thưa đức ông cao quý, chúng tôi đến mang theo một tin tốt lành. Đức vua yêu quý của chúng ta nghe nói nhiều về lòng dũng cảm của ngài, nên Người muốn được biết ngài. Người mời ngài, với tư cách là phò mã, đến thăm cung điện của Người.

- Thế nào, Người không giận ta ư? Albin hỏi.

- Lúc đầu người cũng bực tức, nhưng nay thì cơn giận đã qua, một sứ giả tiếp lời. Người buồn héo mòn vì con gái mình.

- ... Người những mong được gặp lại công chúa, sứ giả thứ ba dấn thêm.

- Cái này thì không thể được, Albin dứt khoát. Nhưng các sứ giả không để cho chàng đuổi khéo.

- Nhà vua buồn phiền lắm, sứ giả cao tuổi hạ giọng, đầu hơi gục xuống, ra vẻ buồn chán.

- Hoàng hậu phát ốm vì đau khổ, người thứ hai vội phụ họa.

- Bà sẽ chết vì buồn phiền, người thứ ba than vãn.

- Tình trạng này sẽ chẳng kéo dài được bao lâu, sứ giả thứ tư của nhà vua rầu rĩ bổ sung.

Tất cả những chuyện này chẳng làm Albin vừa lòng. Chàng quay về phía công chúa, thấy rằng nàng đang khóc.

- Nàng có muốn về thăm vua cha và mẫu hậu không? Albin quay sang hỏi công chúa. Công chúa gật đầu ưng thuận. Albin quay sang các sứ giả:

- Được. Chúng ta sẽ đi theo các ông.

Tại cung điện của nhà vua, một cuộc đón tiếp trọng thể đã được chuẩn bị sẵn sàng. Đích thân nhà vua ra đón công chúa cùng phò mã. Công chúa ôm hôn mẫu hậu. Nhà vua vồn vã dẫn Albin vào phòng tiệc. Quần thần uống rất nhiều chúc mừng cho thắng lợi của dũng sĩ Albin và cuộc hôn nhân của chàng với nàng công chúa xinh đẹp. Albin sung sướng vì cuộc đón tiếp nồng nhiệt, uống cạn hết cốc này đến cốc khác, rốt cuộc rượu đánh gục chàng, và chàng ngủ thiếp đi. Nhà vua chỉ chờ có thế. Ông ra hiệu cho hai thuật sĩ xuất hiện trong phòng. Chỉ nháy mắt, chúng đã trói gô Albin bằng xích sắt.

Công chúa kêu khóc thảm thiết nhưng, theo lệnh nhà vua, bốn tên hầu giữ chặt lấy nàng mang về tòa lầu nơi vườn thượng uyển, nhốt lại.

Các thuật sĩ ném Albin bị trói gô xuống đáy biển Jou. Chúng niệm một câu thần chú kinh khủng để không bao giờ biển cạn, và không bao giờ Albin có thể thoát ra.

Nàng công chúa tội nghiệp khóc hết nước mắt trong tòa lầu tù hãm. Không một ai đoái hoài đến nàng. Nhưng khi yên tĩnh đã trở lại trong cung đình, cả lâu đài hoàng gia chìm trong giấc ngủ nặng nề, bà hầu phòng cũ của công chúa tìm được chìa khóa cửa lầu và giải thoát cho nàng.

- Công chúa, xin hãy chạy mau! Chúng đã xích Albin của nàng và ném chàng xuống biển Jou. Ai biết chúng còn âm mưu gì nữa để hại nàng. Già sẽ mở cánh cửa bí mật ở cuối vườn. Hãy trốn đi thật xa để vua cha không thể tìm lại được nàng!

Nhưng khi biết tin tai họa đã xảy đến cho Albin, công chúa chạy ra biển Jou trước nhất. Nàng vươn tay về phía những con sóng tối đen, hết sức gọi tên Albin nhưng không có tiếng trả lời. Nàng khóc than, van xin thần linh và trời đêm trả lại cho nàng người chồng yêu quý, nhưng trời đêm vẫn câm lặng, và mặt trăng vô cảm vẫn soi bóng nước.

Khi phương đông tỏa sáng ánh hồng, công chúa quỳ xuống cát biển. áo nàng đẫm nước mắt. Chợt một cánh chim chạm nhẹ vào tóc nàng và một giọng quen thuộc lảnh lót trong sương sớm. Chính là con khướu.

- Khóc lóc chẳng ích gì, công chúa ạ! Nàng hãy mau đi hỏi khắp nhân gian xem có cách nào kéo được chàng Albin ra khỏi làn sóng chua cay này.

- Em có lý, chim khướu xinh ạ, công chúa nói với con chim lòng đầy biết ơn. Nàng bỗng cảm thấy chứa chan hy vọng và tràn đầy quyết tâm. Không chờ đợi gì nữa, nàng lập tức lên đường. Ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, nàng lang thang khắp thế gian, leo lên những đỉnh núi xa lạ, mải miết giữa những rừng bụi hoang vu, lạc bước trong rừng sâu, bơ vơ, quần áo tơi tả, chịu đựng đói khát. Đến đâu, gặp ai, nàng cũng hỏi xem có cách gì cứu được chồng nàng, bị bọn thuật sĩ ném xuống biển Jou. Dân chúng phẫn nộ thay cho nàng, khóc thương nàng, cho nàng cái ăn và chỗ ở trọ, nhưng không một ai có thể giúp nàng cứu Albin.

Nàng công chúa tội nghiệp không chịu nổi nữa, nàng kiệt sức, mệt nhoài, gày rộc, vẫn không gặp được người nào có thể cho nàng một lời khuyên có ích. Cuối cùng, một ngày nọ, nàng trông thấy một cụ già ngồi trên một cột mốc dưới gốc cây. Nàng lễ phép cúi chào cụ và hỏi cụ câu nàng đã hỏi hàng ngàn người khác.

Cụ già nhìn nàng chăm chú, bắt gặp ánh mắt đầy lo âu trên khuôn mặt xinh đẹp, cụ động lòng thương.

- Con nói chàng ở đáy biển Jou sao? Cách duy nhất con có thể đến với chàng là tát cạn biển.

Công chúa oà khóc nức nở.

- Nào, nào, cụ già an ủi nàng, nước mắt không giải quyết được gì cả. Con sẽ chỉ làm khổ mình và chẳng giúp được gì cho người con yêu. Gượm đã, ta vừa nảy ra một ý. Phía đông nơi chúng ta đang đứng đây, đâu đó bên trong những quả núi kia, là nơi Thần Gió ở. ít ra thì người ta cũng nói thế. Vị thần ấy có thể sẽ cho con mượn gió của ông ta. Ta nghe nói ông ta đựng gió trong bảy cái chai. Nếu ông ta cho con mượn thì tốt quá! Con có thể mang đến bờ biển, mở tất cả các nút chai cùng lúc, và thế là đủ!

- Cụ ơi, gió ấy chống sao được biển? Công chúa thở dài.

- Chống sao được ư? Rồi con sẽ thấy! Gió sẽ lay động biển, làm biển sủi bọt, cuốn đi hàng ngàn giọt nhỏ, tóm lại - gió sẽ làm biển cạn khô. Biển sẽ không còn lại gì ngoài cát, cụ già phấn khích nói. Con có thể hình dung tất cả gió của trái đất làm được gì nếu chúng thổi vào cùng một chỗ, trong cùng một lúc không?

Công chúa rất hài lòng. Nàng cảm thấy đột nhiên có đủ sức mạnh bằng mười cô công chúa mảnh mai như nàng. Vô cùng cảm kích, nàng nồng nhiệt tạ ơn cụ già và đi thẳng đến dãy núi phía đông.

Nàng đi rất lâu mới đến được dãy núi, lâu hơn nữa, qua một nơi cảnh vật vắng vẻ, hoang vu, vượt biết bao vực thẳm, thung sâu, mới tới được đỉnh núi nơi Thần Gió ở. Nơi đây, gió quất mạnh, gào thét, hú bên tai, không cho nàng tiến lên. Cuối cùng, gom hết sức lực còn lại, công chúa leo lên tới đỉnh. Một cụ già to lớn, râu dài bạc trắng, ngồi tựa lưng vào một tảng đá, bên cạnh cụ là bảy cái chai nút kín.

- Con tìm gì ở đây? Và con lên đây bằng cách nào? Thần Gió cau mày, nghiêm giọng hỏi.

Công chúa ngồi xuống một tảng đá, kể lại những bất hạnh của mình. Nàng mệt quá, đến nỗi giọng nàng yếu dần, yếu dần rồi tắt hẳn. Nàng ngồi đó, lặng yên, mắt nhắm nghiền, nước mắt rơi lã chã xuống đôi bàn tay trắng ngần.

Thần Gió không nói một lời, nhốt vào chai cơn gió cuối cùng đang rong chơi trên cánh đồng. Cảnh vật lặng như tờ, hoàng hôn dần buông xuống. Công chúa khóc mãi. Thần Gió lại lên tiếng, nhưng lần này giọng ông hết sức ân cần.

- Như vậy là, con muốn ta cho con mượn bảy cái chai. Con có biết rằng chúng đựng tất cả gió của thế gian này? Liệu có thể cho người phàm trần mượn những thứ như vậy không?

Công chúa ngừng khóc, nhưng không hé răng nửa lời, cả đến nhìn Thần Gió nàng cũng không dám nữa.

- Ta chưa từng thấy ai dám hy sinh thân mình như con, Thần Gió nói tiếp, giọng nghiêm trang. Con không đáng bị khổ sở đến thế. Ta cho con mượn bảy cái chai, nhưng con sẽ phải mang trả lại ta. Phải nhớ rằng chỉ được mở nút chai khi đã đến bờ biển Jou, và đã mở thì phải mở cả bảy cùng lúc để gió bão đủ sức xuống tận đáy biển sâu.

Quá vui mừng, công chúa luống cuống không biết trước tiên phải làm gì. Thần Gió giúp nàng bọc bảy cái chai trong chiếc khăn choàng, nàng buộc bốn góc lại. Nàng hết lòng cảm ơn Thần Gió, rồi nhanh chóng lên đường trở về. Đêm đã xuống nhưng nàng không muốn nghỉ ngơi lấy một giây. Nàng vấp ngã loạng choạng trong bóng tối, tiến lên chậm chạp, khi phương đông đã tỏa sáng ánh hồng và dãy núi lùi lại phía sau, nàng tiến thẳng về phía biển Jou. Tuy nhiên, đường còn dài! Con đường như không hề ngắn lại. Nàng đi như thế trong nhiều ngày liền, đi cả ngày lẫn đêm, không ngừng nghỉ. Cuối cùng nàng cũng tới được một vùng quen thuộc. Chỉ còn một đoạn đường ngắn là đến biển Jou, đột nhiên toàn bộ sức lực rời bỏ nàng. Nàng cảm thấy không thể cất thêm một bước nào nữa. Cần phải nghỉ, dù chỉ trong chốc lát. Nàng thấy trên một đoạn khuất của con đường một phiến đá lớn nhẵn lì. Phiến đá như mời gọi nàng. Công chúa tự nhủ chỉ ngả lưng một lát rồi lại lên đường ngay. Nàng thận trọng đặt cái bọc đựng bảy chai gió dưới chân, ngả mình lên tảng đá rồi ngủ thiếp đi mê mệt.

Trong suốt thời gian đó, nhà vua phái người dò la tung tích con gái khắp xứ sở, nhưng không ai để lộ nàng đã đi qua. Các sứ giả của nhà vua lùng sục mọi con đường dẫn đến biển Jou, cày xới những vùng xung quanh. Một sự tình cờ ác hại dẫn hai tên trong bọn chúng đến gần phiến đá trên đó nàng công chúa đang say ngủ. Không một tiếng động, chúng xem xét các thứ đựng trong bọc. Vì tò mò, chúng mở nút một cái chai và ph...ì...i...i..., gió thổi rung cây cối. Hai tên sứ giả phát hoảng. Nhưng chúng quyết định cứ kín đáo mở nút tất cả các chai. Trước hết, chúng đóng nút cái chai vừa mở, đặt vào chỗ cũ. Sau đó, chúng mở nút cái chai thứ hai. U..ú...u...u...! Gió bão hú rung chuyển quả đồi bên cạnh. Cuống cuồng, chúng mở nút cái chai thứ ba, và u...ù...u...u! Một luồng gió xoáy gầm vang, tuốt sạch lá trên các cành cây. Thật kinh ngạc làm sao chúng không bị cuốn đi!

Cùng lúc, công chúa cựa mình, hai tên sứ giả phát hoảng, lủi mất. Công chúa mở mắt và nhận ra mình đã ngủ thiếp đi. Nàng vội vàng đứng dậy, vớ lấy cái bọc và chạy thật nhanh về phía biển Jou.

Trên mặt biển mênh mông, những gợn sóng lăn tăn rập rình lười biếng. Công chúa dừng lại trên bờ cát. Mắt nàng lấp lánh như hai viên kim cương. Nàng lẩm nhẩm khe khẽ một mình: “Kiên nhẫn một chút nữa thôi, chỉ lát nữa mình sẽ được gặp lại chàng!” Nàng nhanh chóng cởi bọc, lấy ra bảy cái chai, xếp cạnh mé nước, mở cái chai thứ nhất, rồi cái thứ hai. Mặt biển rung rinh, rên xiết, những đợt sóng cao như núi chồm lên. Công chúa vội mở nút chai thứ ba và thứ tư. Từ giữa biển, một cột nước khổng lồ dựng lên, cao, cao hơn nữa, nước bắn tung tóe. Cột nước như tung hết nước biển lên trời. Công chúa vội mở ba cái chai còn lại. Nhưng không một chai nào có gió thoát ra quật vào biển Jou. Không còn gì hết.

