Chương 1: Nàng Sassanides
Sử sách thời Sassanides, thời của những ông vua quốc gia Ba Tư cổ xưa, đất nước có biên cương mở rộng tới tận Ấn Độ và các đảo phụ thuộc lớn nhỏ, trải ra tới phía bên kia sông Hằng và phần đất rộng lớn của Trung Quốc bao la, chép lại rằng ngày xưa có một ông vua của cái quốc gia hùng mạnh đó, nổi tiếng là một đấng quân vương anh minh, đức độ.
Ông vua này chẳng những được các thần dân tôn sùng kính mến vì tài năng và tính cẩn trọng mà còn được các quốc gia lân bang nể sợ vì uy danh có một đạo quân thiện chiến và kỷ luật. Đức vua có hai hoàng tử. Hoàng tử anh tên là Schahriar có đầy đủ đức tính như cha, xứng đáng là người sẽ được kế tục ngôi báu. Hoàng tử em là Schahzenan cũng chẳng thua kém gì anh về mọi mặt.
Sau một thời gian dài trị vì trong vinh quang và thịnh vượng, đức vua cha già yếu thăng hà. Schahriar, hoàng tử anh lên ngôi. Theo luật của đất nước này, hoàng tử em Schahzenan không được xẻ chia quyền hành, đành phải sống như một dân thường. Không có một chút gì bất đồng đố kị, Schahzenan còn ra sức giúp giập anh làm cho anh lúc nào cũng vui vẻ hài lòng.
Schahrlar vốn đã rất yêu quí em, nay lại thấy rõ thái độ vô tư của chàng nên lại càng mến trọng. Trong niềm xúc động hân hoan đó, Schahrlar quyết cắt đất Đại Tartarie và phong cho em làm vua quốc gia rộng lớn này.
Hoàng tử em Schahzenan bèn từ biệt vua anh và lên đường nhậm chức.
Chàng chọn Samarcande làm thủ phủ của đất nước.
Đã mười năm rồi, hai vị vua anh em đó xa nhau, khi vua Schahriar nảy ra ý muốn tha thiết được gặp lại em. Ông quyết định cử một sứ thần đi triệu em về triều. Thế là vị đại thần đầu triều cầm đầu sứ bộ cùng với cả một đoàn tuỳ tùng lên đường ngay. Khi tới gần thủ phủ Samarcande, vua Schahzenan được tin, đã cùng với các đại thần của triều đình mình, phẩm phục chỉnh tề ra nghênh đón. Vua xứ Tartarie tỏ ra hết sức vui mừng, trước hết thăm hỏi tình hình của đức vua anh. Sau khi thoả mãn yêu cầu của quốc vương xứ Tartarle, ngài tể tướng mới trình bầy mục đích của sứ bộ.
Schahzenan vô cùng cảm động. Quốc vương bảo: Tể tướng, đức vua anh ta đã làm cho ta thật là vinh hạnh, ý muốn của Người đã làm ta vui sướng khôn cùng. Người muốn gặp lại ta, ta cũng rất nóng lòng được thấy mặt Người. Thời gian đã chẳng làm giảm đi tình nghĩa anh em của Người, thì ta cũng vậy, tình nghĩa anh em của ta đối với Người vẫn luôn luôn sâu đậm. Quốc gia ta luôn an bình, ta chỉ cần khoảng mười hôm để chuẩn bị và sẵn sàng lên đường cùng với nhà ngươi. Như vậy nhà ngươi cũng chẳng cần vào thành làm gì với khoảng thời gian ngắn ngủi như vậy Nhà ngươi cứ hạ trại tại đây, ta sẽ cho mang tới đầy đủ các thứ vật dụng và lương thực, thực phẩm cho ngươi và cho cả đoàn sứ bộ?. Tất cả đều được mau chóng thực hiện.
Nhà vua vừa về tới Samarcande thì các thứ ùn ùn đưa tới: thức ăn, đồ uống với số lượng lớn lại thêm bao nhiêu là những tặng vật quí có giá trị cao.
Trong lúc đó vua Schahzenan chuẩn bị lên đường, xử lý mau chóng các sự vụ còn tồn đọng, thành lập một hội đồng để cai trị đất nước trong thời gian đi vắng và đặt một vị đại thần tin cậy đứng đầu hội đồng đó.
Trong vòng mười ngầy, mọi việc xong xuôi, nhà vua tạm biệt hoàng hậu, rời Samarcanđe vào buổi chiều cùng với cả đoàn các quan hộ giá, đến nghỉ tại hành cung cạnh những chiếc lều trại của quan tể tướng. Nhà vua cùng vị sứ thần đàm đạo tới khuya. Rồi, muốn một lần nữa nói lời tạm biệt với hoàng hậu mà chàng hết lòng yêu thương, nhà vua một mình quay lại cung điện.
Chàng đi thẳng tới hậu cung. Hoàng hậu không ngờ nhà vua lại trở về bất ngờ như thế nên trước đó đã đón tiếp trên giường mình một viên quan hầu hạng bét trong nội cung. Chắc hẳn chúng đã nằm với nhau rất lâu rồi nên lúc này chúng ngủ say như chết.
Nhà vua nhẹ bước đi vào, rất thích thú là sẽ làm cho hoàng hậu mà nhà vua cho là yêu thương mình rất mực phải ngạc nhiên về sự trở về của mình. Nhưng biết bao sửng sốt, khi dưới ánh sáng những bó đuốc chẳng bao giờ tắt trong đêm tối ở những ngôi nhà của các ông hoàng bà chúa, nhà vua nhìn thấy một tên đàn ông nằm gọn trong cánh tay hoàng hậu.
Ông đứng lặng người một lát không dám tin vào những gì mình thấy. Nhưng, chẳng còn nghi ngờ gì nữa. “Sao! – Chàng tự nhủ – Ta vừa mới ra khỏi cung điện, và hãy còn ở dưới chân thành Samarcande mà người ta đã đám làm nhục ta? A? Quân khốn kiếp. Tội ác của các ngươi không thể không bị trừng phạt! Là vua, ta phải trừng trị những sai trái xảy ra trong đất nước; là người chồng bị phản bội, ta phải xé xác ngươi để hả lòng căm giận chính đáng của ta”. Và rồi, vị vua bất hạnh này, không kìm được cơn giận xung thiên, rút kiếm ra, tiến đến gần chiếc giường ngự, chỉ bằng một nhát, đưa đôi gian phu dâm phụ từ giấc ngủ đến cái chết nhục nhã. Rồi lần lượt chàng hẩy xác chúng qua cửa sổ, rơi xuống hào sâu bao bọc xung quanh.
Trừng trị xong lũ đốn mạt, chàng ra khỏi kinh thành, lặng lẽ cũng như lúc về và lui vào hành cung. Rồi ngay lập tức chàng ra lệnh cuốn lều trại lên đường. Chuyện vừa xảy ra, chàng chẳng nói với một ai.
Tất cả đều đã sẵn sàng, trời chưa sáng rõ, đoàn người khởi hành trong tiếng trống chiêng rộn rã làm toàn dân náo nức trừ nhà vua. Vị hoàng đế này, đầu óc luôn bị cái cảnh phản bội của hoàng hậu ám ảnh, suốt trong cuộc hành trình luôn âu sầu phiền muộn.
Khi gần tới kinh thành đất nước Ấn Độ, nhà vua thấy hoàng đế Schahriar thân chinh cùng cả triều thần ra đón. Làm sao tả được niềm vui gặp gỡ của hai vị vua anh em này! Họ đều nhảy xuống ngựa để ôm chầm lấy nhau và sau khi đã thể hiện muôn ngàn dấu hiệu của tình cảm thương mến đậm đà họ lại lên ngựa và cùng đi vào thành trong những tiếng hoan hô vang dội của dân chúng tập trung đông vô kể. Hoàng đế dẫn nhà vua tới tận biệt điện đã chuẩn bị sẵn đành cho vua em. Cung điện này thông sang cung điện của hoàng đế Schahriar qua một mảnh vườn chung dùng làm nơi tổ chức các hội lễ, các cuộc vui chơi của triều đình. Và nhân dịp này khu vườn còn được trang trí thêm nhiều thứ vô cùng tráng lệ.
Schahriar hãy tạm chia tay với quốc vương xứ Tartarie để chàng tắm rửa và thay áo quần, nhưng ngay sau đó, hoàng đế đã tìm gặp lại em. Hai người cùng ngồi trên tràng kỷ, những cận thần đều kính trọng lùi ra xa.
Hai vị quốc vương gắn bó với nhau không những vì tình cảm thân thương mà còn vì cùng huyết thống, được tự do đốc bầu tâm sự cho bỏ thời gian dài xa cách. Hai anh em cùng nhau dùng bữa tối rồi lại tiếp tục chuyện trò mãi đến lúc Schahrlar thấy đêm sắp tàn mới rút về hậu cung để em được nghỉ ngơi.
Vị vua em bất hạnh đi nằm. Nhưng lúc cùng vua anh đàm đạo, nỗi buồn có nguôi ngoai đôi chút thì lúc này lại khơi dậy mạnh mẽ. Lẽ ra phải thoải mái nghỉ ngơi để phục hồi sức khoẻ thì tâm trí chàng lại bị giầy vò dữ dội.
Hình ảnh phản bội bẩn thỉu của hoàng hậu hiện lên rõ mồn một trong trí nhớ làm tâm can chàng sôi sục. Rồi, không sao ngủ được, chàng ngồi lên, chìm đắm trong những ý nghĩ đau buồn. Nét ủ rũ của chàng hiện rõ trên khuôn mặt khiến vua anh trước đó cũng nhận thấy phải tự hỏi: “Quốc vương Tartarie làm sao thế nhỉ? Kẻ nào đã làm cho chú ấy phải rầu lòng? Phải chăng ta đã đón tiếp chú ấy không được chu đáo? Không, ta đã coi chú ấy như một người em mà ta vô cùng yêu mến, về khoản này thì ta thấy ta chẳng có gì đáng chê trách.
Có thể em ta vì tạm xa cách đất nước và hoàng hậu, vợ chú ấy mà có tâm trạng nhớ nhung chăng. Ồ, nếu có phải vì thế mà em ta buồn thì ta sẽ trao ngay những tặng phẩm đã đành cho chú ấy, để bất cứ lúc nào muốn là chú ấy có thể lên đường trở về Samarcanđe!. Và ngay ngày hôm sau ông gửi cho chàng một phần những tặng vật đó gồm những đồ quí hiếm thật độc đáo. Ngoài ra, hàng ngày, nhiều trò đu hí được tổ chức để làm cho chàng nguôi vơi buồn nhớ. Nhưng những cuộc vui huy hoàng nhất, tráng lệ nhất cũng chẳng làm chàng khuây khoả mà lại càng như khơi gợi mối u buồn sâu sắc.
Một hôm hoàng đế Schahriar hạ lệnh mở một cuộc săn lớn trong một vùng có nhiều hươu nai cách kinh thành hai ngày đường. Quốc vương Schahzenan xin cho được miễn tham gia viện cớ không được khoẻ.
Hoàng đế chiều lòng để cho vua em được tự do, rồi cùng với cả triều thần lên đường giải trí.
Sau khi vua anh đi rồi, quốc vương xứ đại Tartarie còn lại một mình, lui vào phòng riêng khép kín cửa lại. Chàng ngồi bên cửa sổ trông ra vườn ngự uyển. Khu vườn tráng lệ đầy tiếng chim hót này đáng lẽ làm cho chàng vui thích nếu còn có khả năng cảm thụ, nhưng luôn bị vò xé vì cái kỷ niệm não lòng về hành vi thất tiết của hoàng hậu nên chàng chẳng chú ý gì đến khu vườn mà luôn ngước mắt nhìn lên cao để than thầm cho số phận.
Nhưng, dù bị nỗi đau chi phối tới bao nhiêu, chàng cũng không sao không để mắt tới một sự kiện khác thường nó thu hút tất cả sự chú ý của chàng. Một cánh cửa bí mật bên cung điện của hoàng đế bỗng mở toang và từ đó lần lượt đi ra hai mươi người phụ nữ, giữa họ là hoàng hậu mà cung cách đi đứng làm ta rất dễ nhận biết.
Hoàng hậu cho là quốc vương xứ Đại Tartarie cũng đã cùng đi săn với hoàng đế chồng mình nên đã bước đi một cách thật mạnh dạn tới tận gần cửa sổ phòng riêng của quốc vương em chồng. Quốc vương vì tò mò muốn biết cái gì sẽ xảy ra nên đã lui vào một chút để không bị nhìn thấy nhưng mình thì vẫn trông rõ mồn một cảnh ngoài vườn.
Chàng nhận thấy bọn người tháp tùng hoàng hậu bắt đầu bỏ các tấm mạng tới lúc đó vẫn còn che mặt và cởi cả những áo dài khoác bên ngoài những bộ y phục ngắn. Nhưng chàng vô cùng kinh ngạc thấy đám người mà chàng tưởng toàn là phụ nữ thì lại có mười người con trai da đen, mỗi người ôm lấy người tình của mình.
Về phần hoàng hậu cũng chẳng muốn chờ đợi lâu vội vỗ mạnh bàn tay và gọi to: “Masoud! Masoud!” Và ngay lập tức một tên đàn ông da đen khác tụt từ trên một cây cao xuống, vội chạy đến với nàng.
Sự ngượng ngùng không cho phép ta kể lại tất cả những gì đã xảy ra giữa những người đàn bà và lũ đàn ông da đen này, đó là những chi tiết chẳng đáng quan tâm, chỉ biết là Schahzenan, mắt nhìn thấy cơ sự đó, nhận ra là hoàng đế anh mình cũng bất hạnh chẳng kém gì mình. Cuộc hoan lạc của đám người dâm loạn nầy kéo dài mãi tới nửa đêm.