Công chúa đứng đó, lặng người vì tuyệt vọng. Nàng ngắm mấy cái chai rỗng, và hiểu rằng, kể từ nay, chẳng bao giờ, chẳng bao giờ nữa, nàng có thể giải thoát được cho chồng mình. Lặng lẽ, nàng đổ vật xuống bờ biển như hóa đá, nhìn mặt biển mỗi lúc mỗi lặng dần những đợt sóng lớn. Nàng cảm thấy mình đang chết. Đến rạng đông ngày thứ ba, mặt trời mọc trên biển Jou, công chúa nằm bất động trên bờ cát, cạn hết sức sống, chỉ riêng đôi mắt đã chết vẫn nhìn về phía nước sâu nơi thủ lĩnh Albin thân yêu của nàng vĩnh viễn nằm lại.

Từ đó đến nay đã nhiều năm trôi qua, nhưng dân chúng vẫn còn kể câu chuyện này. Và mỗi khi phía chân trời hiện lên một vầng mây trắng lớn, họ lại nói: “Đó là Mây Trắng đi tìm chồng. Chắc chắn trời sẽ nổi gió”.

6. Ngọc Hoàng trừng trị thói tham nhũng như thế nào?

Một phật tử tập tu khấn nguyện trong một ngôi đền gỗ nơi có bốn pho tượng bà vãi và một pho tượng Thần Hộ Thành. Chợt anh nghe có tiếng bước chân đến gần.

 Anh ngẩng lên và thấy một bóng đàn ông. Người này đi qua gần anh tập tu nhưng không nhìn thấy anh. Đến gần pho tượng Thần Hộ Thành, người này rạp mình thì thầm khấn vái:

- Lạy Thần Hộ Thành, xin ngài phù hộ cho vụ làm ăn ngày mai của con được trót lọt. Con muốn trộm túi tiền vàng của lão hàng xóm. Nếu ngài giúp cho, con xin hậu tạ. Con sẽ dâng lễ vật mà ngài rất thích: Một con vịt quay và nửa con lợn quay.

Tiếng thì thầm tắt ngấm, anh tập tu thấy bóng đen nhón chân, lặng lẽ rời khỏi đền.

Tối hôm sau, khi anh tập tu thắp hương trong đền thì một người đàn ông lạ vào đền. Hắn cắp nách nửa con lợn quay và một con vịt quay. Hắn đặt đồ lễ trước Thần Hộ Thành, cúi lạy rồi đi ra.

Anh tập tu đến gần pho tượng thấy tượng thần nở một nụ cười mãn nguyện!

“Vậy ra, ngài cũng thế ư?” Anh tập tu băn khoăn. “Ngài làm ra vẻ thánh thiện, nhưng ngài cũng bị mua chuộc bởi con vịt quay và nửa con lợn quay. đút lót bổng lộc như thế này quả là đời ta chưa thấy bao giờ!”

Suy nghĩ một lát rồi anh quyết định trở về phòng riêng lấy ra một tờ giấy bản, một chiếc bút lông, nắn nót viết một lá đơn kiện Thần Hộ Thành.

Anh mang lá đơn đến nhà sư trụ trì cao nhất.

- Ôi trời! Đây là một chuyện rất chi hình thức! Ta không muốn dính vào. Làm sao viết đơn kiện một vị thần, trong khi chúng ta cận kề bên ngài ấy hàng ngày! Tốt hơn hết vẫn là thu xếp một cách thân thiện. Nói rồi vị cao tăng xé lá đơn kiện, đốt từng mảnh nhỏ.

Đống giấy cháy thành một ngọn lửa sáng. Những mẩu giấy cháy đen vặn vẹo bay lên không trung, bay lên cao, cao mãi, đến tận trời và rớt xuống chân Ngọc hoàng.

“Kẻ nào tấu lên ta thế này?” Ngọc hoàng tò mò hỏi. Ông nhặt những mẩu giấy cháy đen, chắp nối lại với nhau để khôi phục lá đơn.

Càng đọc khuôn mặt nhân từ của ông tối sầm lại. Ông tức giận nghĩ: “Chư thần của ta ở dưới trần gian quả là rất tinh ma. Ta đã không giám sát chúng chặt chẽ. Con vịt quay, nửa con lợn quay, hay ta xin các ngươi một phần nhỉ! Ta cũng sẵn lòng thưởng thức chứ. Dẫu không phải một trọng tội, ta quyết không dung. Phải có trật tự kỷ cương chứ. Ta không chịu được sự lộn xộn kia, cũng như thói ăn cắp nọ. Không thể để thế, không thì chẳng bao lâu nữa trần gian sẽ nhạo báng cả Trời!”.

Tức thì ông phái xuống trần gian một khâm sai ngoại ban kỳ lạ. Đồng thời ông loan báo: Bệnh này chỉ có thể chữa khỏi bằng cách sát vào chỗ bị thương một ít đất lấy từ pho tượng Thần Hộ Thành. Từ đó cánh cửa ngôi đền gỗ không lúc nào đóng lại vì khách thập phương lũ lượt kéo nhau về. Các con bệnh nối đuôi nhau đến cạo mỗi người một ít đất trên pho tượng đất sét. Họ cúi lạy thật thấp và vội vã gãi, cạo, ra sức bẻ một mẩu nhỏ về làm nước thánh. Chẳng bao lâu sau vị Thần Hộ Thành chỉ còn trong hoài niệm.

Trần gian ca ngợi Ngọc hoàng đã hết sức tài tình cứu khỏi cho trăm họ thoát căn bệnh xấu xa.

7. Chuyện chàng Nhân

Ngày xửa ngày xưa, khi con người sống rải rác khắp thế gian, nhà nọ cách nhà kia hàng ngàn dặm, có một vật thể lạ sáng lấp lánh xuất hiện trên bầu trời.

 Khi vật thể đến gần trái đất, người ta nhận ra đó là một ngôi sao chổi sáng rực. Trong khi ngôi sao chổi bay qua trái đất đang ngủ trong đêm đen, những ngọn lửa nhỏ như những sợi tóc rơi xuống từ cái đuôi lửa. Chỗ chúng rơi xuống, cỏ cháy thành than, mặt đất bốc lửa, cả vùng bùng lên một đám cháy dữ dội thiêu ra tro hàng ngàn ngôi nhà. Xứ sở bị cháy trụi hóa thành một sa mạc khô cằn. Những con người khốn khổ và thiên nhiên làm mồi cho hạn hán đói khát.

Trong xứ ấy có một chàng trai luôn nghĩ đến người khác nhiều hơn bản thân mình, sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Dân chúng gọi chàng là chàng Nhân. Chàng có trái tim nhân hậu đầy cảm thông, cặp mắt sáng lấp lánh, cởi mở, thực thà. Chàng vui khi thấy một người láng giềng vui, và khóc cùng anh ta khi anh ta gặp điều phiền muộn.

“Làm cách nào cứu dân chúng thoát khỏi nạn hạn hán khủng khiếp này?” Chàng Nhân băn khoăn, và câu hỏi đó không lúc nào rời chàng. Thế nhưng nghĩ mãi mà không biết phải làm gì, một hôm chàng quyết định đi xin lời khuyên của một vị thông thái già ở làng bên.

Nghe chàng thổ lộ xong, cụ già nhún vai nghiêm giọng:

- Phải, con trai ạ, thế đấy. Cụ của ta xưa có truyền cho ta cái bí mật lớn của ngọn lửa vĩnh cửu cháy trong đáy vũ trụ. Thỉnh thoảng từ ngọn lửa vĩnh cửu ấy lại văng ra một mớ tóc lửa, những ngọn lửa nhỏ rơi xuống mặt đất, thiêu trụi cả một vùng. Chỉ có người nào lấy được viên ngọc lục bảo chìm dưới đáy một hồ nước sâu nằm khuất giữa dãy núi Ngọc, người ấy có thể cứu giúp dân chúng. Nhưng dãy núi Ngọc rất xa, đường đi nhiều nguy hiểm và cạm bẫy. Vả lại, lấy được viên ngọc lục bảo khó lắm. Một con nhện đen khổng lồ canh giữ viên ngọc. Con nhện chăng tơ trên mặt nước hồ và bắt giữ tất cả những ai đến gần.

Chàng Nhân chăm chú lắng nghe. Ông cụ thông thái ngừng lời một lát rồi nói tiếp:

- Người nào muốn xuống được đáy hồ, trước hết phải qua một quả đồi có hoa độc để đoạt mũi kim vàng của ong vò vẽ chúa. Chỉ có vũ khí ấy mới giết được con nhện đen. Đó là một hành trình khó khăn và cực kỳ gian khổ. Nhiều kẻ táo tợn thử sức đã phải bỏ mình.

- Con muốn thử xem. Ra sao thì ra! Chàng Nhân quả quyết. Chàng cảm tạ ông cụ thông thái và lên đường.

Chàng lang thang rất lâu qua những xứ sở hoang vu, cuối cùng đến một khu rừng. Rừng như muốn nuốt chửng kẻ không mời, con đường như vô tận. Chàng đang sải bước mải miết trong khu rừng chẳng mấy niềm nở ấy thì đột nhiên khung cảnh yên lặng bị xé toạc bởi một tiếng rên la. Chàng Nhân ngoái lại thấy một con diều hâu đang quắp trong móng của nó một con quạ con, cố lôi ra khỏi tổ.

- Hãy để con chim non được yên! Chàng Nhân quát, nhặt một viên sỏi ném con diều hâu. Con chim bắt mồi buông con quạ con, bay lảng ra xa.

- Quạ, quạ, cảm ơn chàng Nhân. Chàng đã cứu con tôi, quạ bố kêu “quạ quạ” trên đầu chàng, khi nào chàng cần đến sự giúp đỡ của tôi, chỉ cần nhớ đến tôi.

“Làm thế nào một con quạ có thể đến giúp mình?” chàng Nhân nghĩ thầm, nhưng chàng không trả lời mà cứ tiếp tục đi. Chàng đi rất lâu, cuối cùng cánh rừng trở nên thưa thớt. Đến bìa rừng, chàng thấy mình ở chân một quả núi lớn, đỉnh núi phẳng như mặt bàn. Muốn lên đến đỉnh phải men theo một con đường mòn cheo leo, khúc khuỷu, mất hút giữa những bụi gai rậm rạp. Chàng Nhân theo con đường mòn ấy lên đỉnh núi, mặc cho đá răm làm đau chân, cỏ sắc cứa nát tay, suốt ba ngày ba đêm leo núi! Cuối cùng chàng lên tới đỉnh. Trước mắt chàng cả một vùng rộng phủ đầy hoa độc. Chính giữa sừng sững một thân cây già rỗng ruột, trên cành cao nhất lủng lẳng một tổ ong vò vẽ.

“Làm sao lên đó được?” Chàng Nhân chán nản. Chàng quan sát lũ ong vò vẽ như những đám mây vù vù xung quanh cái tổ và trên khắp cánh đồng hoa. “Ôi! quạ ơi, quạ! Giá mà ngươi có thể đến giúp ta!” Chàng lẩm bẩm. Vừa dứt lời thì bầu trời tối sầm, bên trên quả đồi hoa độc hàng ngàn con quạ vừa lượn vòng vừa kêu quạ quạ.

- Quạ, quạ! Tôi và toàn gia đình đến cứu chàng đây, con quạ đen có con được chàng Nhân cứu kêu lên. Trong lúc nó kêu thế, từng đàn quạ đen khác lũ lượt bay đến từ bốn phương trời. Mỗi con ngậm trong mỏ một nhánh cỏ khô đặt quanh thân cây rỗng.

- Quạ, quạ! Chàng Nhân, đánh lửa đi! Quạ đen kêu. Chàng Nhân lấy hai viên đá lửa đập vào nhau hồi lâu cho đến khi bật ra một tia lửa nhỏ bén vào cỏ khô thành một đống rấm lửa, tỏa khói dày đặc xung quanh cái cây. Lũ ong vò vẽ tán loạn bay tháo thân, lát sau không còn dấu vết một con nào. Chàng Nhân lại gần thân cây rỗng, trèo lên tổ ong. Nhưng chưa bắt được ong chúa thì nó đã điên cuồng chạy trốn.

- Quạ, quạ! Quạ đen lại lên tiếng. Đừng lo, tôi sẽ bắt nó giúp chàng! Con quạ rượt đuổi ong chúa đang vừa bay xập xòe vừa quẫn chí vo vo như điên. Cuối cùng quạ ta cũng bắt được con này, cặp trong mỏ đem đến cho chàng Nhân. Chàng trai bẻ mũi kim vàng của ong chúa, gói cẩn thận trong chiếc mùi soa. Chàng chân thành cảm ơn quạ và hai người bạn nói lời tạm biệt.

- Chúc thắng lợi sứ mạng của chàng! Con quạ chúc và sải cánh bay theo đàn.

Chàng Nhân tiến về phía Núi Ngọc. Trên đường chàng đi, không biết đã bao lần mặt trăng lặn rồi lại mọc trên bầu trời.

Hơn chín lần chàng trai suýt chết đuối khi vượt qua những dòng sông hung hãn, hơn chín lần chàng phải băng qua những vực sâu hun hút đến chóng mặt, nhưng rốt cục chàng cũng tới được chân Núi Ngọc. Bởi mặt trời không đủ sức nóng sưởi ấm cho một quả núi lớn đến vậy nên ở đây khí lạnh thấu xương. Càng leo lên cao, trời càng tối và lạnh. Cuối cùng chàng chìm trong bóng tối dày đặc, và trong bóng tối ấy, hồ trên núi trải rộng mênh mông.

Mọi vật phẳng lặng như chết trên mặt hồ, chỉ tít cao, bên kia những vách đá, là có thể đoán được một mảnh trời không với tới.

Mặt hồ phẳng lặng như bị bỏ bùa, duy ở giữa hồ có những bong bóng nước lần lượt sủi lên rồi vỡ tan.

“Chắc chắn lối dẫn xuống đáy hồ phải qua đây”, chàng Nhân phỏng đoán và cúi xuống nước thăm dò, tim chàng thắt lại.

Dưới đáy hồ, cặp mắt mở to, lờ đờ của một con nhện đen khổng lồ đang quan sát chàng, nó từ từ chuẩn bị những cái chân dài chực lao vào tấn công. Chàng Nhân cởi vội nút thắt trên chiếc mùi soa, nhưng chưa kịp chuẩn bị mũi kim vàng của ong chúa thì con nhện đã đảo cặp mắt lồi, lờ đờ nổi lên mặt nước và lao vào con mồi.