Cả bọn còn nhảy xuống cái hồ lớn vốn rất sạch đẹp trong vườn ngự uyển để tắm táp rồi sau đó mặc lại quần áo và biến mất sau cánh cửa bí mật của hoàng cung. Còn Masoud từ bên ngoài trèo qua tường để vào vườn thì lại đi ra bằng lối đó.
Vì tất cả những cảnh trên đây đều diễn ra trước mắt vị quốc vương xứ Đại Tartarie nên làm cho chàng suy nghĩ rất nhiều: “Ta thật là nông nổi – Chàng tự bảo – đã cho là mình vô cùng bất hạnh? Đó chẳng qua là số mệnh khó lòng tránh khỏi của tất cả những ông chồng, ngay cả hoàng đế anh ta, vua của biết bao nhiêu Quốc gia, chúa tể của toàn thiên hạ cũng còn không tránh khỏi kia mà. Đã là số mệnh thì can chi ta lại quá yếu đuối mòn mỏi trong phiền não u sầu? Thế là xong: hồi ức của một sự bất hạnh riêng từ nay không thể lũng đoạn cuộc sống yên bình của ta”.
Quả vậy, từ lúc đó chàng chẳng còn thấy quá khổ đau phiền muộn. Chàng đã chẳng thiết gì ăn uống nếu không được mục kích tất cả những gì xảy ra dưới cửa sổ phòng mình; lúc nầy chàng đòi ăn và ăn ngon miệng hơn cả kể từ ngầy rời Samarcanđe, và còn lấy làm thích thú nghe những lời ca điệu nhạc du dương hoà tấu trong bữa ăn của chàng.
Những ngày tiếp theo, chàng hoàn toàn bình thản và khi biết hoàng đế anh từ cuộc đi săn đã trở về, chàng đi tới vui vẻ chúc mừng. Thoạt đầu, Schahriar chưa chú ý gì đến sự thay đổi này mà chỉ phàn nàn tiếc là quốc vương em đã bỏ lỡ cuộc săn thú vị và không để cho em kịp thanh minh, ông khoe đã săn bắt được một số lượng lớn hươu nai và các con thú khác cùng với sự vui thích được hưởng trong cuộc săn. Schahzenan chăm chú nghe rồi bắt đầu lên tiếng. Vì không còn nỗi buồn rầu ám ảnh làm thui chột cả trí thông minh sắc sảo, chàng nói năng thật hoạt bát lanh lợi và đầy tính trào lộng.
Đinh ninh em mình vẫn ủ rũ như lúc tạm chia tay để lên đường đi săn, hoàng đế vô cùng hài lòng thấy chàng thật vui vẻ. Ông bảo:
- Em ạ, ta cảm tạ trời đất đã làm cho em thay đổi tốt lành trong lúc ta không có mặt ở nhà. Ta thật là vui sướng, nhưng ta có một yêu cầu đối với em mong là sẽ được em đáp ứng.
Em lại có thể từ khước anh một điều gì ư? – Nhà vua xử Tartarie đáp – Với Schahzenan này, anh có đủ quyền lực Anh nói đi, em đang nóng lòng muốn biết anh muốn em phảị làm gì.
- Từ khi em tới triều đình ta – Schahriar nói – Ta thấy em luôn luôn sầu muộn mà ta đã cố gắng xua đuổi bằng bao nhiêu trò vui chơi giải trí. Ta đã nghĩ là sự sầu muộn của em là do xa nhà, xa đất nước; ta cũng nghĩ là tình yêu chiếm phần lớn. Hoàng hậu ở Samarcande mà em đã lựa chọn ắt phải có một sắc đẹp tuyệt trần, có lẽ đó là nguyên nhân.
Không biết là ta có bị nhầm trong sự suy đoán không, nhưng cũng phải thú thực là cũng vì thế mà ta chẳng muốn gặng hỏi sợ làm em chẳng vừa lòng. Thế mà, chưa một chút nhọc công nào chăm sóc, khi trở về ta lại thấy em vui vẻ nhất trần đời và tinh thần như đã được giải toả mọi nỗi ưu tư, nó đã làm vẩn đục cả vẻ vui tươi khoái hoạt của em. Hãy vui lòng nói cho ta rõ vì sao em hết sầu não buồn đau?”.
Nghe vua anh nói vậy, quốc vương xứ Đại Tartarie trầm lặng một lát như để suy nghĩ lời đáp. Rồi chàng nói:
- Anh là hoàng đế v2à cũng là người chủ của em, xin anh hãy miễn cho việc phải đáp ứng điều anh đòi hỏi, em van xin anh đấy.
- Không, em của ta – Hoàng đế nói – Em phải chiều ta. Ta mong muốn như vậy, chớ khước từ ta nữa.
Schahzenan không thể cưỡng lại sự gặng hỏi của Schahriar, đành nói:
- Vậy thì, anh của em? Vì anh đã ra lệnh, em đành phải làm theo ý muốn của anh thôi.
Rồi chàng kể lại sự phản bội, thất tiết của hoàng hậu Samarcanđe. Kể xong, chàng nói:
- Đó là nguyên nhân nỗi buồn đau của em. Phải chăng là em đã sai lầm khi để cho nỗi buồn đó chi phối?
- Ôi, em của tôi? – Hoàng đế kêu lên bằng giọng nhuốm vẻ thông cảm với nỗi buồn giận của quốc vương xứ Tartarie – Câu chuyện em vừa kể ta nghe mới khủng khiếp làm sao? Phải kiên nhẫn tới chừng nào ta mới nghe được tới cuối câu chuyện! Ta khen ngợi em đã trừng trị thích đáng những tên phản trắc đã xúc phạm em thật nặng nề.
Không ai có thể trách cứ hành động đó: em đã xử sự thật công minh. Còn ta, thú thực nếu ở địa vị của em, có lẽ ta sẽ chẳng được chừng mực như thế đâu: Cắt đi mạng sống chỉ của một người đàn bà, đối với ta chưa đủ đâu. Ta nghĩ là có thể hàng ngàn đứa phải mất đầu trong cơn điên giận của ta kia.
Ta không ngạc nhiên về nỗi buồn của em; nguyên nhân thật quá đắng cay, quá tủi nhục lẽ nào chẳng làm cho em ta suy sụp. Trời? Thật là đa đoan? Không, ta tin là chuyện đó chẳng còn có thể xảy ra với ai như đã xảy ra với em. Nhưng ta cũng phải đội ơn Thượng đế là đã cho em niềm an ủi mà ta tin là có căn cứ vững chắc. Vậy thì em hãy vui lòng cho ta biết đi, hãy cùng ta cạn dòng tâm sự
Schahlenan thấy vô cùng khó khăn đáp ứng điều này hơn điều đã nói về mình vì đây lại liên quan tới người anh, nhưng cũng đành phải nhượng bộ vì những lời khẩn thiết của ông:
- Em xin phục tùng – Chàng nói- vì anh đã kiên quyết muốn biết rõ nguyên nhân. Em sợ là sự phục tùng của em sẽ gây cho anh nhiều phiền muộn mà trước đây em đã phải chịu. Nhưng anh chỉ tự trách được mình thôi vì chính anh đã buộc em phải tiết lộ ra một chuyện mà em đang muốn chôn vùi trong lãng quên vĩnh viễn.
- Điều em nói đó – Schahriar ngắt lời em – lại càng làm ta háo hức muốn biết. Hãy mau hé mở cho ta tấm màn bí mật đó đi, muốn ra sao thì ra.
Vua xứ Tartarie không còn đất để lùi nữa, đành phải thuật lại tất cả những gì chàng trông thấy về sự cải trang của những tên da đen, về sự dâm loạn của hoàng hậu và các thị nữ của bà và chàng không quên nói đến cái tên Masoud.
- Sau khi chứng kiến tất cả những cảnh xấu xa nhơ bẩn đó – Chàng nói tiếp – em nghĩ là tất cả đàn bà đều như thế cả thôi, họ khó có thể cưỡng lại được dục vọng. Em như được cảnh tỉnh, thấy ra là: đối với một trang nam nhi thật là quá hèn yếu nếu để cho sự an bình của mình phụ thuộc vào lòng chung thuỷ của họ: ý nghĩ này đưa em đến nhiều suy tư khác và cuối cùng em thấy là không gì tốt hơn là tự mình an ủi mình. Khó khăn thật đấy, nhưng em đã thành công. Nếu tin em thì anh hãy làm như em vậy.
Mặc dù lời khuyên đó thật là khôn ngoan đúng mực, nhưng hoàng đế không thể chấp nhận mà còn nổi giận đùng đùng:
- Sao. – Ông thét lên – Chánh cung hoàng hậu của đất nước Ấn Độ rộng lớn mà lại sa đoạ tới mức dê nhục đó ư! Không, em ạ – Ông thêm- Ta không thể tin được những gì em đã nói nếu ta không được nhìn thấy tận mắt.
Chắc là em đã nhìn nhầm đấy thôi. Sự việc nghiêm trọng đáng để cho ta phải tự mình khẳng định.
- Anh ạ – Schahzenan nói – Nếu anh muốn mục kích cũng chẳng có gì khó khăn lắm đâu. Anh chỉ việc tổ chức một cuộc đi săn mới. Khi chúng ta đã ra ngoài kinh thành cùng với các triều thần cả của anh và của em, chúng ta sẽ dừng lại ở hành cung và đến đêm cả hai anh em ta sẽ trở về nơi biệt điện dành cho em.
Em đoán chắc là ngầy hôm sau anh sẽ thấy tất cả những gì em đã thấy.
Hoàng đế tán thành kế hoạch đó và lập tức ra lệnh tổ chức một cuộc đi săn mới, vì vậy các lều trại lại được dựng lên nơi đã được qui định.
Ngầy hôm đó cả hai vị vua lên đường cùng với cả hai đoàn tuỳ giá. Họ tới nơi đã định trước và ở đó cho tới đêm. Lúc bấv giờ Schahriar cho đòi tể tướng tới và chẳng cần cho biết ý đồ của mình, ra lệnh cho ông này tạm quyền và không được để bất cứ người nào ra khỏi trại với bất cứ lý do gì.
Ra lệnh xong, quốc vương xứ Đại Tartarle cùng với hoàng đế lên ngựa, bí mật rời khỏi trại, đi về kinh thành, tới hoàng cung, vào cung điện dành cho Schahzenan. Họ đi ngủ và ngày hôm sau, sáng tinh mơ, họ tới ngồi kín đáo bên cửa sổ, nơi mà quốc vương Tartarie đã nhìn thấy cảnh bọn đa đen giở trò dâm loạn.
Họ cùng hưởng một lát không khí mát mẻ của buổi ban mai vì lúc đó mặt trời chưa lên; và vừa khẽ trao đổi chuyện trò vừa thi thoảng liếc mắt sang chiếc cửa bí mật bên kia khu vườn ngự uyển. Cuối cùng, cửa mở và chuyện xảy ra tương tự, hoàng hậu xuất hiện cùng đám thị nữ với mười tên da đen cải trang; mụ kêu tên Masoud và hoàng đế nhìn thấy tất cả những gì đã làm nên nỗi nhục nhã và sự bất hạnh của mình.
- Ôi Thượng đế! – Ông kêu lên – Nhục nhã biết chừng nào? Kinh tởm biết chừng nào! Vợ của một ông vua như ta đây sao lại có thể sa đoạ đê tiện tới mức ấy? Sau sự ô nhục này, còn có vị hoàng đế nào dám khoe khoang là mình hạnh phúc hoàn toàn nữa không? Ôi, em của ta! Ông ôm lấy quốc vương Tartarie và nói tiếp – Chúng ta hãy từ bỏ tất cả các thứ trên thế giới này, thiện tâm thiện ý đâu còn; xu nịnh đi đôi với phản trắc. Hãy từ bỏ tất cả đất đai sông núi và tất cả sự phù hoa hào nhoáng quanh ta.
Chúng ta hãy cùng đi tới những xứ sở xa lạ kéo dài một cuộc sống tối tăm và giấu biệt đi nỗi bất hạnh khổ ải của chúng ta.
Schahzenan không đồng tình với quyết định đó nhưng chàng chẳng dám đấu tranh vì thấy anh mình còn đang trong cơn nóng giận sục sôi.
- Anh của em – Chàng nói – Em cũng không có ý kiến gì khác anh đâu. Em sẵn sàng đi theo anh bất cứ nơi nào anh muốn, nhưng xin anh hãy hứa với em là chúng ta sẽ trở về nếu được gặp một người nào đó còn khổ sở hơn cả chúng ta nữa.
- Anh hứa – Hoàng đế đáp – Nhưng ta nghĩ là chúng ta sẽ chẳng tìm thấy một ai như thế cả đâu.
- Em chưa đồng tình với anh ở chỗ đó – Quốc vương Tartarie phản bác – Có thể là chúng ta chẳng phải đi lâu đâu.
Rồi họ bí mật rời hoàng cung và đi bằng con đường khác với lúc đi về. Họ đi, đi mãi chừng nào ánh sáng còn cho họ thấy rõ con đường, và đêm đầu tiên họ ngủ dưới bóng cây. Dậy từ sáng sớm, họ lại tiếp tục đi cho đến lúc tới một bãi cỏ xanh rờn bên bờ biển mà ở đó từng quãng từng quãng một có những cây to cành lá rậm rạp.
Họ ngồi dưới một trong các cây đó để nghỉ ngơi và hóng mát. Sự bội phản và thất tiết của các hoàng hậu lại là đề tài của cuộc chuyện trò tâm sự.