Một cuộc giao tranh không cân sức diễn ra. Con nhện bọc xoắn lấy chàng Nhân trong tơ lưới của nó. Đúng lúc nó sắp vồ chàng mang đi thì vô ý đâm phải mũi kim vàng, lập tức nó nhả con mồi, quằn quại trong cơn giãy chết và cuối cùng quay lơ chìm nghỉm trong nước hồ. Trong lúc nó rơi xuống đáy hồ, sợi tơ của nó giở tung ra phía sau. Chàng Nhân gỡ được dây trói liền để ý ngay đến sợi tơ nhện này, chàng nắm sợi tơ và lôi tuột xuống đáy hồ. Càng xuống sâu, nước càng lạnh. Người anh hùng của chúng ta có cảm tưởng không bao giờ tới được đáy hồ, chàng đã nghĩ đến việc phải ngoi lên mặt nước, nhưng đúng lúc đó chân chàng chạm đáy. Trong bóng tối, những tia sáng rực rỡ thu hút sự chú ý của chàng. Đó là viên ngọc lục bảo. Chàng Nhân vội vàng cào cát lạnh lấy viên ngọc, nhưng viên ngọc lạnh quá không thể cầm trong bàn tay tê cóng. Sợ đánh rơi mất, chàng bỏ vào miệng và nhanh chóng ngoi lên.

Ra khỏi hồ nước, chàng kiệt sức nằm sõng soài trên cát. Chàng ngủ thiếp đi rất lâu. Tỉnh dậy, chàng muốn rửa mặt cho mát bèn cúi xuống hồ. Trông thấy bóng mình phản chiếu trên mặt hồ phẳng lặng như gương, chàng sững sờ kinh ngạc nhận ra mình đã thay đổi hoàn toàn! Không còn là chàng - chàng Nhân - nữa, mà là một thần nước khổng lồ, hùng mạnh, miệng phun ra những dòng suối.

Chàng vội vã quay trở về làng. Bằng bước chân của người khổng lồ, chàng băng qua vực sâu, vượt qua núi cao, ở đâu chàng đi qua thì ở đấy những dòng nước tuôn trào. Trong vết chân của chàng, cỏ xanh mọc lên, những cánh đồng khô hạn lại cho mùa màng bội thu.

Về đến làng quê, chàng kiệt sức ngã soài ra đất. Từ thân mình khổng lồ của chàng một luồng nước phun trào ngập đầy một hồ lớn. Dân chúng khắp nơi đổ đến chiêm ngưỡng cảnh tượng. Bao nhiêu là nước, thật kỳ ảo! Rồi họ bắt tay vào đào những con mương để dẫn nước hồ ra toàn vùng.

Từ đó, xứ sở ấy không còn sợ những ngọn lửa nhỏ của sao chổi nữa.

8. Người thợ đẽo đá

Ngày xưa có một người thợ đẽo đá ngay thẳng, chăm chỉ và có nhiều ý tưởng thông minh. Phú hộ trong vùng nghe tiếng bèn cho gọi anh đến giao cho một số việc lặt vặt.

Lần đầu tiên được thâm nhập vào một nhà sang trọng, anh thợ đẽo đá bắt đầu sống như một người giàu có. Anh ngủ trên một chiếc giường nệm êm, nằm ườn quấn mình trong chăn gấm, sai mang đồ ăn đến tận miệng: Vây cá mập, bụng cá mực, tất cả các món ngon nhất, hết món nọ lại món kia. “Ta cũng có thể được như bọn họ,” anh thợ đẽo đá bất bình tự nhủ. “Có những kẻ sống như thế này đây, mà ta thì phải làm việc. Ta đã chán phải làm việc không ngừng lắm rồi,” càng nghĩ anh càng cáu hơn. “Ta sẽ không nhận bất cứ một yêu cầu nào nữa, đủ rồi! Ta phải nghĩ cách làm giàu thật nhanh.”

Thế là anh thợ đẽo đá dễ thương của chúng ta ngừng làm việc. Anh nằm dài, trân trân ngó lên trần nhà. Anh suy nghĩ, suy nghĩ mãi mà chẳng một ý tưởng hay ho nào nảy ra trong đầu.

Những lo nghĩ của anh đến tai một bà tiên trong vùng. 

“Anh ta sẽ được như anh ta muốn,” bà nghĩ bụng. “Nếu anh ta muốn trở nên giàu có đến thế, thì được thôi anh ta sẽ giàu!”

Vậy là anh thợ đẽo đá thực thà của chúng ta, chẳng hiểu sao, bỗng thấy mình trong cảnh giàu sang, nhưng điều đó chẳng hề làm anh rối trí. Anh nhanh chóng cảm thấy quả thật mình đang ở nhà mình, trong dinh thự của mình và đâm ra lười biếng cho phù hợp với hoàn cảnh.

Một ngày nọ người mang chiếu chỉ của hoàng đế đi qua thành phố. Mọi sự rối tung lên: Khắp nơi tiếng cồng, tiếng trống lôi kéo sự chú ý của dân chúng. Mọi người chạy đến rạp mình trước viên sứ giả nằm trên võng. Riêng anh thợ đẽo đá của chúng ta uể oải nằm dài trên nệm. Anh vừa thưởng thức một món ăn khoái khẩu vừa chắc mẩm một người giàu có như anh không việc gì phải nhọc thân vì một viên quan tầm thường. Nhưng viên quan tai to mặt lớn kia lại không nghĩ vậy. “Thế nào, tên hỗn xược này không đến cúi lạy trước ta ư?” Bị xúc phạm, ông ta hạ lệnh cho anh thợ đẽo đá phải nộp ba trăm lạng bạc và ban thêm cho ba trăm gậy.

Quân lính đánh xong buông anh thợ đẽo đá ra, nhưng anh không sao đứng nổi nữa. Anh rên rỉ, than van: “Ôn dịch của cải! Phải chăng một tên quan như tên này đã được núp dưới một danh vị tốt?” Anh không còn thỏa mãn được sống trong cảnh giàu sang nữa. Anh chỉ còn nghĩ cách làm sao trở thành một viên quan.

Bà tiên biết nỗi trăn trở của anh bèn làm phép giúp anh. Thế là một ngày kia anh thợ đẽo đá của chúng ta tỉnh dậy không phải trong lốt một phú hộ vô công rồi nghề, mà trong lốt một viên quan uy nghiêm và hùng mạnh.

Vị thế ấy đáng kể đấy chứ! Anh thợ đẽo đá của chúng ta thậm chí không cần học những gì một người ở địa vị ấy phải học. Thoạt tiên anh biết chỉ huy, biết áp đặt sự im lặng cho kẻ khác và bằng mọi cách buộc người ta làm những điều họ không thích. Dân chúng ngấm ngầm than phiền với nhau: “Tên quan này, chúng ta chỉ còn thiếu có hắn nữa thôi, cho tôi hỏi anh một chút, anh bạn láng giềng, phải chăng đầu óc hắn lèn đầy cám!” Họ còn xì xào nhiều điều tệ hại khác về anh, không mảy may kính trọng, nhưng dẫu sao họ vẫn phải giữ mồm giữ miệng, nghe lệnh bề trên và đứng cách xa một khoảng thích đáng. Anh thợ đẽo đá thấy thế thì rất hài lòng, thường bỏ công tìm những trò vui mới.

Một ngày nọ anh đi thăm thú đồi núi trong vùng cùng với mấy bạn hữu. Trên đường, họ gặp một nhóm các cô gái xinh đẹp.

- Ôi, các bạn ơi, ta vui chơi nào! Anh thợ đẽo đá kêu toáng lên. Chọn lấy cô nào hợp với bạn, không cho cô nào thoát; chúng ta sẽ đùa giỡn họ! Dứt lời, cả đám nhảy xổ vào các cô gái.

Những người nông dân làm đồng gần đấy nghe được tiếng kêu la. Họ từ khắp nơi chạy đến, lao vào bọn không mời, giáng cho bọn chúng đòn trừng phạt thích đáng, và anh thợ đẽo đá, kẻ có tội nhất vì đã kích động đám bạn bè, lãnh đòn gấp đôi.

Từ đó, anh bắt đầu bất mãn với số phận của mình. “Thiên hạ có cúi đầu trước ta hay không, với ta chẳng mấy hệ trọng, nếu như ngay sau quả đồi đầu tiên, kẻ chạy đến đầu tiên lại có thể giã ta như thế này?” Anh ta cay đắng nghĩ. “Tốt nhất là làm một anh nông dân bình thường sống trong núi. Anh ta hẳn mọi người sẽ để cho yên thân. Nếu anh làm anh ta mất lòng, anh ta sẽ đánh anh, dù anh có ngồi võng vàng hai mươi tên hầu khiêng cũng vậy thôi. Ta thích làm anh nhà quê bình thường như thế!”

Từ đó, không gì có thể làm anh thợ đẽo đá thích thú được nữa. Anh chỉ nghĩ đến làm một người nông dân bình thường trong núi. Và bà tiên, thật tốt làm sao, lại thực hiện nguyện vọng của anh.

Từ đó trở đi, thay vì nằm ườn trong dinh thự từ sáng đến tối, anh chăm chỉ cày cấy mảnh đất mình ưng ý, bất kể tuyết rơi hay gió nổi, bất kể mặt trời thiêu đốt tấm lưng. Và anh hoàn toàn sung sướng!

Sung sướng cho đến ngày ánh nắng chói chang ngập tràn mặt đất, đánh gục tất cả những ai còn sống sót, mỗi người phải tìm lấy một góc có bóng râm mà trú ẩn. Chim chóc ngừng hót trong bụi cây, lũ trâu đầm mình trong nước, không buồn cử động, duy chỉ có đôi mắt còn lộ ra. Trời nóng quá đến nỗi người ta chẳng thể thở, đi lại, hay nói năng, ngay cả ngủ cũng không. Chỉ còn dân sơn cước tiếp tục làm việc như mọi khi, dẻo dai và không khuất phục như những nhánh lúa. Anh thợ đẽo đá nheo mắt, lau mồ hôi đầm đìa trên trán. Anh nghĩ: “Chỉ có mặt trời là ở vị thế tốt nhất. ái chà! Nếu ta là mặt trời! ừ nhỉ!”

“Tại sao không?” Bà tiên nghĩ. “Anh ta cứ thử, nếu thích!” Và bà biến anh thành một mặt trời, quẳng lên cao tít.

Anh thợ đá sung sướng quá: anh lướt đi khoan khoái, chiếu sáng và sưởi ấm trái đất tùy ý thích, không một ai dưới đất có thể kêu ca, phàn nàn.

Nhưng kìa, một ngày đẹp trời nọ, mây xuất hiện ở phía chân trời. Thoạt đầu anh thợ đẽo đá không thèm để ý, nhưng mây cứ to dần, lan rộng và tối sầm. “Tại sao tên kia lại bành trướng ghê thế nhỉ?” Anh thợ đẽo đá ngạc nhiên. “Tia sáng của ta không thể xuyên qua hắn.” Đúng vậy, tia mặt trời không chọc thủng được vầng mây. Suốt thời gian mây phủ bầu trời - những mấy ngày liền - trái đất như không còn mặt trời. Cuộc vui của anh thợ đẽo đá thế là hỏng. “Làm mặt trời thì được cái gì,” anh tự nghĩ, “nếu ta không thể chiếu sáng như ta muốn. Làm mây, hẳn lại là chuyện khác!”

“Được thôi,” bà tiên nghĩ bụng. “Nếu anh ta muốn thế, anh ta sẽ được thế.” Và bà biến anh thành một đám mây lớn đen ngòm.

Một lần nữa, anh thợ đẽo đá rất hài lòng. Anh thả sức vươn rộng, che khuất toàn bộ mặt trời, thích thú thấy người dưới đất lo lắng, săm soi nhìn cao xanh. Anh thấy hơi thư giãn, rồi anh phấn chấn hẳn định bụng sẽ đi rong chơi. Anh lang thang chỗ này chỗ nọ trên bầu trời, tâm trạng hết sức khoan khoái. Chợt ào đến một trận gió không biết từ đâu. Trận gió lay chuyển dữ dội đám mây “thợ đẽo đá” của chúng ta đúng lúc anh này đang tính chợp mắt một lát.

- Mi làm sao thế, mi điên hay sao? Mi không thể thổi chỗ khác được à?

- Tớ có thể, nhưng tớ không muốn đấy, gió trả lời giễu cợt. Lúc này tớ cứ muốn truy đuổi đằng ấy tan tác thì làm sao.

- Nhưng ta thì không! Anh thợ đẽo đá vặn lại, giọng dọa nạt đến mức người dưới mặt đất tin chắc giông bão sắp nổ ra đến nơi trong đám mây kia.

Gió không đời nào chịu thua cuộc. Hắn lấy hết sức xô đẩy đám mây và thế là v...ù...u...u! Anh thợ đẽo đá bay vù ra sau núi, nhưng anh cố sống cố chết níu vào đỉnh núi. “Nào, nào, thôi đi nào!”Anh la gió, nhưng hắn ta càng lúc càng điên, không hề có ý dừng lại. Hắn xô mây sang phải, sang trái, rồi quay tròn đến mức đũng quần anh thợ đẽo đá rách tướp ra. “Đến thế là cùng!” anh cáu tiết. “Thật đẹp mặt chưa, làm một đám mây tự do cơ à, nếu như cơn gió đầu tiên thổi đến đã có thể mặc sức chơi xỏ ta, ta thà làm gió còn hơn.”

“Anh ta muốn làm gió, thế thì được!” Bà tiên nghĩ. Cùng lúc ấy, anh thợ đẽo đá của chúng ta thổi qua bầu trời, lọt vào từng khe hở, làm xoay tròn trong không trung cành và lá, anh rung chuyển, thổi tan tác tất cả những gì có thể, nô đùa thỏa thích đến mức cây cối run bắn lên. Anh khoái trá: “Quả tình từ nhỏ đến giờ ta chưa được nô đùa thế này!” Anh thích thú lao vào cuộc chơi! Ph...ù...u...u! Ph...ì...i...i! Bỗng anh cộc đầu vào cái gì đó! P...o...u...m! Một khối đá lớn sừng sững trước mặt anh chàng.

- Mi chẳng biết phép tắc gì cả? Anh thợ đẽo đá cau có. Trước mặt ta, khi ta muốn, cây thông cao nhất cũng phải cúi đầu. Rạp mình xuống!

- Đừng hòng, tảng đá thách thức, và hắn không nhúc nhích thật.

- Rồi mi sẽ thấy, anh thợ đẽo đá tuyên bố và ráng sức thổi.

Khối đá vẫn trơ trơ ra đó, nhìn anh thản nhiên.

- Được, có chuyện gì lớn đâu, nhưng ngay bây giờ mi sẽ thấy! Anh thợ đẽo đá lấy hết sức thổi.

Tảng đá càng trơ lì hơn.

- Chao ôi, giá ta là một tảng đá vững chãi, không một trận gió nào lay chuyển được, anh thợ đẽo đá thở dài ngao ngán. Anh sắp khóc đến nơi.

“Rốt cục”, bà tiên tốt bụng không đành lòng nghe anh chàng than phiền, “cứ thử cũng chẳng hại gì.”

Thoắt cái, anh thợ đẽo đá đã trở thành một phiến đá đẹp đẽ, cao thẳng, và bà tiên đặt anh nghễu nghện trên đỉnh một khối đá cao.

Bây giờ thì anh thợ đẽo đá đã có thể hài lòng. Mặt trời, gió hay mây, chẳng gì có thể quấy quả anh được nữa. Trụ vững trên nền đá, anh bao quát toàn thể phong cảnh đẹp tuyệt vời. Anh cảm thấy vô cùng thỏa mãn. “Đây mới thật là vị thế tốt hơn cả. Giờ ta không còn phải lo ngại gì.”

Nhưng một hôm, anh đang đứng đấy rất vô sự thì bỗng nghe có tiếng người. “Cái gì thế này?” Anh hoang mang tự hỏi. “Kẻ chết dẫm nào lại leo lên tận đây?”

Tức thì anh thấy bốn người đàn ông ra khỏi bìa rừng, bốn thợ đẽo đá, liều mạng trèo lên tận đỉnh khối đá.

- Phiến đá đẹp quá, người thứ nhất trầm trồ vẻ hài lòng. Đúng là thứ chúng ta đang cần!

- Chỉ tiếc, anh sẽ khó mà bẩy được nó ra khỏi bệ đá, người thứ hai kết luận sau khi xem xét một vòng. Chúng ta phải đẽo tại chỗ một tí, sau đó hãy thử bẩy nó ra.

- Đồng ý! Chúng ta đi lấy dụng cụ nào, người thứ ba hô to. Và họ bỏ đi.

Triển vọng sắp sửa bị mấy người kia đục đẽo, rồi bẩy ra khỏi bệ khiến cho anh thợ đẽo đá của chúng ta rất không vui.

- Ta đã không biết bằng lòng với nghề của mình! Anh thợ đẽo đá than thở. Không có nghề nào tốt đẹp hơn!

Nghe thấy thế, bà tiên liền bảo:

- Nếu anh muốn, ta sẽ biến anh trở lại là thợ đẽo đá, nhưng đây là lần cuối cùng ta giúp anh. Vì vậy, hãy suy nghĩ cho thật kỹ!

- Tôi không muốn mãi làm một tảng đá, anh thợ đẽo đá dứt khoát. Tôi không muốn là cái gì khác ngoài chính tôi trước kia. Hãy biến tôi trở lại là thợ đẽo đá, tôi van bà!

Bà tiên thực hiện mong ước cuối cùng của anh. Và anh thợ đẽo đá, trải qua bao nhiêu thăng trầm, hiểu ra rằng vạn vật trên đời đều có mặt trái và chỗ đứng của nó. Anh thôi không mơ tưởng hão huyền đến những cái không thể, và vui vẻ trở lại nghề của mình. Một thời gian sau, anh trở nên sung túc nhờ làm việc chăm chỉ. Anh trở thành một nhân vật quan trọng giữa đồng bào mình, và sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long.

9. Sao mai và Họa mi

Cao, cao lắm là Núi Mây không có đường lên. Trước núi sừng sững hai khối đá vững chãi, dưới chân mỗi khối đá tuôn ra một nguồn nước nhỏ, mảnh mai và trong vắt như pha lê.

Hai nguồn nước chảy uốn khúc qua vùng đất như hai dải ruy-băng bằng bạc, để rồi giao hòa trong nội cỏ tạo thành một con suối. Con suối chảy xa hơn, tưới mát cho làng mạc, tiếng suối róc rách như tiếng lục lạc. Giai điệu dịu êm của nó biểu lộ vừa niềm vui vô hạn, vừa nỗi đau tột cùng. Về hai khối đá này, các cụ già trong vùng còn kể lại một câu chuyện rất kỳ lạ.

Xưa kia, sinh sống trong vùng này có một thiếu nữ xinh đẹp và một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Thiếu nữ tên là Sao mai. Nàng có gương mặt đẹp mê hồn và tươi mát như sương mai, giọng nói ngọt ngào, vuốt ve như lông chim nhỏ. Khi bầu trời đầy mây đen, tiếng hát của nàng gọi ánh nắng mặt trời, khi mặt đất màn đêm buông xuống, tiếng hát của nàng gọi các vì sao và mặt trăng. Ai nghe được tiếng hát ấy lập tức quên hết muộn phiền.

Chàng trai tên là Họa mi. Đó là một chàng trai có trái tim trong trẻo như pha lê. Trên khuôn mặt cao quý đôi mắt chàng ngời sáng như kim cương. Mỗi khi chàng nâng cây sáo lên môi, chim chóc ngừng tiếng hót và con người lặng đi như bị mê hoặc. Sao mai và Họa mi yêu nhau và không thể sống thiếu nhau. ở đâu người ta nghe thấy tiếng sáo của Họa mi thì tức khắc ở đó cất lên tiếng hát êm ái của Sao mai.

Một mùa hè nọ, đại hạn giáng xuống vùng. Cây cối vàng võ, héo khô, ngoài đồng các mô đất rắn lại như đá; các giếng nước may lắm chỉ còn mươi giọt.

“Chúng ta sẽ làm gì đây?” Mọi người hỏi nhau. “Hạn hán kiểu này, chúng ta sẽ không tài nào sống sót.”

Lần đầu tiên, tiếng sáo lảnh lót ngưng bặt và giọng hát dịu êm của người con gái tắt lịm. Một ngày nọ, Sao mai và Họa mi cùng nhau lên núi lấy cỏ thuốc, như họ vẫn thường làm.

Dưới chân họ, những thửa ruộng cằn cỗi úa vàng, đất đai nứt nẻ khát cháy! Cảnh làng mạc tang thương khiến Sao mai và Họa mi se lòng.

- Sao mai yêu quý, chúng mình thử đào một cái giếng xem sao?

Sao mai gật đầu đồng ý và đôi trai gái bắt tay vào việc. Từng nhát, từng nhát cuốc bổ xuống đất rắn như đá cuội. Họ đào, đào mãi - và đã đào được một cái hố tròn khá lớn - bỗng nhiên, hấp! Từ dưới hố nhảy lên một con ếch vàng, cổ quấn ruy-băng xanh.

- Đây là vương quốc của ta, con ếch tuyên bố, không được đào ở đây! Nếu các người nghe lời ta, ta sẽ nói cho mà biết các người có thể tìm thấy nước ở đâu. Dưới chân núi Mây kia có một khối đá lớn, trong kẽ nứt của khối đá ấy có mọc một cây gai. Nếu các người có thể theo những nhánh rễ gai của cây ấy mà trèo lên đỉnh núi, các người sẽ thấy trên cao một cụ già bận đồ len có bộ râu dài trắng như cước và mái tóc dài bù xù. Cụ già đợi người đến giúp cụ bện mớ tóc dài thành hai bím. Khi nào các người xong việc, cụ già sẽ hỏi các người muốn được thưởng gì. Hãy nói rằng các người chỉ cần nước. Nếu ngay cả cụ ấy cũng không giúp gì được các người, ta không biết còn ai khác có thể! Con ếch vàng vừa nói xong mấy lời trên thì - hấp - nó biến mất dưới lòng hố, như thể đất đã nuốt chửng nó vậy.

Nhanh như gió, Sao mai và Họa mi chạy về phía núi Mây.

Đến chân núi, họ sững sờ tuyệt vọng. Núi cao sừng sững, uy nghi và câm lặng, không có đường lên. Trước mặt Sao mai và Họa mi là vách đá dựng đứng, trơn tuột, không có lấy một gờ nhỏ họa may đặt chân vừa. Họ chạy đến chân vách đá, tuyệt vọng tìm một lối leo lên. Chợt họ nhìn thấy một khối đá khổng lồ ngay trước mặt, trong các kẽ nứt của nó mọc ra một cây gai, cây bò lên rất cao, đến ngút tầm mắt, đến tận đỉnh Núi Mây.

- Chúng ta sẽ không bao giờ lên trên ấy được, Sao mai thở dài nhìn những nhánh rễ đầy gai nhọn như muôn vàn mũi kim.

- Đừng sợ! Ôm lấy anh. Anh sẽ trèo. Hãy ôm thật chặt!

Sao mai vòng tay ôm ngang lưng Họa mi. Chàng trai trèo dọc theo đám rễ tua tủa gai, hướng về phía đỉnh núi Mây. Gai nhọn cắm sâu vào hai bàn tay anh, nhưng Họa mi coi thường đau đớn thể xác. 

Trèo như thế không biết bao lâu, đến khi kiệt sức, Họa mi và người yêu cũng tới được đỉnh núi. Họ thấy một cụ già mái tóc bạc phơ vội vã bước lại gần. Bộ râu của cụ dài chấm hông, mớ tóc cụ rối tung rủ xuống tận chân, quét đất.

- Thật tốt là các cháu đã đến, cụ già hồ hởi. Ngày nào ta cũng chờ có ai đó đến giúp ta bện mớ tóc này.

- Chúng cháu rất sẵn lòng giúp ông, thưa ông, Họa mi đáp. Hai bạn trẻ bắt tay ngay vào việc. Tay họ tê cứng vì tết tóc quá lâu. Nhưng cuối cùng ông lão cũng có được hai bím tóc lấp lánh ánh bạc thay vì mớ tóc rối bù dài quét đất. 

Cụ già rất hài lòng, hỏi:

- Các cháu muốn ta thưởng gì? Ta sẽ thực hiện ước nguyện của các cháu, dù nó là gì đi nữa.

- Thưa ông, Họa mi đáp, chúng cháu chỉ khao khát một điều: ông cho chúng cháu nước! Đại hạn làm điêu đứng vùng quê của chúng cháu, lúa mì chết khô, cỏ úa vàng, con người thì chết khát.

- Được, các cháu có thể có nước, ông già trả lời. Ông sẽ giúp các cháu, nhưng ông không biết các cháu có đủ can đảm không.

- Hãy nói cho chúng cháu biết chúng cháu phải làm gì, chúng cháu không sợ gì cả, Họa mi và Sao mai cùng đồng thanh.

Cụ già lấy từ trong tai trái ra một viên ngọc đen lấp lánh, và giải thích:

- Cầm lấy viên ngọc này và quay về thung lũng. ở đó, đến nơi nào các cháu chọn, một trong hai cháu phải nuốt viên ngọc. Ngay khi nuốt viên ngọc, cháu đó sẽ biến thành một khối đá, nơi chân khối đá sẽ tuôn ra một nguồn nước không bao giờ cạn cứu đồng bào của các cháu. Bây giờ, vĩnh biệt các cháu, nếu ngày nào đó còn cần đến ta, các cháu chỉ cần đập nhẹ vào vách đá của núi Mây ba cái.

Sao mai và Họa mi nhìn nhau, rất buồn vì sắp phải xa nhau. Nhưng ý nghĩ về nỗi khổ của mọi người cho họ lòng can đảm. Lặng lẽ, cả hai chìa tay ra nhận viên ngọc đen, nhưng Họa mi nhanh tay hơn. Anh cầm lấy viên ngọc, giấu dưới áo.

- Bây giờ các cháu đi đi, cụ già nói, đoạn đưa cho mỗi người một bím tóc bạc, Sao mai và Họa mi nắm lấy mỗi người một đầu. Tức khắc, hai bím tóc rít lên trong không trung, nhằm thẳng hướng chân vách đá. Thế gian quay đảo quanh hai bạn trẻ, gió ù ù bên tai, nhưng chưa kịp sợ thì chân họ đã chạm nền đất cứng dưới chân Núi Mây. Chưa hết bàng hoàng thì hai bím tóc đã bay ngược trở lên và mất hút trong tầng cao.

Họa mi lấy viên ngọc đen từ trong áo ra. Nước mắt lưng tròng, họ nhìn nhau hồi lâu.

- Đưa cho em, Sao mai dịu dàng nói.

- Không, Họa mi đáp. Hai người giành nhau viên ngọc, nhưng Họa mi giữ được. Anh bỏ nhanh vào miệng, Sao mai bất lực nhìn người bạn thủy chung biến thành một khối đá câm lặng. Và rồi, kỳ diệu làm sao, từ chân khối đá tuôn ra một dòng nước trong mát.

- Họa mi, Họa mi, không có anh em sẽ ra sao? Sao mai than khóc, ghì chặt trong tay khối đá giá lạnh. Nước mắt của nàng chẳng ích gì, khối đá không thể trả lời. Nàng ngồi dưới chân khối đá, gục đầu trong vòng tay, chỉ nghĩ đến một điều duy nhất: Làm sao cũng biến mình thành một khối đá. Chợt một ý nghĩ thoáng qua. Nàng đứng bật dậy, chạy nhanh đến vách núi, đập nhẹ ba cái. Có tiếng động từ trên cao: Hai bím tóc bạc rơi xuống cạnh thiếu nữ. Nàng nắm lấy, trèo lên, trèo lên mãi cho đến khi tới đỉnh vách núi cao.