Chưa được bao lâu thì chợt họ nghe thấy ngay cạnh họ một tiếng động khủng khiếp về phía biển và tiếp theo đó là những tiếng kêu thất thanh làm họ run sợ. Mặt biển bỗng mở ra và dâng lên một cái cột đen khổng lồ cao chạm đến các tầng mây. Cái vật lạ này làm cho họ kinh hoảng khiếp vía, vội bật đậy, lanh lẹn leo lên cây, trèo thật cao, theo họ thì đó là chỗ ẩn nấp thích hợp nhất. Vừa mới lên vị xong, họ ngoảnh lại nơi vừa phát ra tiếng động làm cho mặt biển như mở ra đó liền thấy cái cột đen từ từ rẽ nước tiến vào bờ.
Lúc đầu họ không thể phân biệt được đó là cái gì, nhưng chẳng mấy chốc đã trông thấy rõ ràng.
Đó là một trong các hung thần tinh ma độc ác, là những kẻ tử thù của loài người. Hắn đen đủi và xấu xí, có thân hình của một người khổng lồ cao to lừng lững, đội trên đầu một cái hòm thuỷ tinh có nắp đóng lại bằng bốn chiếc khoá thép. Hắn đi vào bãi cỏ và đặt cái hòm đúng chỗ gốc cây, cái cây mà hai anh em nhà vua vừa trèo lên nấp. Hai anh em cảm thấy nguy hiểm cùng cực, tưởng là phen này thì đi đứt.
Tuy vậy hung thần chỉ từ từ ngồi xuống cạnh chiếc hòm, rút chùm chìa khoá dắt ở thắt lưng lần lượt mở hòm ra bằng bốn chiếc chìa. Ngay tức thì từ trong hòm bước ra một người đàn bà y phục lộng lẫy, thân hình thanh tú, đẹp tuyệt trần. Lão hung thần đặt nàng ngồi bên cạnh, say sưa ngắm người đẹp và nói.
- Phu nhân của ta, một người đẹp hơn tất cả những người đẹp được mọi người chiêm ngưỡng ơi! Con người duyên dáng mà ta đã cướp đi giữa ngày hôn lễ, người mà ta luôn mãi yêu thương, nàng hãy cho ta ngủ một lát bên nàng; chính vì ta rất buồn ngủ nên đã tới đây để nghỉ ngơi một chút.
Nói xong, hắn ngả cái đầu nặng nề của hắn lên đùi của nàng thiếu phụ. Rồi, duỗi thẳng đôi chân chạm tới mép biển, hắn ngủ tức thì. Tiếng ngáy của hắn vang dội cả một vùng biển.
Người thiếu phụ tình cờ ngước mắt nhìn lên, trông thấy hai nhà vua tít trên gần ngọn cây, liền dùng tay ra hiệu bảo hai người xuống và đừng gây tiếng động. Hai chàng vô cùng sợ hãi khi thấy mình bị lộ.
Cũng bằng dấu hiệu tay, họ xin miễn cho việc phải trèo xuống.
Nhưng mà nàng, sau khi nhẹ nhàng nâng đầu lão hung thần trên đùi mình xuống đất, đứng lên khẽ bảo họ giọng sôi nổi:
- Xuống đi nào1 Nhất thiết các chàng phải xuống đây với em.
Hai anh em gắng sức làm cho nàng ta hiểu, cũng bằng những cử chỉ, là rất sợ lão hung thần.
- Nào thôi xuống đi? – Cũng vẫn bằng giọng khẽ khàng và sôi nổi, nàng nói như ra lệnh – Nếu các chàng không nghe lời em ngay, em sẽ đánh thức hắn đậy và tự em sẽ bảo hắn giết các chàng.
Câu nói làm cho hai nhà vua sợ hãi, vội vàng nhưng rất thận trọng tụt xuống để khỏi làm lão hung thần thức giấc. Khi họ đã ở trên mặt đất, thiếu phụ nắm lấy tay hai người kéo đi và khi đã xa xa một chút, dưới hàng cây, nàng ta trơ trẽn bắt họ phải lần lượt chiều mình. Mới đầu hai người khước từ nhưng bị bắt buộc và đe doạ đủ điều nên đành phải làm theo.
Sau khi đã được thoả mãn theo ý muốn, nhìn thấy các chàng đều có một chiếc nhẫn ở ngón tay, nàng ta đòi lấy. Khi đã nắm hai chiếc nhẫn trong tay, nàng ta lấy ra một cái hộp trong túi đựng đồ trang sức, kéo ra một sợi dây buộc những chiếc nhẫn khác đủ các loại, các kiểu, chỉ cho hai người và hỏi:
- Các chàng có biết các nhẫn này có ý nghĩa gì không?
- Không – Họ đáp – Nhưng chắc là nàng sẽ cho chúng tôi biết chứ.
- Đó là những chiếc nhẫn của tất cả những người đàn ông đã cùng em ân ái – Nàng thản nhiên nói – Đã có chín mươi tám chiếc đã đếm kỹ mà em giữ làm kỷ niệm. Em đòi nhẫn của hai chàng cũng là với ý ấy và để cho tròn một trăm.
Như vậy – Nàng nói tiếp – Tính tới hôm nay là em đã có tròn một trăm tình nhân, dù có sự canh giữ ráo riết và sự đề phòng cẩn mật của cái lão hung thần xấu như ma kia lúc nào cũng giam riết lấy em trong cái hòm thuỷ tinh khoá kín, nhưng dù có cất giấu em dưới đáy biển, em vẫn thoát được ra ngoài sự kiểm soát của lão.
Các chàng hẳn thấy rõ là khi một người đàn bà đã có một ý định gì thì không một người chồng nào, một tình nhân nào có thể ngăn cản được. Tất hơn là người đàn ông chẳng nên ép buộc và cưỡng bách đàn bà, có thế thì người đàn bà mới có thể trở nên người tiết hạnh.
Nói đoạn, người thiếu phụ xâu hai chiếc nhẫn vào cùng một dây với những chiếc nhẫn khác. Rồi nàng ngồi vào chỗ cũ, nhẹ nhàng nâng đầu lão hung thần vẫn ngủ say lên đùi mình, rồi ra hiệu cho hai chàng đi.
Hai nhà vua trở lại con đường đã đi tới và khi khuất tầm nhìn của người thiếu phụ và lão hung thần, Schahriar bảo Schahzenan:
- Này em? Em nghĩ gì về chuyện vừa xảy ra với chúng ta? Phải chăng lão hung thần đã có một cô tình nhân thật là chung thuỷ? Và em có công nhận với anh là không gì có thể sánh được với sự tinh ma quỉ quái của đàn bà?
- Thưa anh, đúng như vậy – Quốc vương xứ Đại Tartarie đáp – Và chắc anh cũng phải nhất trí với em là lão hung thần thật đáng được phàn nàn vì còn bất hạnh hơn cả chúng ta. Vậy là chúng ta đã thấy điều đang muốn tìm kiếm.
Hãy trở về thôi anh ạ và chuyện này cũng chẳng có gì ngăn cản chúng ta trong hôn phối. Với em, em đã biết cách giữ trọn niềm tin của mình như thế nào. Lúc này, em chưa muốn nói ra đây nhưng rồi anh sẽ biết tin và chắc chắn là anh cũng sẽ làm theo như em.
Hoàng đế tỏ vẻ đồng tình và tiếp tục cùng em rảo bước. Họ về tới nơi hạ trại vào cuối đêm thứ ba kể từ ngày đi.
Tin hoàng đế trở về được loan báo, các đại thần tề tựu từ sáng sớm trước hành cung. Nhà vua với họ vào, vui vẻ tiếp đón họ khác hẳn ngày thường và tặng thưởng cho tất cả mọi người.
Sau đó nhà vua tuyên bố chẳng muốn đi xa hơn nữa, lệnh cho họ lên ngựa, và chẳng mấy chốc về tới hoàng cung.
Vừa đặt chân xuống đất, hoàng đế lập tức đến hậu cung bắt trói ngay hoàng hậu, trao cho tể tướng đem đi xứ giáo. Viên đại thần nầy lập tức thi hành cũng chẳng hỏi xem bà ta đã phạm tội gì.
Vị hoàng đế đang cơn giận dữ không chỉ bằng lòng có thế, ông tự tay mình chặt đầu tất cả những thị nữ của hoàng hậu. Sau sự trừng phạt nghiêm khắc đó, đinh ninh là trên đời này chẳng có một người đàn bà nào tiết hạnh, nhà vua quyết định mỗi tối lấy một vợ, ngủ với người đó và sáng ra thì đem đi thắt cổ để tránh cho người đàn bà này khỏi có hành động phản bội, thất tiết với mình. Đặt ra cái luật ác độc nghiệt ngã đó rồi, hoàng đế thề là sẽ thi hành ngay sau khi quốc vương Tartarie lên đường về nước.
Chẳng bao lâu vua em cũng từ biệt anh lên đường mang theo nhiều tặng vật quí hiếm và sang trọng. Schahzenan đi rồi, Schahrlar tức thì lệnh cho tể tướng đưa đến cho mình cô con gái của một trong các võ tướng của triều đình. Tể tướng tuân lệnh. Hoàng đế ngủ với cô gái đó và sáng hôm sau trao lại cho tể tướng mang đi xử tử, đồng thời truyền cho kiếm một cô gái, con một vị đại thần khác cho tối tiếp theo. Dù bất bình và khổ tâm đến đâu khi phải thi hành những mệnh lệnh như thế, tể tướng vẫn phải nhắm mắt phục tùng.
Ông đưa tới cho hoàng đế con gái của một võ quan cấp dưới mà hôm sau người ta lại đưa đi hành quyết.
Sau cô gái này đến lượt con gái của một nhà giàu trong kinh thành và cứ như vậy mỗi ngày có một trinh nữ lấy chồng và một người vợ đi sang thế giới bên kia.
Tiếng đồn của hành động tàn bạo chưa từng có đó đã gây nên một sự kinh hoàng khắp chốn kinh thành. Vang lên khắp nơi tiếng kêu la, than khóc: nơi này là một người cha chan hoà nước mắt trong tuyệt vọng vì mất đứa con gái yêu; chỗ kia là những bà mẹ hiền lành, rên rỉ thảm thiết sợ con gái mình rồi cũng sẽ rơi vào số phận bi thương như thế. Vì vậy, thay vào những lời ngợi ca và chúc phúc mà vị hoàng đế thường nhận được từ trước đến nay là những tiếng trách oán của muôn dân.
Vị tể tướng mà chúng ta đã biết, ngoài ý muốn của mình đã phải thi hành một lệnh bất công khủng khiếp.Ông này cũng có hai cô con gái: cô chị là Scheherazade và cô em là Dinarzade.
Tài sắc cô em cũng chẳng thua kém gì chị, nhưng lòng can đảm của cô chị thì vượt hơn hẳn mọi người và trí thông minh thì vô cùng sắc sảo. Nàng đọc sách rất nhiều và có một trí nhớ lạ kỳ.
Tất cả những gì đã đọc đều ghi sâu trong óc. Nàng đặc biệt có năng khiếu về các lĩnh vực triết học, y học, sử học và mỹ thuật. Nàng làm thơ có hồn hơn cả các nhà thơ nổi tiếng đương thời. Ngoài ra, nàng còn có một sắc đẹp lộng lẫy và một đức hạnh kiên trinh bao trùm lên tất cả những tài hoa đó.
Tể tướng yêu thương rất mực người con gái thực xứng đáng với tình cảm cao đẹp của mình. Một hôm, trong cuộc chuyện trò của hai cha con, nàng nói:
- Cha ơi, con có một điều muốn cầu xin. Con thiết tha mong được cha cho phép.
- Cha chẳng bao giờ từ chối con điều gì – Ông nói – miễn là điều con cầu xin phải chính đáng và hợp lẽ phải.
- Là chính đáng – Scheherazađe thưa – thưa cha, không có gì chính đáng hơn. Cha có thể xét nguyên cớ nó bắt con phải cầu xin cha. Ý đồ của con là muốn ngăn chặn hành vi man rợ của hoàng đế đối với các gia đình trong kinh thành này. Con muốn làm tiêu tan nỗi lo chính đáng mà bao bà mẹ đang chịu đựng là mất con gái mình một cách bi thảm.
- Con gái ơi, ý định của con thật vô cùng đáng khen – Tể tướng nói – Nhưng tai hoạ mà con muốn hoá giải thì cha thấy có thể là vô phương con ạ. Con định liệu thế nào để có thể làm được đến nơi đến chốn?
- Cha ạ – Scheherazade nói – Vì qua sự sắp đặt của cha mà hoàng đế mỗi ngày lại làm một cuộc hôn nhân mới, con xin cha, với tấm lòng yêu thương con gái, cha hãy tạo cho con cái vinh hạnh được hầu hạ đức vua…
Vị tể tướng không sao ngăn được sự kinh hãi khi nghe những lời trên đây của con gái.
- Ôi Chúa ơi? – Ông giận dữ ngắt lời con – Con điên rồi hay sao đấy? Sao con lại có thể cầu xin ta một điều dại dột nguy hiểm như vậy? Chắc con cũng biết là nhà vua đã thề độc là chỉ ân ái một đêm với chỉ một người đàn bà rồi sẽ giết đi ngay ngày hôm sau, thế mà con còn xin cha cho được làm vợ Người ư? Con có nghĩ là sự nông nổi bộp chộp sẽ đưa mình đến đâu không?