- Tại sao cháu trở lại, cháu gái của ta? Cụ già âu yếm hỏi.

- Thưa ông, Sao mai nói, ông hãy nhìn vùng đất chết khát khốn khổ kia, chỉ một nguồn nước thôi không đủ tưới mát cho nó. Cháu van ông, ông cho cháu một viên ngọc nữa, để cháu cũng hóa đá, dưới chân khối đá cũng phun ra một nguồn nước không bao giờ cạn.

Cụ già do dự một lát, rồi rưng rưng cảm động, cụ trả lời:

- Ta sẽ cho cháu viên ngọc này để cháu được toại nguyện, Sao mai ạ. Dứt lời cụ đưa tay lên tai phải và lấy ra một viên ngọc trắng lấp lánh đưa cho thiếu nữ.

Sao mai cảm ơn ông cụ, đoạn nắm lấy một bên bím tóc, nghe không trung rít lên quanh mình và, hầu như không biết bằng cách nào, lại trở về chân vách núi, ngay cạnh nơi sừng sững khối đá Họa mi đã hóa thân.

- Không bao giờ em rời xa anh nữa, chúng mình sẽ vĩnh viễn bên nhau, Sao mai xinh đẹp âu yếm thầm thì. Dứt lời nàng bỏ viên ngọc trắng vào miệng. Tức thì, nàng hóa đá. ở nơi trước đây chỉ có một khối đá, nay hóa hai kề cận bên nhau, tựa vào nhau, im lặng ngắm nhìn cảnh vật trải ra dưới chân. Bên dưới mỗi khối đá tuôn trào một nguồn nước mảnh mai, trong veo, tiếng hát ca của nguồn nước này tựa hồ tiếng hát của Sao mai xinh đẹp, tiếng reo vang của nguồn nước kia giống như tiếng sáo quyến rũ của Họa mi.

Và kìa! Bất kể nơi đâu hai dòng nước chảy qua, cỏ trở lại xanh tươi, cây lúa vươn mình sống dậy, toàn bộ đất đai hồi sinh.

- Nước! Nước! Mọi người reo lên vui sướng, ai nấy ùa ra khỏi nhà, lăn ra đất, náo nức uống những ngụm nước mát đầu tiên.

 “Nước này ở đâu ra nhỉ?” Người ta hỏi nhau.

-  Không ai có cảm giác, một người chợt lên tiếng, trong thứ nước này có vang lên tiếng sáo của Họa mi và giọng hát của Sao mai sao?

Mọi người lắng tai nghe, và quả nhiên, trong tiếng sáo ngân nga có chen lẫn âm vang của giọng hát quen thuộc.

- Họ đâu rồi nhỉ, Họa mi và Sao mai ấy? Một người khác thắc mắc. Dân chúng lo ngại. Chuyện gì đã xảy đến với họ? Cả vùng đổ đi tìm hai kẻ mất tích. Họ theo hai dòng nước nhỏ, ngược lên hai khối đá giống hai hình người, trước đây không hề có. Tất cả sững sờ kinh ngạc. Từ một trong hai khối đá cặp mắt long lanh của Họa mi nhìn họ và từ khối đá kia nụ cười không bao giờ tắt của Sao mai xinh đẹp. Dân chúng đau lòng trước cảnh hai bạn tình hóa đá. Từ ngày đó không ai còn được gặp thiếu nữ xinh đẹp và chàng trai khôi ngô tuấn tú, chỉ có hai nguồn nước tuôn trào dưới chân hai khối đá gợi lại kỷ niệm về họ. Hai nguồn nước không bao giờ cạn, như tiếng sáo của Họa mi và giọng hát dịu êm của Sao mai không bao giờ rời bỏ vùng đất thân yêu.

10. Hai vị thần - Anh nghèo và anh giàu

Hai vị thần

Chót vót cao trên núi, nơi tiếng người không vọng lên được, xưa kia có một ngôi đền nhỏ làm bằng những xà gỗ gần mục ruỗng, nơi trú ngụ của vị Thần Núi hùng mạnh. Đó là một vị thần kiêu căng. Ông ta vênh váo xiết bao trước “đồng sự” dưới chân núi, Thần Hộ Thành! Thần Núi thích chơi trội, thậm chí làm mất lòng vị thần này. Một hôm, vào ngày hội của ông ta, dân chúng quanh vùng mang đồ cúng lễ đến dâng, đủ thứ của ngon vật lạ. Thần Núi quyết định mời “ông bạn” đến xem tất cả những của nả ông ta nhận được. “Cho lão thấy dân chúng tôn vinh ta như thế nào, ta muốn lão tái mặt vì ghen tức!”

Vị thần kia đến nơi, từ xa đã ngửi thấy mùi thơm của đủ loại kẹo bánh và khói hương. Ông ta vào trong đền và thấy đối thủ đắm mình giữa các đồ mĩ vị, ra vẻ chán ngán. Thần Hộ Thành không thể chúc tụng nổi vì nước dãi ứa đầy miệng.

- Tôi chẳng hiểu đám dân này ra sao cả, Thần Núi nói, làm ra vẻ không nghe thấy tiếng óc ách trong bụng ông khách mời. Bất thình lình họ kéo đến tất tần tật, rồi họ cầu khấn, tấu lạy thần chỗ này, tấu lạy thần chỗ kia, thần nhân đức, xin cứu giúp con, giải thoát cho con khỏi mọi phiền muộn, xin cho mùa màng của con bội thu, xin ếm con bò cái của lão láng giềng - lần nào cũng là những chuyện như thế. Tất  nhiên là vì thế họ mang đến cung tiến cho tôi rất nhiều thứ, nhưng xin nói thật, Thần Núi tiếp tục bằng giọng chán ngán, tôi chán ứ các thứ bánh trái tẩm mật ấy rồi, tôi mệt vì khói hương rồi, chúng bắt đầu làm cho tim tôi giở chứng. Đến đây Thần Núi vờ ho.

Vừa dứt lời thì trước cửa đền, nơi Thần Núi đang đứng tiếp chuyện Thần Hộ Thành, vang lên tiếng vó ngựa. Trước cánh cửa mở toang, quả nhiên một con ngựa dừng lại. Cưỡi ngựa là một chú thiếu niên nhà quê, ăn mặc tuềnh toàng. Chú cứ ngồi nguyên trên yên, vươn cổ dòm vào trong đền.

- Sao thế nhỉ, người ta không xuống ngựa rạp mình cung kính trước Thần Núi ư, như người phàm trần phải thế? Thần Hộ Thành hỏi xỏ, kích động mạnh lòng tự ái của ông bạn kiêu căng. Nếu là bác, tôi sẽ dạy cho tên báng bổ kia một bài học về sự tôn kính!

Thần Núi bị bẽ mặt, và để gây ấn tượng trước địch thủ thành phố, ông ta lẩm nhẩm một câu thần chú. Tức thì trời phủ đầy mây đen, muôn vàn tia chớp xé toạc màn đêm tăm tối, sấm gầm vang khiến núi cũng phải rùng mình.

“Thời thiết quái quỷ gì thế này!” Chú thiếu niên kêu lên, nhảy xuống ngựa, dắt con vật vào trong đền trú mưa. Nhưng buộc ngựa vào đâu? Chú nhìn quanh quất, dừng mắt trên pho tượng Thần Núi bằng đất sét.

“Kia chính là cái ta cần”, chú thiếu niên nghĩ bụng, rồi quàng dây cương quanh cổ tượng.

“Táo gan chưa!” Thần Núi giận giữ kêu lên. “Đợi đấy, ta dạy cho ngươi biết thế nào là lễ độ!” Ông ta lập tức đọc một câu thần chú khác. Vạn vật chìm trong bóng tối sâu thăm thẳm, đến nỗi cách một bước cũng không trông thấy gì, gió gào rú, trời mưa như trút nước, mặt đất rung lên dưới chân, như thể đến giờ tận thế. Bất thình lình một tiếng sấm ghê gớm làm cho con ngựa thất kinh phát khùng, nó lồng lên, lật nhào pho tượng Thần Núi. Rơi xuống đất, pho tượng vỡ tan thành nghìn mảnh.

“Ôi trời! Thật tai vạ!” Thần Hộ Thành la toáng khi thấy ông bạn địch thủ kiêu căng của mình hết đời như thế nào. “Miễn sao không tai vạ gì đến mình!” Và ông ta vắt giò lên cổ tránh thật xa cái nơi hắc ám ấy.

Anh nghèo và anh giàu

Ngày xửa ngày xưa có hai anh hàng xóm, một anh nghèo và một anh giàu. Anh giàu rất sùng đạo. Chẳng thế mà có lần anh ta bỏ ra ba ngày liền chúi mũi vào một quyển sách lễ, đọc tất cả những quy tắc lễ nghi, không bỏ sót một lời cầu khấn nào. Tự nhủ phải giải khuây chút đỉnh, anh ta sai chuẩn bị một bữa tiệc lớn, mời mọi người quanh vùng đến dự. “Nhưng tên hàng xóm cùng đinh ta sẽ không mời, loại người như thế không có chỗ giữa những người đàng hoàng.”

Tối đến, anh ta sai đốt một đống lửa thật lớn để quay thịt, vần ra những thùng rượu vang, khách mời tha hồ ăn uống thỏa thích, vui chơi thả cửa.

Đang tiệc, chị vợ anh giàu dắt một con bê con mới sinh trong ngày đến gần đống lửa để sưởi ấm, con bê con nhớ mẹ kêu “be, be” ầm ĩ. Anh hàng xóm nghèo nghe tiếng kêu, tưởng đâu người láng giềng giàu có mời mình, anh liền chạy sang, tự thu xếp cho bản thân một chỗ gần đống lửa. Anh giàu đang bận săn sóc khách khứa, đáp lễ mỗi người một vài câu xã giao lấy lòng, bất thần thấy anh nghèo thì cau mày:

- Anh làm gì ở đây? Một kẻ thô lỗ như anh không có việc gì làm trong một buổi tiệc như thế này!

- Hình như lúc nãy ông đã gọi tôi! Anh nghèo mỉm cười.

- Anh có họa điên mới tưởng như thế! Anh giàu cáu tiết. Ra khỏi đây, không được đến làm phiền khách mời của ta!

Anh nghèo về nhà phàn nàn với vợ:

- Cuộc đời những người nghèo chúng ta phải đâu là lố bịch! Giá mà mình thấy vẻ mặt của ông ấy lúc nhìn thấy tôi! Cứ như chúng ta không thể vậy, chúng ta cũng có thể chứ, chúng ta cứ vui chơi tiệc tùng xem sao!

- Mình đừng băn khoăn, chị vợ đáp. Chúng ta cũng có thể chứ sao, chúng ta sẽ tự tổ chức một bữa tiệc nhỏ.

Tức thì hai vợ chồng lấy ra một thùng nhỏ rượu vang, giết con lợn gày, và cùng các con lên núi. Trên một sườn núi rộng, họ dựng một túp lều cũ nát vá víu chằng chịt, đốt một đống lửa lớn. Khi ngọn lửa bốc cao lên trời, anh nghèo lẩm nhẩm cầu khấn:

- Hãy nhìn xem, ôi Thượng đế, chẳng lẽ Người không thấy bất công trên trái đất ư? Người không thấy người giàu có trái tim bằng đá, và những kẻ nghèo chúng con cực khổ quá ư? Ôi, đức Phật trên núi cao! Ôi, thượng đẳng thần linh, làm sao Người có thể dửng dưng trông thấy cảnh đau lòng này? Phải chăng con không lam lũ sớm chiều trên đồng ruộng? Phải chăng con không dâng lên Người đủ đồ lễ? Công bằng liệu có hay không? Nhưng con đã nói rồi, nếu Người chẳng làm gì cho con cả, con sẽ không dâng lên Người bất cứ lễ vật nào nữa!

Dứt lời, anh cùng vợ con ăn con lợn quay gày còm. Họ ăn thỏa thích và nhận chìm nỗi đắng cay của mình trong những ngụm rượu lớn. Rồi họ nắm tay nhau nhảy vòng tròn quanh đống lửa đến khuya. Nửa đêm, chị vợ chui vào túp lều cũ nát ngủ cùng các con. Anh nghèo ngồi lại bên đống lửa đang lụi dần. Những ý nghĩ buồn bã trở về với anh.

“Thế là hết sạch”, anh tự nhủ. “Hôm nay, chúng ta có được một lúc vui, nhưng hết cả rồi. Mai lấy gì mà bỏ vào miệng!”

Anh nằm dài trên mặt đất, đăm đắm nhìn bầu trời đầy sao. Không thể tìm được giấc ngủ, anh trở mình hết bên này lại bên kia mà vẫn không sao chợp mắt được. Sau một hồi lâu mệt mỏi vì mở trong mắt, anh ngồi dậy, lấy chiếc khăn trắng thường dùng để cầu nguyện - chiếc “Khata”, một ngọn đèn và mấy nén nhang, rồi rảo bước về phía ngôi chùa gần nhất.

Anh vào chùa, cúi lạy thật thấp trước tượng Phật, vắt chiếc khăn trắng lên tay tượng, thắp đèn, đốt hương và rì rầm khấn những lời sau:

- Lạy trời, lạy Phật, xin hãy công bằng một chút. Người muốn dân nghèo chúng con phải làm gì, chúng con đói chẳng có gì ăn, trong lúc phải làm việc quần quật? Vừa cầu khấn, anh vừa nhìn chăm chú nét mặt không chút biểu cảm của tượng Phật, dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn. Trong đầu anh trăn trở bao ý nghĩ tối tăm về những ngày đói khát sắp tới. Cuối cùng, do cả ngày mệt nhọc, anh ngồi xổm xuống đất trước đức Phật và, chẳng hiểu sao, anh ngủ thiếp đi.