- Có, thưa cha – Cô gái đức hạnh đáp – Con biết tất cả sự hiểm nguy mà con dấn thân vào, nhưng con chẳng sợ. Nếu con chết đó là cái chết vinh quang và nếu thành công thì con đã phục vụ cho đất nước một công tích quan trọng.
- Không – Tể tướng nói -: Dù con có cố sức trình bầy để ta mềm lòng cho phép con dấn thân vào vòng hiểm nguy ghê gớm này, đừng tưởng rằng ta bằng lòng đâu nhé. Khi hoàng đế ra lệnh cho ta phải cắm mũi dao nhọn sắc vào tim con, than ôi! Nhất định ta phải tuân theo rồi: đau đớn sao cái công việc của một người cha! Ôi! Nếu con không chút nào sợ cái chết, thì ít nhất cũng tránh cho cha nỗi đau xé ruột khi thấy bàn tay mình nhuốm máu con gái yêu thương của chính mình.
- Một lần nữa, thưa cha – Scheherazade nói – xin người hãy gia ân đáp ứng lời cầu xin của con.
Cuối cùng, người cha trước sự kiên quyết của con gái, đành phải nhượng bộ trước những lời khẩn cầu tha thiết của cô. Và hết sức não lòng vì không làm được cho con gái từ bỏ một quyết định khốc hại, ông tới bệ kiến Schahriar và tâu cho nhà vua biết đêm sau ông sẽ đưa tới cho Người nàng Scheherazade, con gái ông:
Hoàng đế vô cùng ngạc nhiên về sự hy sinh của vị đại thần thân cận của mình. Ông bảo:
- Làm sao mà nhà ngươi lại có thể quyết định đưa chính con gái ngươi đến cho ta?
- Tâu bệ hạ – tể tướng đáp – Chính con gái thần đã tự nguyện. Số phận bi thảm chờ nó cũng chẳng làm cho nó sợ hãi, mà chỉ muốn trong đời vinh dự được có một đêm làm vợ đấng Chí tôn.
- Nhưng, Tể tướng, mong nhà ngươi cũng chớ có nhầm tâm – Hoàng đế nói – là sáng mai, lúc trao trả Scheherazade vào trong tay nhà ngươi, ta muốn là ngươi phải giết nàng. Nếu làm sai, ta thề là sẽ tự tay ta xử tử nhà ngươi.
- Tâu bệ hạ – Tể tướng lại nói – Lòng thần chắc chắn là xót đau vô hạn khi phảl tuân lệnh vua. Mặc dù vậy tấm lòng trung thành này với Người vẫn không hề bị chuyển lay.
Schahriar nhận sự dâng hiến của tể tướng và bảo ông cứ đưa con gái tới khi nào cũng được.
Vị quan đại thần này đưa tin về cho Scheherazađe. Nàng vui mừng đón nhận như một điều hạnh phúc nhất đời Nàng cảm ơn cha đã hết lòng ưu ái đối với nàng và khi thấy cha ảo não khổ đau, nàng nói để an ủi cha là ông sẽ không phải hối tiếc là đã gả nàng cho hoàng đế, ngược lại ông có thể lấy đó làm niềm vui hưởng thụ cho đến hết đời.
Nàng chỉ còn nghĩ đến việc phải sửa soạn thật chu đáo để ra mắt đấng quân vương. Nhưng trước khi rời nhà để vào hoàng cung, nàng gọi riêng Dinarzađe ra và nói với em:
- Em thân yêu của chị, chị cần sự giúp đỡ của em trong một vụ việc vô cùng quan trọng, chị xin em chớ có chối từ. Cha chúng ta sắp đưa chị vào hoàng cung để làm vợ nhà vua. Mong là tin này không làm em khiếp sợ.
Hãy lắng nghe chị nói nhé. Khi chị đã vào trong cung, trước mặt hoàng đế chị sẽ xin Người cho em cũng được vào cung và ở cùng phòng để chị em mình được cùng nhau sum họp một đêm cuối cùng. Nếu được sự ân sủng như chị mong muốn đó thì em nhớ là sẽ đánh thức chị dậy vào lúc chỉ độ còn một tiếng đồng hồ nữa là trời sáng và nói với chị như thế này: “Chị của em ơi, nếu chị không ngủ nữa thì em xin chị, trong lúc chờ mặt trời lên chắc cũng chẳng còn bao lâu nữa, chị hãy kể cho em nghe một trong những câu chuyện thật hay mà chị biết”. Thế rồi chị sẽ kể cho em nghe một chuyện.
Và chị tin rằng bằng cách này chị sẽ giải thoát cho toàn dân tình trạng kinh hoàng như hiện nay. Dinarzade trả lời chị là nàng sẽ vui lòng làm tất cả những gì mà chị nàng yêu cầu.
Cuối cùng giờ ngủ đã tới. Ngài tể tướng đưa Scheherazade vào hoàng cung và rút lui ngay sau khi đã dẫn nàng tới tẩm phòng. Lúc nhà vua thấy chỉ còn mình với nàng, liền bảo nàng bỏ mạng che mặt.
Nhà vua sững sờ say đắm thấy nàng quả là chim sa cá lặn, nhưng thấy nàng đầm đìa nước mắt bèn hỏi nguyên nhân.
- Tâu bệ hạ Scheherazade thưa- Thần thiếp có một em gái mà thiếp vô cùng yêu quí và cũng được em thiếp yêu quí như vậy. Thiếp mong ước là em thiếp cũng được qua đêm nay trong phòng ngự này để chị em được trông thấy nhau và để thiếp được nói với em một lần nữa lời vĩnh biệt. Bệ hạ có đồng ý cho thiếp có niềm an ủi bằng việc thể hiện với em lần cuối cùng tình chị em thân thiết đó không?
Schahriar chấp thuận và cho đi tìm Dinarzade. Cô em mau chóng tới ngay. Hoàng đế cùng với Scheherazade nằm ngủ trên một cái bệ rất cao theo cung cách của các vua chúa phương đông.
Còn Dlnarzade thì nằm trên một chiếc giường được đặt dưới thấp kê ngay bên bệ.
Một tiếng đồng hồ trước khi trời sáng, Dinarzade thức giấc, không quên điều chị nàng căn dặn:
- Chị thân yêu của em – Nàng khẽ kêu – Nếu chị không còn ngủ nữa thì em xin chị, trong lúc chờ mặt trời chẳng mấy chốc nữa sẽ nhô lên, hãy kể cho em nghe một trong những chuyện thật hay mà chị biết.
Than ôi? Có thể đây sẽ là lần cuối cùng mà em có được niềm vui sướng đó.
Scheherazade đáng lẽ trả lời em thì lại nói với hoàng đế:
- Tâu bệ hạ, đấng chí tôn có vui lòng cho phép thần thiếp được thoả mãn lời yêu cầu của em thiếp chăng?
- Ta vui lòng – hoàng đế đáp.
Thế rồi Scheherazađe bảo với em gái hãy lắng nghe và quay lại với Schahriar, nàng bắt đầu câu chuyện như sau.
Chương 2: Ông lão đánh cá
Tâu bệ hạ, ngày xưa có một ông lão đánh cá già nua, nghèo khổ đến nỗi không sao có thể nuôi sống được gia đình gồm một vợ và ba con nhỏ. Hàng ngày lão ra đi từ sáng sớm để đánh cá và tự đặt ra cái lệ là mỗi ngày chỉ quăng lưới bốn lần thôi.
Một sáng còn rất sớm, trăng chưa lặn, lão đã ra tới bờ biển. Lão cởi áo ngoài và quăng lưới lần thứ nhất. Khi kéo lưới vào bờ, lão cảm thấy nặng tay. Chắc là có cá to đây, lão đã thầm phấn khởi, nhưng lát sau, tưởng lưới đầy cá, ngờ đâu đó chỉ là bộ xương của một con lừa. Lão vô cùng buồn bã…
Tới đoạn này, Scheherazade ngừng lời vì nàng thấy trời đã rạng sáng.
- Chị của em – Dinarzade nói – em phải thú thực là đoạn đầu câu chuyện này làm em thật thích thú, em chắc là đoạn tiếp theo sẽ rất hay.
- Không gì đặc sắc hơn là chuyện ông lão đánh cá – hoàng hậu nói – Em sẽ thấy vào đêm sau, nếu hoàng đế gia ân để chị còn sống.
Vua Schahriar, tò mò muốn biết lão đánh cá đã kéo lưới được gì những lần sau nên chưa muốn hành quyết Scheherazade hôm đó. Vì thế ông đứng lên và chưa phát ra cái lệnh ác độc đó.
- Chị thân yêu – Ngày hôm sau, vào giờ thường lệ, Dinarzade bảo chị – Trời đã sắp sáng, xin chị kể nốt cho em nghe chuyện ông lão đánh cá? Em muốn nghe quá đi mất.
- Chị sẽ chiều em, em ạ – Hoàng hậu đáp.
Và đồng thời nàng xin hoàng đế cho phép. Được nhà vua gật đầu rồi, nàng kể tiếp chuyện lão đánh cá như sau:
- Tâu bệ hạ, buồn bã vì mẻ lưới hẩm hiu, sau khi vá lại những chỗ bị cái bộ xương lừa kia làm rách, lão quăng lưới lần thứ hai. Lúc kéo lên lão lại thấy khá nặng, tưởng như đầy một lưới cá nhưng buồn thay, đó chỉ là một cái thúng to chứa đầy bùn đất và sỏi đá. Lão buồn nản vô cùng.
Lão kêu lên thảm thiết:
- Ôi đấng thần tài? Hãy bớt nổi giận với ta và cho nên hành hạ một kẻ khốn khổ đã cầu xin Người khoang dung! Ta từ nhà đến đây kiếm sống mà Người lại muốn ta phải chết. Ta chẳng còn nghề nào khác ngoài nghề chài lưới để tồn tại và mặc dù đã hết lòng gắng công gắng sức ta cũng chẳng làm sao mà đáp ứng được những nhu cầu khẩn thiết của vợ con.
Nhưng trách oán Người có thể ta đã sai lầm. Vì cái thói được hành hạ những người lương thiện và dìm họ vào trong bóng tối dày đặc là ý thích của Người. Mặt khác Người dung túng cho bao kẻ ác và đề cao những kẻ mà đức hạnh chẳng có gì đáng tin cậy.
Than vãn xong, lão quẳng mạnh cái thúng đi, rửa sạch bùn đất bám vào lưới và quăng nó xuống nước lần thứ ba. Nhưng lão cũng chỉ kéo lên được nào là gạch đá, vỏ trai ốc, nào là rác rưởi.
Không sao nói lên được niềm thất vọng của lão, chỉ chút nữa là lão có thể phát điên lên.
Tuy nhiên, vì mặt trời cũng vừa ló rạng, lão không quên quỳ xuống cầu nguyện như một tín đồ ngoan đạo của Hồi giáo. Lão khấn nguyện thêm thế này:
- Hỡi Thượng đế, Người đã biết rằng con chỉ quăng lưới bốn lần mỗi ngày. Con đã quăng ba lần rồi nhưng chẳng mang lại kết quả gì. Chỉ còn một lần cuối cùng, con xin được Thượng đế phù hộ trợ giúp cũng như Người đã trợ giúp Moise(l) vậy.
Khấn cầu như vậy xong, lão đánh cá quăng lưới lần thứ tư. Khi đoán là đã có cá vào lão kéo lên và cũng như các lần trước thấy khá nặng tay. Chẳng có con cá nào nhưng lão thấy một chiếc bình bằng đồng thau chắc là chứa cái gì đó nên nó rất nặng. Lão nhận thấy nút chiếc bình được niêm phong bằng chì có mang dấu ấn.
Cái đó làm lão thấy vui vui, thầm nhủ:
- Ta sẽ đem bán cho thợ đúc và tiền bán được ta sẽ mua một đấu lúa mì. Lão ngắm nghía chiếc bình, lắc lắc để nghe xem có tiếng gì của vật chứa bên trong không. Chẳng nghe thấy gì cả và trong trường hợp này, với dấu ấn trên chiếc nắp bằng chì lão nghĩ là chiếc bình này tất là phải chứa đầy vật quí.
Để cho mọi việc rõ ràng, lão cầm lấy con dao và chẳng khó khăn gì, lão mở được nắp bình. Lão nghiên miệng bình xuống mặt đất, nhưng chẳng thẩy có gì lăn ra, điều này làm cho lão hết sức ngạc nhiên. Lão đặt cái bình trước mặt và trong lúc chăm chú ngắm nhìn thì từ miệng bình, một làn khói đầy đặc phụt lên khiến lão phải lùi ra sau hai ba bước.
Làn khói này vươn cao chạm tới mây và lan toả ra trên mặt biển và bờ biển làm thành một đám lớn sương mù. Ta có thể tưởng tượng được cảnh tượng này đã làm cho lão đánh cá vô cùng sửng sốt.
Khi tất cả làn khói đã thoát ra khỏi chiếc bình, nó tụ lại thành một khối hiện hình thành một hung thần to cao gấp đôi tất cả mọi người khổng lồ. Thấy hiện ra trước mắt mình một quái vật to lớn khủng khiếp lão đánh cá muốn sải chân chạy nhưng vì quá kinh hoàng, lão không thể nhích chân được một bước.
- Salomon – Hung thần kêu lên – Salomon, đại tiên tri của Thượng đế. Xin tha lỗi, xin tha lỗi. Chẳng bao giờ ta làm trái ý Người. Ta sẽ tuân theo tất cả mệnh lệnh của Người…
Scheherazade thấy ngày đã rạng bèn bỏ dở câu chuyện.
Thế là Dinarzade nói:
- Chị của em! Quả là chị chẳng sai lời. Câu chuyện này chắc hẳn là kỳ lạ hơn tất cả những câu chuyện khác.
- Em ạ – Hoàng hậu đáp – Em sẽ được nghe những chuyện làm cho em còn hào hứng hơn nữa nếu hoàng đế, chúa của chị cho phép kể em nghe.
Vua Schahriar rất muốn nghe nốt đoạn cuối chuyện ông lão đánh cá câu chuyện đã làm ông thích thú. Vì vậy ông lại cho lùi cái chết của hoàng hậu đến ngày hôm sau nữa.
Dinarzade, đêm hôm sau, đến giờ, lại gọi chị:
- Chị của em, nếu chị không ngủ thì xin chị hãy kể nốt cho em nghe chuyện lão đánh cá trong lúc chờ trời sáng.
Hoàng đế, về phía mình, cũng nóng lòng muốn biết có gì xảy ra giữa Salomon với tên hung thần này. Vì vậy Scheherazade tiếp tục câu chuyện về lão đánh cá.
- Tâu bệ hạ, lão đánh cá vừa nghe thấy những lời tên hung thần thốt ra đã thấy đôi chút yên tâm. Lão hỏi: “Này, vị thần cao ngạo kia! Ngài nói gì vậy? Salomon, tiên tri của Thượng đế đã không còn tới nay là một ngàn tám trăm năm và chúng ta đang ở vào hồi tận cùng các thế kỷ. Hãy cho ta biết câu chuyện của Ngài vì sao lại bị nhốt trong cái bình này”:
Nghe lão đánh cá hỏi vậy, hung thần nhìn lão đầy vẻ kiêu căng, đáp: “Hãy ăn nói với ta cho có lễ độ. Mi dám cả gan gọi ta là vị thần cao ngạo ư?”.
Lão đánh cá cãi lại:
- Vậy thì để ăn nói với ngài cho có lễ độ, phải chăng tôi phải gọi ngài là con cú may mắn?
- Ta đã bảo mi – Hung thần gắt – Phải nói năng cho có lễ độ trước khi ta giết mi.
- Này, tại sao ngài lạỉ muốn giết tôi – Lão đánh cá vặn lại – Phải nhớ là tôi vừa cứu sống ngài.
- Không ta không quên – Hung thần nói – Nhưng cái đó không ngăn ta giết mi và ta chỉ chiếu cố cho mi một điều duy nhất.
Đó là điều gì vậy? – Lão đánh cá hỏi.
- Là mi chọn cái chết như thế nào ta sẽ chiều mi cho chết như thế – Hung thần đáp.
- Nhưng tôi đã làm gì ngài nào? Có phải đó là cách ngài trả ơn người đã làm điều tốt cho ngài chăng?
- Ta không thể làm khác được – Hung thần nói – và để cho mi tin, hãy lắng nghe câu chuyện của ta:
“Ta là một trong các thần linh đối kháng lại ý chí của Thượng đế. Tất cả các vị thần khác đều công nhận Salomon vĩ đại đấng tiên tri của Thượng đế và phục tùng Người. Duy nhất chỉ có Sacar và ta không muốn làm cái trò hèn hạ đó. Để trả hận, vị đế vương hùng mạnh này lệnh cho Assaf, con trai Barakhia, tể tướng đầu triều của ông đến bắt ta và điều ta đến trước ngai vàng, trước chúa tể của hắn. Salomon, con trai David, bắt ta rời bỏ cách sống riêng, công nhận uy quyền và chịu sự chỉ huy của ông ta.
Ta hiên ngang không chịu, thà phải hứng tất cả sự thù ghét giận dữ còn hơn là phải thề thốt tuyệt đối trung thành và phục tùng vô điều kiện mà ông ta bắt buộc. Để trừng trị ta, ông ấy đã nhốt ta vào trong chiếc bình bằng đồng này. Và để chắc chắn là ta không thể phá vỡ để thoát ra, ông đã tự mình đóng niêm trên nắp chì dấu ấn khắc rõ đại danh Thượng đế. Xong, ông trao cho một vị thần được tin cậy với lệnh là ném ta xuống biển. Việc đó đã được thi hành với sự vô cùng nuối tiếc của ta.
Suốt trong thế kỷ đầu trong chiếc bình tù ngục, ta đã nguyền nếu có ai đó giải thoát được ta, ta sẽ làm cho kẻ đó giàu có suốt đời, giàu có cả đến sau khi chết.
Nhưng thế kỷ đầu trôi qua, chẳng có ai giúp ta cả. Sang thế kỷ thứ hai, ta thề là sẽ mở tất cả các kho của cải trên trái đất tặng cho người nào đem tự do đến cho ta, nhưng chẳng có may mắn gì hơn thế kỷ trước. Sang đến thế kỷ thứ ba, ta hứa là sẽ làm cho người nào giải thoát ta trở thành một đế vương hùng mạnh và luôn luôn ở bên cạnh, ta ban cho người đó mỗi ngày ba điều ước để có bất cứ cái gì. Nhưng thế kỷ này lại trôi qua như hai thế kỷ trước và ta thì vẫn cứ nguyên như thế.
Cuối cùng ta hết sức hoang mang thất vọng hay đúng ra là phát điên lên vì bị tù hãm quá lâu, ta thề là sau này có kẻ nào giải thoát ta thì ta sẽ giết không thương tiếc và chẳng ban cho một ân huệ nào ngoài việc được chọn loại chết mà ta sẽ dành cho hắn. Vì vậy, ngày hôm nay mi đã tới đây, mi đã giải thoát cho ta, bây giờ mi hãy chọn theo ý thích cách mà ta sẽ giết mi”
Lão đánh cá vô cùng buồn bã:
- Khốn khổ cho cái thân ta? – Lão kêu lên – Đến cái chỗ này làm gì để làm ơn cho một tên vô ơn bạc nghĩa? Hãy xem xét lại sự bất công của nhà ngươi đi và hãy huỷ bỏ đi cái lời thề phi lý đó? Tha thứ cho ta thì Thượng đế cũng sẽ tha thứ cho nhà ngươi; rộng lượng cho ta được sống, thì Người sẽ che chở cho nhà ngươi khỏi mọi mưu mô ám hại cuộc sống của nhà ngươi.
- Không, nhất định mi phải chết – Hung thần nói – Mi chỉ còn được chọn ta sẽ giết mi cách nào mà thôi.
Lão đánh cá nhận thấy là tên hung thần kiên quyết lấy đi mạng sống của mình, nên đau lòng vô hạn không phải vì mình mà vì ba đứa trẻ sẽ không khỏi sa vào cảnh đói khổ khi lão bị hung thần giết hại.
- Than ôi? – Lão tiếp tục – Phải rủ lòng thương ta mới phải chứ, hãy xem lại những gì ta đã làm cho nhà ngươi.
- Ta đã nói rồi – Hung thần lại bảo – Chính vì thế mà ta buộc phải lấy mạng sống của mi.
- Thật cũng khác đời đấy – Lão đánh cá phản bác – Nhà ngươi lại cứ nhất định muốn lấy oán để trả ân. Tục ngữ có câu: Làm ơn cho những kẻ không xứng đáng được hưởng thì bao giờ cũng được đền đáp lại bằng sự bạc bẽo vô ơn.
Thú thực ta đã tưởng thế là sai: quả thật điều đó ngược với lẽ phải và lệ luật của xã hội. Thế mà lúc này ta đau xót thấy cái đó thật hoàn toàn chính xác.
- Chớ để mất thời gian nữa – Hung thần cắt ngang – Tất cả những lý lẽ của mi cũng chẳng làm ta đổi ý. Hãy mau nói mi muốn ta giết mi như thế nào.
Cái khó làm ló cái khôn, lão đánh cá nghĩ ra một mẹo:
Vì nhà ngươi nhất định muốn giết ta – Lão bảo hung thần – Ta đành thuận theo ý Thượng đế. Nhưng trước lúc ta chọn một cái chết như thế nào, ta xin ngươi, vì uy danh của Thượng đế đã được khắc trên dấu ấn của đấng tiên tri Salomon, con trai David, hãy nối rõ sự thật về một vấn đề ta hỏi ngươi đây.
Khi nghe thấy lời cầu khẩn nhân danh Thượng đế hung thần buộc lòng không thể khước từ, hắn thấy thầm run sợ, bảo lão đánh cá:
- Nào mi muốn gì hãy nói đi, mau lên?
Trời vừa rạng sáng, Scheherazade ngừng lại ở đoạn này.
- Chị của em – Dinarzađe nói – Phải công nhận là chuyện chị kể càng lúc càng hay, nghe rất thích. Em mong rằng hoàng đế, chúa tể của chúng ta, không bắt chị phải chết trước khi Người được nghe nốt câu chuyện rất hay về lão đánh cá.
- Hoàng đế là chúa tể – Scheherazade tiếp lời em – Tất cả điều gì Người thích đều phải được như nguyện.
Vua Schahrlar cũng muốn được nghe đoạn cuối của câu chuyện như Dinarzade nên đã lui lại ngày hành quyết hoàng hậu.
Schahrlar cùng với hoàng hậu qua đêm cùng nhau cũng như các đêm trước, và trước khi trời sáng, Dinarzade đánh thức họ dậy bằng câu nói sau đây với Scheherazade:
- Chị ơi, chị kể tiếp chuyện lão đánh cá!
- Rất vui lòng – Scheherazade đáp – chị sẽ làm em được thoả mãn, với sự chuẩn y của Hoàng đế.
- Hung thần – Nàng nói tiếp – sau khi hứa là sẽ nói rõ sự thật, thì lão đánh cá bảo hắn:
- Ta muốn biết có thực là nhà ngươi đã nằm trong chiếc bình kia không? Nhà ngươi có dám nhân đại danh của Thượng đế mà thề không?
Dám chứ – Hung thần đáp – Ta nhân đại đanh của Người thề rằng ta đã ở trong chiếc bình và đó hoàn toàn 1à sự thật.
- Thật lòng mà nói – Lão đánh cá bảo – Ta không sao mà tin được. Cái bình này chưa chắc đã chứa nổi một bàn chân ngươi còn nói chi đến việc tất cả con người nhà ngươi nằm được trong đó?
- Thế mà ta thề với mi – Hung thần tức mình bảo – là ta đã ở gọn trong đó như mi đã thấy đấy. Sau lời thề thật là trịnh trọng đó mà mi vẫn chưa tin ta ư?
- Chưa tin được, thật vậy đó – Lão đánh cá nói – Ta chưa thể tin nhà ngươi chừng nào ta chưa được tận mắt nhìn thấy.
Thế là cả cơ thể hung thần bỗng tan ra thành khói, lan toả ra khắp mặt biển và trên bờ, rồi tụ lại, bắt đầu chui vào bình, cứ thế đều đều chầm chậm cho đến lúc chẳng còn gì ở bên ngoài cả.
Rồi ngay lúc đó một tiếng nói từ trong bình thoát ra bảo lão đánh cá:
Thế nào, lão đánh cá đa nghi kia, ta đang ở trong bình rồi đấy. Bây giờ mi đã tin ta chưa?
Lão đánh cá đáng lẽ trả lời hung thần thì lại cầm lấy cái nắp bằng chì đậy nhanh lên miệng chiếc bình và kêu to:
Hỡi hung thần? Đ ê ế n lượt ngươi cầu xin ta làm phúc. Ngươi hãy chọn xem ta xử tử ngươi cách nào đây. Nhưng không, t ô ố t hơn cả là ta 1ại ném ngươi xuống biển đúng ở cái chỗ mà ta đã vớt ngươi lên.
Rồi ta sẽ dựng một cái chòi trên bờ này để ở và để báo cho tất cả những người đánh cá đến thả lưới ở đây là cần phải chú ý đề phòng kẻo lại vớt lên một tên hung thần như ngươi, kẻ đã thề là sẽ giết người nào giải phóng cho hắn.
Nghe những lời nói xúc phạm ấy, hung thần nổi giận vùng vẫy hết sức để mong thoát ra khỏi chiếc bình nhưng không thể được vì dấu ấn của đấng tiên tri Salomon, con trai của David đã ngăn cản y lại.
Thế là, thấy lão đánh cá đang có lợi thế hơn mình, hung thần đành phải nén cơn giận mà đấu dịu:
- Này, lão đánh cá – Bằng giọng dịu ngọt y nói – chớ có vội làm như điều lão vừa nói đó – Chẳng qua là ta đùa lão một chút thôi mà, lão chớ vội cho đó là điều nghiêm chỉnh nhé.
- Hỡi hung thần – Lão đánh cá đáp – Chỉ mới lúc nãy thôi, ngươi to lớn biết bao và lúc này ngươi lại là bé nhất trong tất cả các thần linh, phải biết rằng những lời lẽ dối trá chẳng giúp gì được cho ngươi đâu.
Ngươi sẽ được trả về cho biển cả. Nếu ngươi đã ở được dưới đó từng ấy thời gian mà ngươi đã kể với ta thì ngươi cũng có thể ở dưới đó cho đến ngày phán xét cuối cùng. Ta cầu xin ngươi nhân danh Thượng đế để cho ta được sống, ngươi đã chẳng đếm xỉa gì tới những lời cầu khẩn của ta. Ta phải đối xử với ngươi cũng như vậy.
Hung thần không còn tiếc gì nữa để cố gắng làm cho lão đánh cá động lòng:
- Hãy mở nắp bình ra đi – Y nói với lão – Hãy giải phóng cho ta, ta cầu xin mi. Ta hứa là mi sẽ được thoả mãn mọi bề.