Khi anh tỉnh dậy thì ngọn đèn đã tắt từ lâu, một tia sáng yếu ớt rọi qua gian chùa tối tăm. Anh nghèo giụi mắt. ánh sáng phát ra từ đế tượng Phật. Tò mò, anh đứng lên đến gần pho tượng. Anh nhận thấy có một lỗ hở ở chân đế. Cúi xuống nhìn vào bên trong anh vô cùng kinh ngạc, lỗ hở ấy mở ra một cái hang rộng! Giữa hang, một đống lửa to cháy rực, cạnh đống lửa có hai người lùn dị dạng ngồi chồm chỗm - một nam, một nữ - mỗi người cầm một khúc xương to bám đầy thịt. Anh nghèo rùng mình, cơn rùng mình chạy suốt dọc xương sống. Cảnh tượng hai người lùn nhồm nhoàm gặm xương giáng cho anh một cú bất ngờ thích đáng, đến độ anh lùi lại một bước, làm miếng ván sàn kêu đánh rắc.

- Mụ này, hình như có người, gã lùn càu nhàu.

- Ông nói gì vậy? Cứ giữ khúc xương của ông ấy, là lũ chuột chạy trong chùa đấy.

Lát sau mụ đàn bà đứng dậy, nhấc từ trên tường xuống một chiếc đũa vàng, vươn người chạm đến vòm hang, ở đấy có treo ba túi da. Mụ lấy đầu đũa gõ vào chiếc túi thứ nhất và nói:

- Chảy ra, dầu, chảy ra! Mụ vừa dứt lời thì một thứ dầu thượng hạng, thơm phức từ trong túi chảy ra.

Mụ lại dùng chiếc đũa gõ vào chiếc túi thứ hai:

- Bày ra, Tsam-pa(*), bày ra! Mụ vừa dứt lời thì món Tsam-pa ngon lành, vàng óng bày ra ê hề.

Rồi mụ chạm đũa vào chiếc túi thứ ba, nói:

- Nhảy ra, đùi lợn, nhảy ra! Lập tức những khúc đùi lợn quay vàng rộm, chín tới nhảy ra khỏi túi da.

Hai người lùn đánh chén ngon lành, họ nhai tóp tép, thở phì phò, lèn đầy bụng tưởng lòi mắt khỏi tròng và, để kết thúc bữa ăn, họ dùi thủng thùng rượu vang, uống mãi không thôi.

“Bấy nhiêu thức ăn ngon, chỉ để cho hai con người nhỏ thó!” Anh nghèo thở dài, tủi phận mình: “Trong khi những kẻ bất hạnh chúng ta, thường phải bụng rỗng đi ngủ! Quả là quá bất công!”

Anh lách qua khe vào hang, nhón chân đến gần tường cuỗm gọn chiếc đũa vàng. Rồi anh lấy luôn ba chiếc túi da treo trên vòm hang, nhẹ nhàng như bỡn, không một tiếng động, anh trở ra chùa theo lối đã vào. Vừa qua được ngưỡng cửa, anh vắt giò lên cổ chạy.

Về đến lều, anh thấy vợ con còn đang ngủ say. “Dậy, dậy mau! Tôi mang về cả kho báu đây này!” Anh nghèo kể lại chuyện. Chị vợ nhìn anh bán tín bán nghi, nghĩ rằng chồng mình đã mất trí. Chỉ đến khi nhờ chiếc đũa vàng, anh chồng làm tuôn ra từ ba túi da đủ các món ăn ngon, chị mới tin.

Vui làm sao! Thế là hết mọi lo phiền! Vì tốt bụng và hào phóng, anh nghèo mở ngay một bữa tiệc lớn mời tất cả những người nghèo trong vòng nhiều dặm quanh đấy đến dự. Tin này đến tai anh láng giềng giàu có.

“Xì!” Anh ta chun mũi, “ta muốn tận mắt thấy bữa tiệc của gã. Chắc gã thết khách mời bằng gạo hẩm.” Quá tò mò, nên dù không được mời anh ta vẫn len vào giữa đám thực khách. Anh ta không tin nổi mắt mình. Khắp nơi là những thùng rượu vang hảo hạng, trên các que xiên là món đùi lợn quay tuyệt ngon, không khí ngào ngạt mùi thơm kích thích.

“Tên cùng đinh kiếm đâu ra các thứ này? Chắc chỉ ăn trộm đâu đây thôi.” Anh ta xồng xộc đi tìm anh nghèo, không úp mở hỏi xem anh kiếm đâu ra nhiều cao lương mĩ vị đến thế. Cũng dễ hiểu khi thoạt đầu anh nghèo không muốn nói ra điều bí mật của mình, anh lưỡng lự, trả lời quanh co, nhưng vì anh giàu cứ hỏi mãi, rốt cuộc anh kể ra bằng hết.

“Nếu tên cùng đinh này chỉ mất một nén nhang còm đã được bao nhiêu là thứ”, anh giàu nghĩ, “vậy thì với một món lễ vật giá trị, Phật sẽ cho ta thứ gì nhỉ?” Tức thì, anh ta không thiết ăn uống gì nữa, chạy nhanh về nhà mình ở kế bên, sai chị vợ:

- Bảo giết ngay con lợn béo nhất, chúng ta sẽ đem lễ Phật.

Thế là anh giàu dẫn vợ con lên núi, mang theo một chiếc lều thật đẹp. Đến sườn núi, họ dựng lều, đốt một đống lửa lớn để quay những miếng thịt béo ngậy. Họ uống rượu và nhảy múa. Nửa đêm, chị vợ cùng các con về lều ngủ, anh giàu còn lại một mình.

Anh ta soạn một cây đèn đã đổ đầy dầu tinh khiết màu hồng, một túi rượu vang hảo hạng, một miếng thịt quay to tướng - miếng béo nhất, khăn lễ khata trắng, một nắm hương, và rảo bước về phía ngôi chùa.

Đến nơi, anh ta cúi lạy trước tượng Phật, thắp đèn, đốt nhang, vắt chiếc khata trắng trên cánh tay vươn ra của tượng Phật, túi rượu vang và miếng thịt quay đặt dưới đất. Rồi anh ta lầm rầm cầu khấn:

- Tấu lạy đức Phật tối linh thiêng, Người biết rằng con luôn luôn nghĩ đến Người, rằng con đã bớt phần ngon nhất, cũng là phần Người thích nhất, làm lễ vật dâng cúng Người. Con muốn biết Người có công bằng hay không. Chắc người còn nhớ tên cùng đinh đến đây mới rồi. Người đã cho gã bao nhiêu là thứ chỉ vì một nén nhang còm.

Anh ta cầu khấn mãi, và rồi, vì buồn ngủ, anh ta ngồi xệp xuống đất, chẳng bao lâu thì thiếp đi.

Khi anh ta tỉnh dậy đèn đã tắt. Ngôi chùa tối đen chỉ còn sót lại tia sáng hắt ra từ chân đế tượng Phật. Anh giàu đến gần khe hở, ghé mắt nhìn vào bên trong. Tim anh ta nhảy dựng lên vì vui mừng. Bên đống lửa ở chính giữa hang anh ta trông thấy hai người lùn - một nam, một nữ - đang chén những miếng thịt ngon lành.

- Mụ có nghe thấy không? Có người! Gã lùn la lên giận dữ.

- Lúc nào ông cũng có chuyện gì đó để mà nói đi nói lại: Nếu có ai đó, có khi chỉ là một con chuột! Mụ vợ không nghĩ ngợi gì trả lời luôn, và tiếp tục đánh chén.

- Một con chuột xinh đẹp chứ gì, gã lùn càng lúc càng điên tiết. Lần trước, con chuột của mụ chả nẫng mất của chúng ta báu vật vô giá đó thôi. Mà ta cảnh cáo mụ: đêm nay mụ không được uống rượu, phải canh gác cho cẩn thận! Nói xong, gã lùn kéo thùng rượu vang lại gần, nâng lên tu ừng ực. Chỉ lát sau, đầu gã gục xuống ngực, và gã rơi vào giấc ngủ mê man.

- Miễn là còn rượu, mụ vợ càu nhàu. Mụ nâng thùng lên dốc rượu vào miệng, uống ừng ực cho đến cạn sạch. Rồi mụ lăn ra đất, ngủ say sưa.

Anh giàu chỉ rình có lúc này. Anh ta lách qua khe hở, nhẹ nhàng đến gần gỡ chiếc đũa vàng ra khỏi tường, không quên ba túi da treo trên vòm hang.

“Ta phải lấy món gì đó hơn gã nhà nghèo mới được”, anh ta tự nhủ và nhìn quanh xem còn gì có thể lấy đi. Chợt anh ta chú ý đến cái gì đó lấp lánh trong góc hang. Anh ta lao tới, quên mất gã lùn đang nằm dài dưới đất. Anh ta vấp phải chân gã và - khủng khiếp chưa! - gã lùn cựa mình tỉnh giấc, đôi mắt xanh nhìn anh giàu giễu cợt.

- Thế là ta tóm được mi rồi, quân ăn trộm kho tàng! Gã lùn nắm lấy anh giàu trong bàn tay sắt.

Sự việc diễn ra chẳng lâu la gì và trong hang bên cạnh ngọn lửa cháy rừng rực, hai người lùn - một nam, một nữ - lại ngồi gặm xương.

- Món quay này ngon tuyệt! Gã lùn thừa nhận.

- Hiếm khi tôi được ăn cái gì ngon hơn, mụ vợ phụ họa.

Tại nhà anh giàu, người ta nhọc công đi tìm người chủ gia đình.

Anh ta đi đâu? Không ai có thể biết được.

11. Hai con ma chơi

Trong một vùng đất u ám không mến khách, nơi ngay cây táo dại cũng không nở hoa bao giờ mà chỉ có toàn những loài cỏ độc. Tại một mảnh đất sình lầy, có một người đàn ông góa vợ.

 Ông ta chẳng bận tâm đến bản thân, không bao giờ cạo râu, luôn miệng càu nhàu với khắp thiên hạ. Tuy vậy, ông ta có một cô con gái vô cùng xinh đẹp, rất mực dịu hiền, khuôn mặt luôn ngời sáng. Đó là một thiếu nữ lặng lẽ. Vì  không được hưởng tình mẫu tử, lại lớn lên bên cạnh một người cha ngạo mạn và đáng sợ, nên cô rất nhút nhát. Cô luôn buồn bã và sầu muộn trên mảnh đất bạc bẽo ấy.

Một hôm trên đường gánh nước từ giếng về, cô gặp một chàng trai có khuôn mặt cao quý khiến cô không rời mắt nổi.

Chàng trai nhìn cô với vẻ ngưỡng mộ, như bị hớp hồn. Hai bạn trẻ cùng thấy má mình ửng đỏ. Họ nhìn nhau như thế rất lâu không ai nói một lời, bẽn lẽn, hoảng sợ cảm thấy có điều gì vừa thoáng qua trong tim.

Từ đó, ngày nào chàng trai trẻ cũng đứng đợi trên con đường ra giếng. Mỗi ngày hai người trẻ tuổi đều gặp nhau và nhìn nhau thật lâu trong im lặng. Hễ cô gái cười bẽn lẽn với chàng trai, chàng lại nhìn cô âu yếm. Cứ thế, ngày này qua ngày khác, họ càng thêm phải lòng nhau. Rốt cục họ cảm thấy không thể sống thiếu nhau. Một hôm, chàng trai trẻ đánh bạo nắm khẽ bàn tay người yêu, dẫn đến trước người cha nóng tính của cô xin ông ta ưng thuận cho họ làm đám cưới. Đáp lại, người cha trút cơn thịnh nộ dữ dằn lên đầu cô con gái bất hạnh, lấy gậy dọa chàng trai, bảo ông ta sẽ giết chàng nếu chàng còn dám lảng vảng trong vùng.

Sau chuyện ấy, ông ta nhốt con gái trong buồng. Không một chút thương xót, ông canh giữ con gái ngay cả khi cô gái vì khóc lóc quá nhiều sinh ra ốm nặng.

Cho đến một tối, người cha quên khóa cửa buồng trước khi đi ngủ. Gần nửa đêm, thiếu nữ rón rén trốn ra chạy vội về phía giếng, bước chân cô thoăn thoắt không tiếng động. 

Cô trông thấy hình bóng của người yêu trên con đường quen. Cũng xanh xao như cô, anh ôm cô trong vòng tay và ghì chặt cô vào ngực. Cả hai đều đau buồn tuyệt vọng. Họ biết không thể sống thiếu nhau, thế nhưng điều đó lại là không thể, vì thế họ quyết chết cùng nhau. Họ hái cỏ độc và nuốt lấy chất chết người.

Sáng hôm sau, tỉnh dậy, người cha không thấy con gái trong buồng. Ông ta hấp tấp chạy ra ngoài. Và kìa, bên giếng, đôi tình nhân âu yếm ôm nhau nằm bất động.

Hoảng sợ, người cha đưa mắt nhìn quanh tìm chỗ giấu hai cái xác. Cuối cùng, ông ta ném họ xuống đáy đầm lầy.

Hai cái xác vừa chìm xuống lớp bùn của đầm lầy thì ngay chỗ ấy mọc lên hai cây táo. Thân chúng quấn vào nhau khăng khít đến nỗi tưởng như là một và trên cao các cành nhánh đan xen nhau thành một tán duy nhất.

Trông thấy cây táo kép ấy trổ hoa, người cha kinh sợ chạy thẳng một mạch về nhà lấy rìu. Ông ta quay lại đốn hạ hai thân cây, chặt cành, băm tất cả thành những mẩu vụn, đem đốt ở bờ đầm.

Đêm đến, khi lửa tàn, người ta thấy bốc lên hai ngọn lửa nhỏ, không bao giờ tắt. Đến tận ngày nay, nếu ban đêm đi qua vùng đầm lầy này, người ta vẫn thấy hai ngọn lửa nhỏ lướt trên mặt nước đầm tù hãm. Chúng lang thang, như thể mãi đi tìm điều gì không bao giờ thấy được.

12. Cô xà cừ

Xưa kia trong một gia đình nọ có ba người con gái, ba cô thiếu nữ tên gọi: Cô Kim, cô Ngân và cô Xà cừ. Cả ba cô đều tuyệt đẹp. Quanh vùng không có chàng trai nào là không muốn lấy được một trong ba cô làm vợ.