- Ngươi chỉ là một tên phản trắc- Lão đánh cá bảo- Ta sẽ phải mất mạng nếu ta còn dại dột đặt lòng tin vào ngươi. Rồi ngươi sẽ chẳng ngần ngại gì mà đối xử với ta chẳng khác gì cung cách mà một ông vua Hi Lạp nào đó đối xử với thầy thuốc Douban. Đó là câu chuyện mà ta muốn kể cho ngươi nghe đó.
Chương 3: Nhà vua Hi Lạp và thầy thuốc
Ngày xưa ở xứ Zouman quốc gia Ba Tư có một ông vua mà thần Dân vốn là gốc người Hi Lạp. Ông vua này bị bệnh phong. Những ngự y sau khi đã Dùng đủ các loại thuốc để chữa trị cho vua của họ nhưng không đem lại kết quả gì cả.
Đang trong khi lúng túng thì Douban, một thấy thuốc danh tiếng tới triều đình.
Người thầy thuốc này đã nghiên cứu sâu về y khoa trong các sách Hi Lạp, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Ả Rập, La Tinh, Syrie và Hébreux. Ngoài kiến thức sâu rộng về lĩnh vực triết học, ông còn hiểu biết rất thông thạo về tính năng tác dụng của tất cả các loại cây cỏ làm thuốc chữa bệnh. Khi ông được biết nhà vua bị bệnh mà các ngự y đều đã chịu bó tay, ông bèn ăn vận sạch sẽ chỉnh tề và tìm cách để ra mắt đức vua.
- Tâu bệ hạ – Ông trình vua – Thần biết là các ngự y của triều đình không thể chữa được bệnh phong mà Người đang mắc phải. Nhưng nếu bệ hạ đặc ân chiếu cố tới tài mọn nầy thì thần xin cam đoan chữa lành bệnh cho Người mà chẳng cần phải thuốc uống thuốc xoa gì hết.
Nghe lời tâu trình đó, nhà vua rất hài lòng, ông bảo:
- Nếu nhà ngươi có tài làm được như lời ngươi nói thì ta sẽ làm cho ngươi thật giàu sang cho đến đời con đời cháu không kể đến những món quà quí tặng riêng cho ngươi và ngươi sẽ là một sủng thần của ta.
Vậy là nhà ngươi cam đoan chữa cho ta khỏi hủi mà chẳng cần phải có một thứ thuốc nào cả bên trong lẫn bên ngoài?
- Tâu bệ hạ, đúng như vậy và chắc là với sự phù trợ của Thượng đế, thần sẽ thành công. Ngay từ ngày mai, thần sẽ bắt đầu cuộc thử nghiệm.
Sau đó, ông thầy thuốc trở về nhà mình, làm một chầy gỗ, khoét rỗng chuôi chỗ tay cầm và bỏ vào trong đó những vị thuốc mà ông đã tính toán phải sử dụng. Xong rồi, ông làm một quả tròn theo ý mình, và với những vật dụng đó, ngày hôm sau ông xin được bệ kiến. Ông quỳ xuống bên chân vua, hôn mặt đất…
Tới đoạn này, Scheherazade nhận thấy trời đã hửng sáng. Nàng báo cho vua Schahriar và thôi kể.
- Chị ơi – Dinarzade bảo chị – Đ ú ng là em thật ngạc nhiên không biết là chị lấy đâu ra biết bao cái đẹp đẽ hay ho đó.
- Em sẽ còn được nghe bao nhiêu cái hay cái đẹp nữa vào ngày mai, nếu hoàng đế chúa của chúng ta mở lượng hải hà còn để cho chị sống.
Schahriar cũng chẳng kém gì Dinarzade, rất muốn nghe đoạn tiếp câu chuyện về người thầy thuốc Douban nên ngày hôm đó chưa ra lệnh đưa hoàng hậu đi hành quyết.
Đêm đó đã khuya lắm, khi Dinarzade thức giấc, kêu lên:
- Chị ơi, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin chị hãy kể nốt câu chuyện rất hay về ông vua Hi Lạp và thầy thuốc Douban đi.
- Được thôi em ạ – Scheherazade đáp.
Rồi nàng kể tiếp như sau:
- Tâu bệ hạ, lão đánh cá vẫn kể tiếp với hung thần đang bị giam lại trong bình như thế này: “Thầy thuốc Douban đứng dậy và sau một vái dài, tâu với nhà vua ông ta thấy là lúc này nhà vua nên cưỡi ngựa và ra bãi chơi bóng chày.
Nhà vua làm theo và khi tới bãi bóng, ông ta tới gần đưa cho nhà vua cái chày và nói: “Tâu bệ hạ, xin Người hãy dùng cái chày này đánh quả bóng này cho đến lúc cảm thấy bàn tay cầm chày và toàn thân mồ hôi nhễ nhại. Khi chất thuốc mà thần chứa trong cái chầy này được bàn tay của bệ hạ làm cho nóng lên thì chất thuốc đó sẽ ngấm vào toàn thân của Người.
Vậy lúc Người ra mồ hôi thật nhiều thì chấm đứt cuộc chơi vì lúc đó thuốc đã phát huy tác dụng. Trở về cung, bệ hạ vào buồng tắm rửa và kỳ cọ thật mạnh tay, rồi đi ngủ. Thức dậy vào sáng hôm sau, bệ hạ sẽ thấy lành bệnh hoàn toàn”.
Nhà vua cầm lấy chiếc chày, giục ngựa đi tới gần quả bóng vừa ném xuống. Ông dùng chày đánh vào quả bóng. Những viên quan cùng tham gia lại đẩy quả bóng về cho ông, ông lại đánh cho bật ra xa và cứ thế ông đánh bóng bằng chiếc chày nắm chặt trong bàn tay cho đến lúc bàn tay ra mồ hôi nhơm nhớp, rồi toàn thân ông cũng nhễ nhại mồ hôi.
Thế là, chất thuốc chứa trong chỗ tay nắm của chiếc chày đã ngấm vào toàn thân nhà vua qua cán chầy như viên thầy thuốc đã nói. Nhà vua ngừng cuộc chơi, trở về cung, đi vào buồng tắm rửa, làm đúng như lời căn dặn của thầy thuốc Douban. Ông thấy vô cùng khoan khoái. Hôm sau, thức giấc, ngạc nhiên và mừng rỡ, ông thấy mình đã khỏi bệnh, toàn thân nhẵn nhụi đường như chưa từng bao giờ ông bị hủi, cái bệnh hầu như vô phương cứu chữa đó.
Khoác vội vã long bào, ông ra ngự triều rất sớm vì muốn cho cả triều đình biết hiệu quả màu nhiệm của bài thuốc mới. Khi thấy nhà vua hoàn toàn khỏi bệnh, tất cả các quan lại trong triều đều vui mừng khôn xiết.
Thầy thuốc Douban tới sụp quì trước ngai vàng, đầu cúi sát đất Nhà vua nhìn thấy, vời ông lại, cho ngồi bên cạnh mình, giới thiệu với cả triều đình và không ngớt nói những lời khen ngợi mà ông thật xứng đáng.
Nhà vua không dừng lại ở đó, ông cho tổ chức tiệc mừng thật linh đình và thầy thuốc Douban được đặc ân ngồi ăn cùng mâm với vua…”.
Tới đây, Scheherazađe, thấy trời hửng sáng, bèn ngừng lời.
- Chị ơi! – Dinarzade nói – Em chẳng biết rồi câu chuyện sẽ kết thúc ra sao, nhưng đoạn đầu thật vô cùng hấp dẫn.
- Đo ạ n tiếp theo sau đây còn hay hơn nhiều – Hoàng hậu Scheherazade đáp lời em – Và chị tin là em sẽ thấy rất thích thú, nếu hoàng đế vui lòng cho phép chị được kể tiếp vào tối mai.
Vua Schahriar đồng ý và đứng đậy, rất hài lòng với phần câu chuyện vừa nghe.
Quá nửa đêm hôm sau, Dinarzade lại nói với hoàng hậu Scheherazade:
- Chị thân yêu, nếu chị đã thức, thì chị kể nốt chuyện nhà vua Hi Lạp và ông thầy thuốc Douban cho em nghe đi.
- Chị sẽ thoả mãn tính hiếu kỳ của em với sự chuẩn y của hoàng đế, chúa của chúng ta.
Rồi nàng tiếp tục câu chuyện như sau:
“- Nhà vua Hi Lạp – Lão đánh cá tiếp tục kể – Ngoài việc để cho viên thầy thuốc Douban ăn chung mâm với mình, vào cuối ngày, nhà vua còn ban cho Douban một áo triều phục lộng lẫy giống như áo của các đại thần mặc trong những buổi chầu và hai nghìn đồng sequins(1). Ngày hôm sau và những ngày tiếp theo, viên thầy thuốc còn nhận được rất nhiều ân tứ.
Cuối cùng, vị quốc vương này cảm thấy không sao có thể đền đáp lại cho thật đầy đủ công lao của viên thầy thuốc giỏi giang của mình nên hàng ngày ban phát cho ông không thiếu gì những của ngon vật lạ.
“Nhưng, nhà vua lại có một viên tể tướng đầu triều keo kiệt, tham lam và tất nhiên là với tính cách ấy thì thật dễ dàng phạm tội ác. Ông ta vô cùng khó chịu thấy những quà tặng quí giá trút cho viên thầy thuốc mà sự nổi tiếng đã bắt đầu làm cho ông ta ghen tức. Ông ta quyết định là phải làm cho hình bóng viên thầy thuốc biến đi khỏi tâm trí của nhà vua. Để thực hiện ý đồ đó, ông ta xin được bệ kiến và tâu riêng với nhà vua mình có một ý kiến cực kỳ quan trọng xin được bẩm báo. Đ ược nhà vua cho phép, ông ta khúm núm tâu:
“- Tâu bệ hạ, thật vô cùng nguy hiểm cho một đấng quân vương là đã đặt lòng tin vào một con người mà tấm lòng trung trinh chưa được thử thách. Bệ hạ sủng ái và ban cho biết bao lộc hậu, bệ hạ có biết đâu đó là một tên phản nghịch trà trộn vào triều đình chỉ để thừa cơ mưu sát Người.
- Điều mà ngươi dám tâu trình với trẫm đó là để ám chỉ ai vậy – Vua nói – Nên nhớ là ngươi đang nói với trẫm chứ chẳng phải ai khác và ngươi tưởng là ta dễ tin lắm sao?
- Tâu bệ hạ – Thừa tướng nói – Những điều thần dám mạo muội tâu trình cùng bệ hạ thần đều thấu hiểu cặn kẽ. Xin bệ hạ chớ nên đặt lòng tin vào một kẻ vô cùng nham hiểm. Xin bệ hạ hãy tỉnh giấc mê vì kẻ hạ thần xin một lần nữa nhắc lại là tên thầy thuốc Douban là một kẻ hạ tiện từ tận cùng xứ sở Hi Lạp đi tới kinh thành, tìm cách lọt vào triều đình của bệ hạ để thực hiện cái ý đồ khủng khiếp mà thần đã nói.
- Không, không, thừa tướng – Vua ngắt lời – Trẫm tin chắc người mà nhà ngươi cho là một tên phản nghịch xảo trá thì lại là một người đức hạnh và có tấm lòng nhân ái hơn tất cả mọi con người.
Không có một ai trên đời này làm ta yêu quí hơn ông ta. Ngươi hãy nghĩ xem, bằng môn thuốc nào hoặc đúng hơn là bằng phép màu gì mà ông ta đã chữa khỏi được bệnh phong cho trẫm. Nếu muốn hại trẫm thì tại sao ông ta lại ra sức cứu trẫm? Ông ta chỉ việc bỏ mặc trẫm cũng chẳng thoát khỏi chết mà cuộc sống của trẫm đang chỉ còn treo trên sợi tóc.
Nhà ngươi hãy thôi đi, đừng gieo vào lòng trẫm những sự nghi hoặc bất công nữa. Thay vì nghe theo, ta báo cho nhà ngươi biết là ngay từ hôm nay ta hạ lệnh cấp cho người thầy thuốc vĩ đại này mỗi tháng -một ngàn sequins cho đến hết đời. Dù cho ta có chia xẻ với ông ta tất cả của cải thậm chí cả non sông đất nước nữa cũng chưa đủ đền đáp lại những gì ông ấy đã làm cho ta.
Ta đã hiểu rõ chính đạo cao đức rộng của ông ta đã làm khơi đậy lòng đố kị của nhà ngươi, nhưng chớ tưởng là vì lời sàm tấu của nhà ngươi mà ta thôi sủng ái con người đáng trọng này. Ta làm sao mà quên được chuyện một viên tể tướng đã nói gì với vua của ông ta là Sindbad để ngăn cản nhà vua đừng giết con mình là hoàng tử…”.
Nhưng, tâu bệ hạ – Scheherazade nói – Trời lại đã sáng rồi, thần thiếp chẳng còn nói tiếp được nữa.
- Em thật cảm phục nhà vua Hi Lạp, đã cương quyết bác bỏ sự vu cáo của viên tể tướng – Dinarzade nói.
- Hôm nay em khen ngợi thái độ cương quyết của ông vua đó, nhưng ngày mai em sẽ phải chê trách sự hèn yếu của ông ta – Scheherazade bảo – Nếu hoàng đế muốn chị kể nốt câu chuyện này.
Schahriar cũng tò mò muốn biết sự hèn yếu của nhà vua Hi Lạp thể hiện ra sao nên lại lui ngày hành quyết hoàng hậu thêm hôm nữa.