Cô Kim và cô Ngân luôn mơ đến những vị hôn thê giàu có, dòng dõi cao sang, trong khi cô Xà cừ chỉ mong người chồng tương lai có tấm lòng thực thà, lương thiện.

Một sáng đẹp trời, cô Kim xách chiếc xô nhỏ bằng vàng đi lấy nước. Cô mở cửa và lùi lại vì kinh sợ. Trên ngưỡng cửa nằm dài một kẻ ăn mày bọc trong mớ quần áo rách rưới, không tài nào nhìn rõ mặt.

- Ngươi làm gì ở đây, đồ ngoại đạo? Cô Kim la lên. Xéo ngay khỏi đường đi của ta!

- Giúp lão với, cô ơi, kẻ ăn mày trả lời, giọng mũi lè nhè, xương cốt lão già nua thế này, lão đứng lên khó lắm.

- Ngươi hãy tự giúp mình đi, ai khiến ngươi nằm đây! Cô gái vênh mặt đáp, mũi hếch lên trời. Cha ta cần nước pha rượu, mẹ ta cần nước pha trà, còn ta, ta muốn gội đầu. Hoặc ta bước qua ngươi, hoặc ta xéo lên ngươi, chứ ta không thèm giúp ngươi đâu. Xưa nay ta vẫn muốn gì làm nấy!

Cô làm như đã nói. Khi bước qua kẻ ăn mày cô giẫm phải tay ông ta. Kẻ ăn mày ngẩng đầu nhìn cô nghiêm khắc. Khi cô Kim quay về nhà thì kẻ ăn mày đã biến mất.

Sáng hôm sau, cô Ngân ra khỏi nhà, tay xách một chiếc xô nhỏ bằng bạc đi lấy nước. Trên ngưỡng cửa lại vẫn kẻ ăn mày hôm trước nằm co ro. Cô gái lùi lại.

- Ngươi làm gì trên ngưỡng cửa nhà ta vậy, trong mớ giẻ rách kinh tởm thế kia? Xê ra!

- Cô gái xinh đẹp ơi, không dễ vậy đâu, kẻ ăn mày trả lời, vẻ áy náy. Toàn thân lão đau nhức. ái chà, cô làm ơn làm phúc giúp lão đứng dậy với!

- Ngươi có điên không? Cô rút lui vẻ ghê tởm. Đưa tay cho ngươi, ta nghe nhầm chăng! Cút khỏi đây, nếu không ta bước lên người bây giờ. Nói là làm cô bước qua kẻ ăn mày, chiếc xô bạc va phải đầu ông ta. Cặp mắt nảy lửa của ông nhìn cô gái chằm chằm, rồi kẻ ăn mày biến mất.

Sáng ngày thứ ba, đến lượt cô Xà cừ đi xách nước. Cô xách một chiếc xô nhỏ bằng xà cừ, lấp lánh đủ sắc cầu vồng dưới ánh mặt trời.

- Xin vui lòng nhường cho cháu một lối nhỏ để đi qua, cô rụt rè đề nghị.

- Rất sẵn lòng, nhưng không dễ dàng đâu. Xương cốt lão đau nhức. Lão không thể tự mình đứng dậy.

- Nào, cháu sẽ giúp ông, cô Xà cừ nhã nhặn đáp. Cô đưa tay cho kẻ ăn mày, nhưng khó mà nâng được một người nặng đến thế! Suýt nữa cô ngã! Cô tự nhủ không để cho con người khốn khổ đó biết đối với cô, ông ta nặng như thế nào để ông khỏi phật lòng. Cô mỉm cười, nói:

- Ông lão ơi, ông đã nằm trên đá lạnh lâu quá đấy, ông bị cóng rồi, nhưng ông sẽ thấy dễ chịu ngay thôi.

- Chỉ mới nghe cô nói, lão đã ít nhiều tin cô, kẻ ăn mày nhún vai trả lời. Vì lòng tốt của cô, lão chúc cô gặp được vị hôn phu giàu có nhất vùng.

- Giàu hay không giàu điều đó không quan trọng, cô Xà cừ vừa cười vừa nói, điều quan trọng là người ấy có trái tim nhân hậu cơ ạ!

- Người như thế có đấy, kẻ ăn mày ấp úng, tập tễnh theo cô đến nơi lấy nước. cô Xà cừ múc nước vào xô, khi xô đã đầy, cô toan nâng lên vai.

- Đợi đấy, lão sẽ giúp cô, kẻ ăn mày lật đật chạy lại và ùm, oẳng! ông làm nghiêng xô, nước đổ lênh láng ra đất.

- Ông đừng phiền lòng, cô gái cười xòa, chính cháu đã nhiều lần đánh đổ nước! Cô lại lấy nước đầy xô, và kẻ ăn mày giúp cô nâng cái xô lên.

- Nhờ ông nâng cao hơn chút nữa, nếu không thì nặng quá!

- Sẵn lòng, kẻ ăn mày nâng lên nhưng cao quá cô gái không thể đỡ lấy đặt lên vai.

- Xin ông đừng giận, nhưng thế này thì xô nước cao quá, cháu không với tới được.

- Không sao cả, lão lại thử lần nữa, kẻ ăn mày nghiêng mạnh xô đến nỗi nước đổ ra ướt sũng lưng cô gái. Lão vụng về quá, ông lão ngao ngán nói.

- ồ không, ông không hề vụng về. Ai cũng có lúc lỡ tay làm hỏng việc gì đó, cô gái động viên ông lão. Kẻ ăn mày nhìn cô, nghĩ ngợi. Ông nhấc chiếc xô lên một lần nữa và choang! Chiếc xô tuột khỏi tay ông vỡ tan tành. Lần này, cô gái không thể kiềm chế hơn được nữa, cô oà khóc. Kẻ ăn mày vẫn nhìn cô hết sức chăm chú.

- Không phải là lỗi của ông đâu, ông lão, cô gái vừa nói vừa khóc nức nở, ông chỉ muốn giúp cháu thôi, nhưng bây giờ về nhà, cả nhà sẽ nổi giận. Một cái xô bằng xà cừ như thế này biết tìm đâu ra!

Trong mớ quần áo rách nát, đôi mắt buồn ánh lên vẻ yêu thương.

- Có khi lão sẽ sửa được xô cho cô, kẻ ăn mày dịu giọng. Ông nhanh chóng chắp nối những mảnh xà cừ, đặt chúng vào vị trí cũ và trong nháy mắt chiếc xô đã ở trước mặt cô gái, đầy nước trong. Kẻ ăn mày cũng đột nhiên thay hình đổi dạng. Ông đứng thẳng dậy dẻo dai, dễ dàng nâng cái xô đặt lên vai cô gái. Ông nói giọng kiên quyết và êm ái khiến cô run rẩy:

- Cô có thể làm giúp ta một việc không?

- Tất cả những gì cháu có thể, cô Xà cừ trả lời với tất cả nhiệt thành. Cháu không biết sẽ phải làm thế nào nếu không nhờ có ông giúp đỡ. Mẹ cháu sẽ không thôi mắng nhiếc cháu vì cái xô bị vỡ.

- Nhờ cô hỏi gia đình xem ta có thể nghỉ qua đêm trong bếp không.

- Việc này, cháu không biết liệu mẹ cháu có cho phép không. Bà không chịu được những người hành khất, cô gái buồn rầu thú thật. Nhưng cháu sẽ nói khó với bà.

- Để trả công, cháu có thể để lại cho bà thứ bà tìm thấy trong đáy xô, kẻ ăn mày vừa cười vừa nói với người con gái đang hết sức kinh ngạc. Có cái gì ở dưới đáy xô? Người này không phải là một kẻ ăn mày bình thường. Cái xô xà cừ tưởng chừng không thể vá lại được nhưng chỉ trong chớp mắt đã lành lặn như mới. Biết đâu chẳng là một phúc thần?

Cô gái đem xô nước về nhà. Cô hỏi bà mẹ xem bà có thể cho phép một ông lão ăn mày qua đêm trong bếp không.

- Không phải lão già ghê tởm đã nằm ba đêm liền ở ngưỡng cửa nhà ta đấy chứ? Bà mẹ hỏi, đã bắt đầu nổi cáu. Cô gái cúi đầu, xách xô nước đổ vào một bồn lớn bằng đồng. Có cái gì kêu lanh canh dưới đáy bồn nước, lấp lánh như vàng. Hai mẹ con nhìn nhau im lặng. Bà mẹ vọc tay xuống nước, lấy ra một chiếc nhẫn vàng nặng trĩu. cô Xà cừ nhớ lại lời ông lão hành khất.

- Cái đó kẻ ăn mày biếu mẹ, đền ơn đêm tá túc trong bếp, cô vội nói.

- Một kẻ ăn mày cho vàng! Bà mẹ sửng sốt. Vậy thì đêm nay cho lão ngủ trong bếp!

Chập tối, như lệ thường, cả nhà quây quần bên nhau. Ông bố uống trà, bà mẹ cuộn len, ba cô gái nói chuyện các chàng cầu hôn.

Cô Kim tuyên bố:

- ít nhất phải là một hoàng tử ấn Độ, không thế thì chị sẽ không lấy làm chồng.

Cô Ngân đánh giá:

- Không nhất thiết phải là ấn Độ, hoàng tử với em là được rồi. Còn em, em muốn lấy ai? Cô hỏi em gái thứ ba. cô Xà cừ đang ngồi im lặng.

Vừa lúc đó, cửa mở, kẻ ăn mày bước vào, ông lão chen ngang:

- Lão biết một vị hôn phu cho cô Xà cừ. Chính hoàng tử Mipam sẽ rất sung sướng được lấy một cô gái đẹp người, đẹp nết như cô ấy.

- Hoàng tử Mipam là ai? Hai cô chị hỏi. Chàng ta có hùng mạnh, có giàu có bằng một hoàng tử ấn Độ không?

- Có thể còn giàu có hơn, hùng mạnh hơn, kẻ ăn mày vẻ bí hiểm nhìn cô Xà cừ bằng cặp mắt sâu, đoạn nói riêng với cô:

- Mipam sẽ rất sung sướng được kết hôn với cô và cô sẽ hạnh phúc hơn bất cứ ai. Hãy tin lão, cô Xà cừ. Khi lão đi khỏi đây, hãy theo dấu gậy của lão, lão sẽ dẫn cô đến với chàng. Cô có muốn lấy chàng không?

Cô gái nhớ lại chuyện cái xô xà cừ được sửa lại một cách kỳ diệu, cô gật đầu đồng ý. Kẻ ăn mày quay người, bước ra khỏi cửa. cô Xà cừ vội vã đi theo.

- Con chạy đi đâu? Con có điên không? Bà mẹ kêu lên. Một kẻ ăn mày chỉ có thể tìm cho con một kẻ ăn mày khác làm chồng.

Nhưng cô Xà cừ đã đến ngưỡng cửa nhà mình. Kẻ ăn mày biến mất. Trong ánh trăng chỉ còn một dãy lỗ đen trên mặt đất, mất hút phía đằng xa. Cô chạy theo dấu lỗ ấy.

- Vậy thì, mày cứ đi theo ý mày! Bà mẹ cáu tiết la với theo. Nhưng đã thế đừng bao giờ vác mặt về nhà nữa!

Cô Xà cừ đi suốt đêm theo dấu gậy của kẻ ăn mày. Cuối cùng mặt trăng nhạt dần phía chân trời, và những tia nắng hồng của rạng đông xuất hiện. Cô gái thấy mình đến một đồng cỏ rộng. Một bác chăn cừu đang chăn đàn cừu dễ đến ngàn con.

- Bác có thấy một ông lão ăn mày đi ngang qua đây không? Cô gái hỏi bác chăn cừu.

- Tôi chả thấy ai khác ngoài lãnh chúa Mipam của chúng tôi vừa qua đây. Tất cả số cừu này là của ông đấy.

Cô gái đi tiếp và chẳng bao lâu thấy một đàn bò  thật lớn:

- Bác có thấy một ông lão ăn mày đi ngang qua đây không? Cô hỏi bác chăn bò.

- Tôi chả thấy ai khác ngoài lãnh chúa Mipam của chúng tôi vừa qua đây. Những con bò Tây Tạng này là của ông ấy.

“Kẻ ăn mày đi đâu rồi nhỉ?” Cô gái tự hỏi. “Phải chăng chính ông ta là lãnh chúa Mipam? Vậy thì phải chăng ta sẽ kết hôn với một ông lão ăn mày?” Nàng lại đi, đi xa hơn nữa, gặp một đàn ngựa. Nàng hỏi bác chăn ngựa.

- Bác có thấy một ông lão ăn mày đi ngang qua đây không?

- Không có ông lão ăn mày nào cả. Chỉ có lãnh chúa Mipam của chúng tôi vừa qua đây. Đàn ngựa này thuộc về ông ấy.

Mặt trời đã nhô ra khỏi sương mù buổi sớm, soi tỏ toàn bộ cảnh vật. Cô gái bỗng dừng lại, bàng hoàng. Trước mặt cô sừng sững một tòa lâu đài tráng lệ bằng vàng, lấp lánh trong nắng ban mai. Trước lối vào lâu đài, một cụ già tóc bạc như cước tươi cười đón cô.

- Đây là đền thờ Phật chăng thưa cụ? Cô gái rụt rè hỏi.

- Không phải, cụ già nhã nhặn đáp... Đây là dinh thự của lãnh chúa Mipam. Chủ nhân của chúng tôi đang đợi cô.

Cô gái tiến lên. Chỗ nào bàn chân cô chạm tới tức thì chỗ đó các khóm hoa tưng bừng nở và tỏa ngát hương thần tiên. Cô vừa bước vào trong lâu đài thì một tấm thảm mênh mông, hoa văn rực rỡ, trải ra trước mỗi bước chân. Và một chàng trai khôi ngô tuấn tú tiến lại gần. Cặp mắt sâu của chàng ngời ngời hạnh phúc. Theo sau chàng là một đoàn tùy tùng mang theo rất nhiều lễ vật quý hiếm, thứ nọ quý hơn thứ kia. Chàng trai tuấn tú nhẹ nhàng nâng bàn tay cô gái và nói:

- Ta là Mipam. Ta cũng chính là ông lão ăn mày. Em có thuận tình lấy ta như đã hứa không?

Cô Xà cừ chăm chăm nhìn chàng trai khôi ngô tuấn tú không rời mắt. Cô tưởng như trái tim mình sắp vỡ tung vì sung sướng. Như trong mơ, cô ra dấu thuận tình, và Mipam nắm tay cô dắt vào trong lâu đài. Tại đây, cô mặc một tấm áo sáng ngời bảy sắc cầu vồng, trang sức bằng san hô và ngọc quý lấp lánh. Rồi cô ngồi trên một chiếc ngai bạc. Mipam ngồi trên một ngai vàng. Cùng nhau, họ lựa chọn ngày vui nhất đời làm ngày cưới.

Sau đó thì sao nhỉ? Rất lâu sau, họ vẫn chung sống hạnh phúc, bởi vì họ luôn yêu nhau say đắm.

13. Con chim khóc

Xưa Kia có hai anh em nhà nọ sống cùng nhau. Từ lâu, cha họ đã mồ yên mả đẹp, bởi vậy tách người này khỏi người kia, họ chẳng còn ai thân thuộc trên đời

Họ nương tựa vào nhau trong tình anh em thương yêu và hòa thuận, vừa sống chật vật bằng nghề chài lưới. Cứ mỗi sáng tinh sương, họ mang lưới ra biển. Đôi khi bắt được con cá ngon, họ không bán mà đem về nhà nấu nướng cùng ăn.

Bao giờ cũng vậy, người anh dành hết cho em phần mình cá, chỉ giữ lại mỗi khúc đầu. Thấy sự tình cứ lặp đi lặp lại, người em sinh nghi tại sao anh không cho mình cùng thưởng thức khúc đầu. “Phải chăng đó là phần đặc biệt ngon, nên anh ấy luôn giữ ăn riêng?” Và từ đó trong lòng người em nảy sinh thái độ hằn học. Cho đến một ngày hai anh em lên thuyền ra khơi xa, lợi dụng lúc người anh quay lưng lại, cúi mình ra ngoài thuyền, người em xô anh xuống nước!

- Thế là từ nay ta cũng được thưởng thức đầu cá! Người em xoa tay mừng thầm. Gã mang số cá đánh được về nhà, đem rán lên con ngon nhất và lập tức tấn công cái đầu. Nhưng sao vậy kìa? Trên cái đầu ấy chẳng có gì để ăn. Toàn những xương. Má cá cũng chẳng có vị gì đặc biệt. Đến lúc đó người em mới hiểu ra, vì yêu gã người anh bao giờ cũng dành cho gã phần ngon nhất và chỉ giữ lại cho mình khúc đầu chẳng giá trị gì. Gã khóc lóc thảm thiết, chạy ra biển cả mênh mông, xám xịt và thê lương.

- Ôi anh, anh tội nghiệp của em, anh đang ở nơi đâu? Người em gào lên đau khổ nhưng không ai trả lời. Chỉ có tiếng biển gầm gào và những đợt sóng cồn lên dữ dội. Người em gọi anh trong vô vọng. Rốt cục, gã quyết định xuống tận đáy biển tìm anh. Gã nhảy ào xuống nước và mặt biển khép lại vĩnh viễn bên trên. Từ đó không ai còn gặp gã nữa.

Người ta kể lại rằng người em chết đuối và linh hồn gã biến thành con chim khóc bay liệng không ngừng trên mặt biển, mãi khóc thương người anh xấu số.

14. Thiên đình - Giỏi! Giỏi!

Nhân gian chìm trong tăm tối, sương mù và ủ ê. Thượng đế ngủ lơ mơ, quấn mình trong màn sương mù, gối đầu trên một chiếc gối mây. Chợt ông cựa mình và mở mắt. Ông nhìn xuống.

Thiên đình

Nhân gian chìm trong tăm tối, sương mù và ủ ê. Thượng đế ngủ lơ mơ, quấn mình trong màn sương mù, gối đầu trên một chiếc gối mây. Chợt ông cựa mình và mở mắt. Ông nhìn xuống. Dưới chân ông, sương lan tỏa, sương bò tới tận mũi, chỗ nào cũng là sương, chỉ có sương.

“Ta thấy đủ lắm rồi,” Thượng đế tự nhủ, đoạn vươn vai, cánh tay ông biến mất trong sương mù. Ông có cảm tưởng như chính mình chỉ còn là sương mù. Ông rất buồn và ủ ê. Người ta thường buồn khi chỉ có một mình trên đời và chính Thượng đế nhân từ cũng không thể khác, khi Người cô độc.

“Tình hình này không thể cứ tiếp diễn mãi,” ông tự nhủ và vẫy bàn tay quyền năng. Tức thì, dưới bàn tay trái là ánh sáng và dưới bàn tay phải là bóng tối. Ông vẫy tay lần thứ hai, bầu trời chao đảo, mặt đất quay cuồng. Ông vẫy tay lần thứ ba, và mặt trời xuất hiện phía này, các vì sao phía kia. Trên bầu trời, ông tạo ra một khoảng không vô tận, phả vào mặt trời một hơi nóng nung nấu, ban cho các vì sao thứ ánh sáng giá lạnh, nhưng ông sẽ ban cho mặt đất gì đây? Đất co rúm dưới chân ông, xám ngoét, hoang vắng, câm lặng, và ôi chao buồn đến não lòng. “Chờ đấy, bé em, ta sẽ không để em như thế đâu,” ông vỗ về. Ông bước xuống từ đỉnh trời cao và bắt tay vào việc. Chỗ này đào một thung lũng, chỗ kia bật lên một quả núi, trồng cây trên cao nguyên, đổ đầy nước xuống sông suối, thu hút mây về trên đỉnh núi, lùa gió vào, đặt tổ chim trên cây cối, thả thú vào rừng. đêm dần buông xuống và Thượng đế nhân từ thấm mệt, dẫu vậy ông chưa thể đi ngủ. “Ta sẽ chưa đi ngủ chừng nào chưa xong việc.” Ông xếp đá trên các sườn núi, và dưới chân núi ông tạo ra con người. Vì ông tạo ra đá và con người sau cùng, nên với mỗi tạo vật này, ông dành cho một lời ban phước đặc biệt. Với đá, ông nói:

- Trên nền của ngươi ta đặt lên thế giới, ngươi sẽ sinh sôi nảy nở và trải khắp mặt đất. Ta ban phước cho ngươi, ngươi và hậu duệ của ngươi.

Thượng đế ngắm nhìn đá. Chúng cứ nhân mãi lên, thành đống nhỏ, rồi đống to, rồi những đống khổng lồ trùm lên hết núi non.

Tiếp theo, Thượng đế nói với người:

- Với các ngươi, ta ban cho trí thông minh và sự bất tử. Các ngươi sẽ làm vườn và khai khẩn đất hoang. Ta ban phước cho các ngươi, và hậu duệ của các ngươi.

Tức thì con người phân tán trên khắp mặt đất. Vì có trí thông minh con người biến đất hoang thành những khu vườn trổ hoa.

Thượng đế hài lòng trở về nơi ở của Người, trên những đỉnh mây cao.

Đá sống những năm dài trong núi. Nhưng một hôm, chúng cho là thiếu không gian sinh tồn. Thế là chúng rùng rùng chuyển động, đổ bộ xuống thung lũng. Chúng xâm nhập các đồng cỏ, lăn vào các cánh đồng đang cấy cày. Con người nổi giận. Giữa người và đá sự bất đồng nảy sinh. Con người vấp phải đá, ngã dúi dụi, họ lao vào quyết định tống khứ đá, dọn quang mặt đất, ném lũ đá xuống nước, đập vỡ và nghiền nát những kẻ gây phiền nhiễu. Nhưng điều đó khiến cho đá không hài lòng. Để trả thù, chúng nhảy xổ vào con người, gây ra nhiều tai họa.

Một tối, trời đầy mây và màn đêm buông tràn mặt đất, con người e ngại nên chuẩn bị đi ngủ sớm. Đá đã sẵn sàng mở cuộc tấn công. Khi con người cuối cùng cũng đã ngủ say vì mệt nhọc, thì đá tràn xuống núi trong tiếng ầm ầm khủng khiếp, nhảy thẳng vào nhà những con người bất hạnh. Người bị đá húc phải, ngã bật ngửa, đè bẹp, họ kêu cứu, nhưng kêu cứu cũng vô ích. Vì Thượng đế đã ban cho con người sự bất tử, những kẻ khốn khổ chẳng thể chết dưới những ngón đòn của đá để nỗi đau đớn kia chấm dứt. Khổ hình họ chịu không lời nào tả nổi! Những rên xiết và than khóc của họ bay đến tận nơi ở của Thượng đế nhân từ. Ông ngó xuống đất, rất ngạc nhiên trước những gì đang xảy ra. Không do dự, ông xuống ngay mặt đất.

- Xin cứu giúp, cứu giúp chúng tôi, bảo vệ chúng tôi khỏi những tảng đá độc ác này, bảo vệ chúng tôi, nếu Người còn có trái tim! Con người tuyệt vọng kêu xin. Trước ông, lũ đá im lìm.

- Từ nay, các ngươi không được tranh cãi nhau nữa, Thượng đế tuyên bố. Ta đã ban phước cho các ngươi, đá cũng như người. Nhưng các ngươi không xứng với phước lành ta ban. Kể từ hôm nay, loài người không còn bất tử, và đá thôi không được sinh sôi nữa, ở đâu hãy cứ nguyên đấy. Và trả giá cho những đau khổ các ngươi đã gây ra cho con người, con người được khai thác các ngươi, đẽo các ngươi, dùng các người làm nhà.

Đến đây, Thượng đế không nói thêm lời nào, lặng lẽ quay về chỗ ở, cao tít trên những đám mây.

Như các bạn thấy đấy, Thượng đế đã phán xử đúng. Từ sau lần ấy, người và đá không còn tranh cãi với nhau nữa!

Giỏi! Giỏi!

Xưa có một người nghèo khổ nai lưng ra làm lụng, làm lụng cật lực mà không kiếm được một xu dính túi. Một mùa đông, tuyết phủ ngập đồng quê, gió lạnh căm căm thổi lộng trên khắp mặt đất bỏ hoang, anh nghèo khổ của chúng ta đốt lửa sưởi ấm túp lều tranh và mang đất về trồng một hạt dưa hấu. ít lâu sau anh thu hoạch được một quả dưa to đẹp.

“Ta sẽ đem tiến hoàng đế”, anh nghĩ. “Người sẽ trả cho ta một món tiền hậu hĩnh.” Và anh mang dưa đi cung tiến hoàng đế.

- Ngươi đã tự mình trồng à? Hoàng đế tò mò, hỏi.

- Bẩm vâng, tâu hoàng thượng, anh nghèo hoang mang đáp.

- Giỏi! Hoàng đế tán thưởng. Và giữa mùa đông như thế này?

- Bẩm vâng, tâu hoàng thượng anh nghèo lễ phép trả lời.

- Giỏi! Và tất cả chỉ để mang biếu trẫm?

- Bẩm hoàng thượng, vâng, anh nghèo trả lời se sẽ...

- Giỏi! Hoàng đế tán thưởng. Ông nhận quả dưa từ tay anh nghèo và ra hiệu cho anh lui.

Con người tội nghiệp ra khỏi hoàng cung, bụng đói cồn cào đến phát khóc được.

Ngang qua một hàng cơm, anh nghe chủ quán gọi:

- Ô này, anh bạn, anh không muốn vào xơi mấy cái bánh nhồi thịt ư?

Anh nghèo nhận lời không khách sáo. Anh vào hàng cơm, ngồi xuống bàn. Chủ quán mang đặt trước mặt anh một cái đĩa trên là những chiếc bánh nhồi thịt bé xíu. Đang đói, anh nghèo nhanh chóng ngốn sạch.

- Bác tự mình làm bánh này à? Anh hỏi.

- Đúng thế, chủ quán đáp.

- Giỏi! Anh nghèo tán thưởng. Thịt cũng thế à?

- Đúng thế, chủ quán nói.

- Giỏi. Anh nghèo tán thưởng, đứng dậy đi ra cửa.

- Ê, này! Anh bạn trả tiền suất bánh trước khi đi chứ? Chủ quán quát hỏi, đoạn tóm lấy anh. Nhưng vì chẳng moi được xu nào, chủ quán nổi khùng, dẫn anh nghèo đến trước hoàng đế, lên án về tội ăn quỵt. Hoàng đế nổi giận.

- Thói phép đâu lại gọi món ăn rồi chuồn, không trả tiền? Ngươi nghĩ rằng chỉ cần khen “Giỏi” là đủ sao? Với tiếng “Giỏi” ấy người ta chẳng thể mua được gì cả.

- Tâu hoàng thượng, hẳn thần đã lú lẫn. Thần đã dâng lên Người một quả dưa, khó khăn lắm mới giồng được giữa mùa đông thế này. Người đã đuổi cổ thần về, chỉ khen “Giỏi”. Thần tưởng đâu từ nay, trong vương quốc chúng ta hễ khen “Giỏi” là đủ trả tiền mọi thứ. Thần đã dùng câu ấy để trả tiền bánh nhân thịt!

Hoàng đế vô cùng xấu hổ. Ông trả cho chủ quán tiền bánh nhân thịt và thưởng hậu cho anh chàng nghèo.

 

Trên đây là toàn bộ nội dung tài liệu Truyện kể Tây Tạng dành cho học sinh tiểu học. Để xem thêm nhiều tài liệu tham khảo hữu ích khác các em chọn chức năng xem online hoặc đăng nhập vào trang Chúng tôi để tải tài liệu về máy tính.

Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các em học sinh ôn tập tốt và đạt thành tích cao trong học tập.

Tham khảo thêm

Bình luận

Có Thể Bạn Quan Tâm ?