- Chị ơi – Dinarzade gọi chị khoảng lúc gần tàn đêm hôm ấy – Nếu chị không ngủ nữa, để chờ trời sáng hẳn. Chị hãy kể nốt chuyện ông lão đánh cá đi. Đã tới chỗ ông vua Hi Lạp bênh vực thầy thuốc Douban bảo vệ sự trong sạch vô tội của ông ta.
- Chị nhớ rồi – Scheherazade nói – Em sẽ được nghe đoạn tiếp theo đây – Rồi nàng ngoảnh về Schahrlar nói với ông:
Tâu bệ hạ, điều ông vua Hi Lạp vừa nói về quốc vương Sindbađ làm khơi dậy trí tò mò của viên tể tướng.
“ Tâu bệ hạ – Ông ta nói – Xin bệ hạ tha tội nếu thần mạnh bạo xin Người cho biết là viên tể tướng đã nói gì với Sindbad, vua của ông ta để vị quốc vương nầy không giết con trai của mình.
Nhà vua Hy Lạp sẵn lòng thoả mãn y:
- Viên tể tướng này – Ông nói – Sau khi trình tâu với quốc vương Sindbad về sự vu cáo của một bà mẹ ghẻ, ông ta đã cảnh báo nhà vua là có thể ngài sẽ phải hối hận với hành động của mình.
Chương 4: Người chồng và con vẹt
Một người đàn ông chất phác có một người vợ đẹp mà anh ta yêu say đắm chẳng muốn lúc nào rời. Một hôm vì có những công việc khẩn thiết buộc anh ta phải đi xa, anh bèn tìm đến một nơi có bán đủ các loài chim.
Anh chọn mua được một con vẹt không những biết nói thạo mà còn biết và nhớ tất cả những gì xảy ra trước mắt nó. Anh đem lồng chim về nhà, bảo vợ treo lồng chim trong buồng mình và chú ý chăm sóc con vật trong thời gian anh vắng nhà. Sau đó, anh lên đường…
Khi trở về, anh ta không quên hỏi con vẹt tất cả những gì đã xảy ra và con chim kể lại cho anh nghe chẳng thiếu một điều gì. Cũng vì vậy nên chị vợ bị một trận trách mắng nặng nề.
Chị vợ ngờ cho bọn đầy tớ mách lẻo nhưng cả bọn đều thề thốt luôn trung thành với bà chủ của chúng và đều nhất trí cho là chính con vẹt đã ton hót với ông chủ. Tin vào lời bọn đầy tớ, chị vợ nghĩ cách làm sao xua tan đi mối nghi ngờ của chồng đồng thời trả thù con vẹt. Dịp may đã tới.
Chồng chị phải đi vì công việc trong một ngày. Chị ta ra lệnh cho một con ở đặt một cái cối xay tay dưới ngay lồng chim và quay ầm ầm trong đêm, con ở thứ hai được lệnh vẩy nước liên tục phía trên lồng chim giả làm mưa, còn con thứ ba thì được lệnh cầm một chiếc gương chiếu bên nọ rồi bên kia chiếc lồng chim dưới ánh sáng của một ngọn nến. Lũ đầy tớ đã làm công việc do cô chủ trao cho trong suốt một phần đêm và hoàn thành thật tốt.
Ngày hôm sau, người chồng trở về lại hỏi vẹt những gì đã xảy ra ở nhà, con chim trả lời:
- Thưa ông chủ, sấm chớp và mưa gió đã làm tình làm tội tôi suốt đêm, tôi không biết nói với ông chủ là tôi khổ sở tới mức nào.
Người chồng, biết rất rõ là đêm hôm đó chẳng có sấm chớp cũng không mưa gió, cho là con chim đã nói láo và chắc là nó cũng đã nói sai về vợ mình. Bởi vậy, bực mình, anh ta lôi con vẹt ra khỏi lồng và đập chết.
Thế nhưng, về sau, anh biết qua những người hàng xóm là con vẹt chẳng hề nói sai về hạnh kiểm của vợ mình, anh vô cùng hối hận là đã giết oan con vật…”.
Đến đây Scheherazade ngừng lời vì thấy trời đã sáng. Dinarzade vội nói:
- Tất cả câu chuyện chị kể thật phong phú và hấp dẫn. Em nghĩ thật khó có thể có chuyện hay hơn.
- Chị muốn tiếp tục làm em vui thích – Scheherazade nói – Nhưng chẳng rõ là hoàng đế, chúa của chị có còn cho chị thời gian nữa không.
Schahriar chẳng kém gì Dlnarzade cũng còn rất thích nghe hoàng hậu kể chuyện nên đứng lên và ngày hôm đó cũng chưa ra lệnh cho tể tướng đưa nàng đi xử.
Cũng như những đêm trước, rất đúng giờ Dinarzade đánh thức Scheherazade: – Chị ơi? Nếu chị không còn ngủ nữa, thì em xin chị kể cho em nghe một trong các chuyện rất hay mà chị biết để chờ trời sáng rõ.
- Em ạ – Hoàng hậu Scheherazade đáp – Chị sẽ chiều em ngay đây.
Hãy khoan – Hoàng đế ngắt lời – Khanh hãy kể nốt câu chuyện ông vua Hi Lạp với viên tể tướng đã xử sự như thế nào với thầy thuốc Douban rồi sau đó khanh hãy kể tiếp chuyện ông lão đánh cá với hung thần.
- Xin tuân lệnh, tâu bệ hạ – Scheherazade nói và vào chuyện như sau:
Khi nhà vua Hi Lạp – Lão đánh cá bảo hung thần -kể xong chuyện con vẹt, ông bảo viên thừa tướng:
- Còn nhà ngươi, vì đố kỵ với thầy thuốc Douban, người chẳng làm gì hại ngươi, ngươi đã muốn ta giết người đã cứu ta. Nhưng ta sẽ không làm việc đó vì sợ là sẽ phải hối hận suốt đời như người chồng đó đã giết oan con chim vẹt
Viên tể tướng độc ác rất muốn loại trừ ông thầy thuốc Douban nên chẳng muốn ngừng lại tại đó. Ông ta cố ngu ỵ biện:
- Tâu bệ hạ, cái chết của một con chim thì có gì là quan trọng, và thần chắc là chủ nó cũng chẳng hối tiếc lâu la gì. Nhưng sao chỉ vì sợ đàn áp lầm người vô tội mà bệ hạ lại không ra tay xử tử người thầy thuốc đó! Bị tố cáo là có âm mưu ám hại bệ hạ chẳng 1ẽ chưa đủ để Người lấy đi mạng sống của y đi sao? Khi phải bảo vệ sinh mạng của một ông vua thì chỉ một thoáng nghi ngờ thôi cũng phải coi như đã là đích thực. Hi sinh một người vô tội còn hơn là bỏ sót một kẻ thủ phạm.
Nhưng, tâu bệ hạ, đây là chuyện không còn phải nghi ngờ gì nữa: viên thầy thuốc Douban muốn ám sát Người. Không phải tính đố kỵ xui thần chống lại y mà duy nhất chỉ vì tấm lòng trung đã khiến thần phải ra sức bảo vệ bệ hạ, đưa ra một lời khuyến cáo vô cùng quan trọng. Nếu sai lầm, thần xin chịu hình phạt mà xưa kia một vị tể tướng đã phải hứng chịu.
- Vị tể tướng đó đã làm gì – Quốc vương Hi Lạp hỏi – Để phải chịu hình phạt như vậy?
- Thần sẽ kể lại bệ hạ nghe – Viên tể tướng đáp – Nếu Người vui lòng muốn biết, tâu bệ hạ.
Chương 5: Viên tể tướng bị trừng phạt
Ngày xưa có một ông vua – Vị tể tướng kể – có một hoàng tử rất ham mê săn bắn. Nhà vua cho phép chàng được đi săn luôn luôn nhưng lệnh cho tể tướng là phải theo sát và không lúc nào được rời mắt quan tâm chăm sóc chàng.
Trong một ngày săn, những tuỳ tùng sục sạo lùa ra được một chú hoẵng.
Hoàng tử rượt ngựa đuổi theo, vẫn tưởng là tể tướng luôn ở sát bên mình nên chẳng cần suy nghĩ mà cứ phóng tâm theo miết con mồi. Sự hào hứng đã đưa chàng đi quá xa, và lúc này trơ trọi chỉ còn một mình. Chàng ngừng lại, nhận thấy mình đã lạc đường. Chàng muốn quay lại chỗ viên tể tướng chắc là chậm chân nên không theo kịp mình.
Quay hết ngả này sang ngả khác cũng chẳng tìm được đường về. Đúng là chàng đã bị lạc. Bỗng chàng thấy một thiếu phụ xinh đẹp đứng bên lề đường khóc lóc thảm thiết. Chàng kìm cương ngựa hỏi nàng là ai, làm gì một mình ở cái chốn vắng vẻ này và có cần giúp đỡ gì không. Nàng ngừng khóc, đáp:
- Thiếp là con gái quốc vương Ấn Độ. Cưỡi ngựa đi dạo vùng thôn dã, thiếp đã ngủ gật và bị ngã ngựa. Con ngựa đã lồng lên và chạy mất, thiếp chẳng biết bây giờ nó ở đâu nữa”.
Hoàng tử trẻ động lòng trắc ẩn, sẵn lòng để nàng cưỡi ngựa cùng mình. Nàng nhận lời.
Họ đi ngang qua một túp lều, thiếu phụ tỏ ý muốn xuống vì một việc cần thiết gì đó. Hoàng tử dừng ngựa đỡ nàng xuống và chính chàng cũng xuống ngựa, cầm cương đắt con vật tới sát túp lều.
Kinh ngạc xiết bao khi chàng nghe tiếng người thiếu phụ ở bên trong nói như thế này: Hãy vui lên các con, ta đã đưa về cho các con một chàng trai đẹp đẽ và thật béo tốt”, và những tiếng khác đáp ngay: “Nó đâu nào, mẹ ơi? Phải ăn thịt nó ngay mới được, chúng con đang đói ngấu đây!”.
Không phải nghe thêm câu nào nữa, hoàng tử đã thấy ngay mình đang trong vòng nguy hỉểm. Chàng thấy rõ là người thiếu phụ tự nhận là công chúa Ấn Độ chỉ là một con nữ quái, vợ của một trong những tên quỉ man rợ được mệnh danh là yêu quái khổng lồ chuyên ăn thịt người. Chúng trú ẩn ở những nơi hoang vắng và dùng muôn phương nghìn kế để lừa bắt những khách qua đường đem về làm thịt. Hoảng hốt rụng rời, chàng phốc nhanh lên mình ngựa. Con nữ yêu giả danh là công chúa từ túp lều bước ra thấy âm mưu của mình đã bị lộ, vội kêu: “Này, đừng sợ! Chàng là ai? Chàng tìm gì vậy? – Tôi bị lạc – Hoàng tử đáp – Và tôi tìm đường – Nếu bị lạc đường thì hãy cầu xin Thượng đế, Người sẽ giúp chàng thoát khỏi sự bối rối kinh hoàng”.
Nghe vậy, hoàng tử ngẩng đầu lên cao…
Nhưng tâu bệ hạ – Tới đây, Scheherazade nói – Thiếp buộc phải tạm ngừng câu chuyện. Ánh sáng bình minh đã bắt thiếp phải im rồi.
- Chị ơi? Em lo quá, không biết rồi chàng hoàng tử đó ra sao. Em run cho chàng đấy chị ạ.
- Sáng mai, chị sẽ làm cho em hết lo nếu Thánh thượng còn cho chị được sống đến lúc đó.
Schahriar cũng tò mò muốn biết câu chuyện sẽ kết thúc ra sao, nên chưa bắt tội hoàng hậu Scheherazade vội.
Dinarzade rất muốn nghe đoạn cuối chuyện chàng hoàng tử trẻ nên đêm
nay nàng thức giấc sớm hơn mọi khi. Nàng nói với chị:
- Chị của em, nếu chị không còn ngủ nữa thì chị hãy kể nốt cho em nghe câu chuyện chị đã bắt đầu ngày hôm qua. Em rất quan tâm tới số phận của chàng hoàng tử trẻ. Em sợ chết đi được nếu chàng bị mụ yêu quái và lũ con của mụ ăn thịt.
Schahriar thấy là mình cũng cùng lo sợ như thế.
- Vậy thì, tâu bệ hạ – Hoàng hậu nói – Thiếp sẽ giải toả cho bệ hạ nỗi lo đó ngay bây giờ.
“Sau khi công chúa Ân Độ giả bảo chàng hoàng tử trẻ khẩn cầu Thượng đế, vì chàng không tin lời mụ nói là thành thực mà vẫn coi mình là miếng mồi ngon của mụ nên chàng giơ cao hai tay lên trời và cầu khấn:
- Thượng đế tới cao và đầy quyền lực, xin Người hãy soi xét và cứu con ra khỏi bàn tay của kẻ thù này!
Nghe thấy thế, vợ tên yêu quái vội rút vào trong lều, còn chàng hoàng tử trẻ cũng phóng ngựa thật nhanh. May thay tìm thấy đường đi, chàng an toàn trở về với vua cha và thuật lại tỉ mỉ mối hiểm nguy vừa trải qua vì lỗi của viên tể tướng. Nhà vua tức giận, ngay lập tức ra lệnh treo cổ viên quan đại thần.
- Tâu bệ hạ – Viên tể tướng của nhà vua Hi Lạp nói tiếp. Để trở lại với thầy thuốc Douban, nếu bệ hạ không cảnh giác thì sẽ vô cùng tai hại nếu đặt trọn niềm tin vào hắn. Thần biết chắc chắn là kẻ thù của bệ hạ đã phái hắn tới đây để chờ thời cơ ám sát Người. Hắn đã chữa cho bệ hạ khỏi bệnh, có phải thế không ạ, nhưng ồ, ai mà dám chắc? Có thể chỉ là tạm thời chứ không phải là căn bản. Ai biết được là môn thuốc đó, với thời gian, không để lại di chứng có hại?
Quốc vương Hi Lạp, cũng như mọi ông vua, trí tuệ thường hạn chế, không đủ trí thông minh để nhận thấy ác ý của viên tể tướng cũng không đủ tính quyết đoán để kiên trì tình cảm đầu tiên của mình.
Những lời nói của hắn làm cho nhà vua dao động. Ông nói:
- Tể tướng ạ, nhà ngươi có lý. Đúng là có thể hắn cố tình tới đây để ám hại ta. Hắn hoàn toàn có thể giết ta chỉ bằng một loại độc dược nào đó. Bây giờ cần phải làm gì đây?
Viên tể tướng thấy nhà vua đã ngả nghiêng như ý mong muốn:
- Tâu bệ hạ – Y nói – Cách thức chắc chắn và nhanh chóng nhất để bảo đảm cuộc sống yên bình của Người là cho tìm ngay thầy thuốc Douban tới và chặt đầu hắn không chậm trễ.
- Đúng là – Vua nói – Phải như thế thì mới kịp thời ngăn chặn được ý đồ của hắn.
Nói xong, nhà vua truyền cho một võ quan lệnh triệu ngay viên thầy thuốc tới. Ông này không rõ vua đòi mình có việc gì, vội tới ngay cung điện.
- Nhà ngươi có biết – Vua nói khi nhìn thấy ông – Trẫm cho đòi nhà ngươi tới đây để làm gì không?
- Tâu bệ hạ, thần chưa rõ – Douban đáp – Mong được Người dạy bảo.
- Trẫm đòi ngươi tới – Vua lại nói – để ta được giải thoát và cho nhà ngươi sang thế giới bên kia.
Không sao tả được sự kinh ngạc bàng hoàng của viên thầy thuốc khi nghe nhà vua tuyên án tử hình mình.
- Tâu bệ hạ – Ông nói – Vì lý do gì mà Người bắt thần phải chết? Thần đã phạm tội gì?
- Ta được biết rõ ràng – Nhà vua bảo – ngươi là một tên gian tế tới đây để tìm cách ám hại ta. Nhưng để nhà ngươi không thực hiện được ý đồ đen tối đó, ta phải giết ngưới. Hãy bắt lấy hắn – Nhà vua bảo đao phủ cũng có mặt tại đó – Và hãy chặt ngay đầu tên vô lại này đã lọt vào cung đình chỉ để ám sát ta.
Nghe cái lệnh ác độc tàn nhẫn này, viên thầy thuốc hiểu ra là tất cả những vinh dự và của cải mà ông ta được hưởng đã làm dấy lên sự đố ky của kẻ thù và ông vua hèn yếu này đã bị những lời xúc xiểm lôi cuốn.
Ông hối hận là đã chữa lành bệnh hủi cho nhà vua, nhưng đó là một sự hối hận muộn màng.
- Có phải đó là cách mà bệ hạ ban thưởng cho thần sau khi đã tận tâm phục vụ Người?
Nhà vua không nghe và ra lệnh lần thứ hai cho đao phủ phải thi hành bản án. Viến thầy thuốc đành phải cầu cứu đến sự khẩn nài:
- Ôi? Bệ hạ – Ông ta kêu lên – Xin hãy để thần được sống? Thượng đế cũng sẽ kéo dài sự sống của Người. Đừng bắt thần phải chết kẻo rồi Thượng đế cũng sẽ xử sự giống như thế với Người?
Đến quãng này thì lão đánh cá ngừng lời để bảo hung thần:
- Này, này linh thần! Nhà ngươi thấy đấy, những gì xảy ra giữa quốc vương Hi Lạp với thầy thuốc Douban cũng chẳng khác gì chuyện xảy ra giữa hai chúng ta.
Quốc vương Hi Lạp – Lão đánh cá nói tiếp – Đáng lẽ phải suy nghĩ về lời khẩn cầu của người thầy thuốc nhân danh Thượng đế thì lại bằng giọng cay nghiệt bảo ông:
Không, không! Bắt ngươi phải chết, đó là việc vô cùng khẩn thiết.Nhà ngươi có thể bất ngờ lấy đi mạng sống của ta chẳng khác gì ngươi đã chữa cho ta khỏi bệnh hủi vậy.
Người thầy thuốc khóc ròng, kêu than thảm thiết vì thấy mình bị đối xử thật bất công bạc bẽo; hết lòng hết sức phục vụ nhà vua để bây giờ phải nhận lấy cái chết đền ơn.Tên đao phủ bịt mắt, trói hai tay ông ta lại và từ từ rút gươm ra khỏi vỏ.
Tất cả các quan đại thần có mặt tại đó đều vô cùng xúc động, quỳ xuống xin ân xá cho người thầy thuốc, cam đoan ông ta không phải là thủ phạm và bảo lãnh cho sự vô tội của ông. Nhưng nhà vua không lay chuyển, khăng khăng một mực xử tử người thầy thuốc khiến các quan chàng dám nài xin.
Người thầy thuốc vẫn quì, mắt bị băng kín, sẵn sàng nhận lưỡi gươm oan nghiệt, tâu một lần nữa với nhà vua Hi Lạp:
- Tâu bệ hạ, v ì Người đã quyết không thu hồi lại lệnh tử hình đối với thần, xin Người hãy rộng lóng cho phép thần được trở về nhà dặn dò về việc tang ma cho thần, vĩnh biệt gia đình lần cuối, phân phát của bố thí và bàn giao những sách quí của thần cho những người có khả năng sử dụng tốt.
Trong số sách đó thần có một cuốn mà thần muốn dâng lên bệ hạ. Đó là một cuốn sách đặc biệt quý vô giá, đáng được giữ trong kho của triều đình.
- Này, cuốn sách đó vì sao lại quý tới mức như nhà ngươi nói đó? – Vua tò mò hỏi.
- Tâu bệ hạ – Người thầy thuốc nói – Vì nó chứa đựng vô vàn những điều kỳ lạ mà điều lạ nhất là khi người ta đã chặt đầu thần, nếu bệ hạ hạ cố mở cuốn sách ra đến trang thứ sáu và đọc dòng thứ ba của trang sách bên tay trái, cái đầu của thần sẽ trả lời tất cả những câu hỏi mà bệ hạ đặt ra với thần.
Nhà vua, tò mò muốn chứng kiến một sự kiện vô cùng kỳ lạ, bằng lòng lui lại cái chết của ông thầy thuốc sang ngày hôm sau và cho thị vệ dẫn ông ta về nhà dưới sự canh gác cẩn mật.
Người thầy thuốc, trong lúc đó, sắp xếp nhà cửa, ổn định lại trật tự. Tiếng đồn lan rộng là sẽ xảy ra một điều kỳ diệu chưa từng có sau cái chết của người thầy thuốc khiến cho các tể tướng, các đại thần các võ quan túc vệ, tóm lại! à toàn triều đình nô nức kéo đến cung điện để được mắt thấy tai nghe.
Chẳng mấy chốc mọi người thấy thầy thuốc Douban đi tới gần ngai vàng với một quyển sách lớn trong tay. Ông đòi mang tới một cái chậu to, đặt tờ bọc sách vào trong chậu và đưa cuốn sách cho nhà vua, nói:
Tâu bệ hạ, xin Người cầm lấy quyển sách này và khi đầu thần đã bị chặt, bệ hạ cho đặt nó ngay trên tấm bìa sách đặt trong chậu. Ngay tức thì, máu sẽ thôi chảy, lúc đó bệ hạ sẽ mỏ sách ra và tất cả những yêu cầu của Người sẽ được đáp ứng. Nhưng muôn tâu – Ông nói thêm – Một lần nữa thần van.
xin Người hãy mở lượng hải hà, Thượng đế chứng giám cho thần là thần hoàn toàn vô tội.
- Dù nhà ngươi có cầu xin thế nào – Nhà vua nói – thì cũng vô ích mà thôi. Và để nghe cái đầu nhà ngươi nói sau khi ngươi đã chết, ta càng muốn nhà ngươi phải chết.
Nói xong, nhà vua cầm lấy quyển sách trong tay người thầy thuốc rồi ra lệnh cho đao phủ làm nhiệm vụ.
Cái đầu được chặt thật khéo, rơi ngay vào trong chậu, và vừa được đặt trên tấm bìa thì máu ngừng chảy. Thế rồi, dưới sự vô cùng ngạc nhiên của nhà vua và tất cả những người có mặt, cái đầu mở mắt ra và nói:
Tâu bệ hạ, xin Người hãy mở sách.
Nhà vua nghe theo. và thấy tờ sách thứ nhất như muốn dính vào tờ sách thứ hai. Để mở cho dễ, nhà vua đưa ngón tay lên miệng dấp nước bọt vào và cứ làm thế cho đến trang sách thứ sáu, nhưng chẳng thấy trang nào có chữ.
Nhà vua nói với cái đầu:
- Này thầy thuốc! Chẳng có chữ viết nào cả.
Bệ hạ hãy giở thêm vài tờ nữa xem? – Cái đầu bảo.
Nhà vua tiếp tục giở hết trang nọ đến trang kia và vẫn đưa tay lên miệng dấp nước miếng như thế cho đến khi thuốc độc đã được tẩm vào mỗi trang giấy phát huy hiệu quả, vị quốc vương này thấy toàn thân ớn lạnh, mắt mờ đi rồi ngã lăn xuống cạnh ngai vàng, cơ thể co quắp và rung lên bần bật…”.
Đến đây, Scheherazade thấy trời đã sáng liền tâu hoàng đế rồi ngừng lời…
- Ôi! Chị thân yêu – Dinarzade nói – Thật là bực mình mà chị không còn thời gian để kể hết chuyện này! Em sẽ không sao nguôi được nếu hôm nay chị không còn nữa.
- Em ơi? – Hoàng hậu Scheherazade nói – Điều này còn phụ thuộc vào hoàng đế, nhưng chúng ta hãy hy vọng là Người rộng lượng lui cái chết của chị đến ngày mai.
Đúng như vậy, vua Schahriar, không những không ra lệnh cho hành quyết nàng ngày hôm đó, mà còn nóng lòng đợi đêm sau để được nghe nốt đoạn cuối câu chuyện nhà vua Hi Lạp và đoạn tiếp theo của câu chuyện người đánh cá và lão hung thần.
Dù rất tò mò muốn nghe nốt câu chuyện về ông vua Hi Lạp, Dinarzade cũng không sao thức dậy được sớm như mọi đêm. Thậm chí trời đã rạng sáng khi nàng bảo hoàng hậu:
- Chị thân yêu, xin chị kể tiếp câu chuyện kỳ thú về nhà vua Hi Lạp đi, mau lên chỉ vì chẳng còn mấy chốc nữa mà trời sáng rõ rồi.
- Tâu bệ hạ – Nàng nói – Khi thầy thuốc Douban hay đúng hơn là cái đầu của ông thầy thuốc thấy là độc dược đã phát huy tác dụng và nhà vua chỉ còn sống một thời gian ngắn nữa thôi nên nói lớn:
- Hôn quân! Ngươi đã hành động như tất cả bọn vua chúa bạo ngược, cậy quyền thế hãm hại những người vô tội. Không sớm thì muộn,Thượng đế cũng sẽ trừng trị chúng vì tội bất công và độc ác.
Cái đầu chỉ vừa dứt lời thì tên vua hung ác đã lăn ra chết hẳn, chấm hết sự thoi thóp từ nãy tới giờ. “Tâu bệ hạ – Scheherazade tiếp – Đó là cái chết của quốc vương Hi Lạp và thầy thuốc Douban.
Bây giờ phải quay trở lại chuyện người đánh cá và lão hung thần. Nhưng trời đã sáng hắn rồi”.
Vua Schahriar, giờ giấc đều đã được vạch sẵn không thể nghe thêm được nữa nên đứng dậy. Và thấy cần phải nghe tiếp câu chuyện người đánh cá và lão hung thần, ông lệnh cho hoàng hậu chuẩn bị kỹ để kể cho ông nghe vào đêm sau.
Dinarzade bù cho đêm trước, đậy khi còn rất lâu trời mới sáng, gọi Scheherazade:
- Chị ơi! Nếu không còn ngủ nữa thì em xin chị hãy kể nốt chuyện người đánh cá và lão hung thần cho cả hoàng đế và em nghe đi vì chị biết đấy cả Người cũng đang nóng lòng muốn biết câu chuyện sẽ ra sao đây.
- Được em ạ – Hoàng hậu nói – Chị sẽ thoả mãn trí tò mò của Người cũng như của em.
Rồi quay sang vua Schahriar, nàng nói:
“ Tâu bệ hạ, ngay sau khi kể xong chuyện nhà vua Hi Lạp và thầy thuốc Douban, lão đánh cá liền bảo hung thần vẫn bị nhốt trong bình:
- Nếu nhà vua Hi Lạp để cho người thầy thuốc được sống thì Thượng đế cũng để cho nhà vua được sống nhưng ông ta đã chẳng thèm đếm xỉa gì đến những lời khẩn cầu hết sức tha thiết của ông thầy thuốc nên đã bị Thượng đế trừng phạt. Ngươi hãy lấy đó làm gương, hỡi hung thần? Nếu ta có thể làm cho ngươi mủi lòng và được nhà ngươi chiếu cố thì lúc này đây ta sẽ rủ lòng thương tình trạng nhà ngươi, nhưng vì mặc dầu ta đã thi ân cực kỳ lớn là giải phóng cho ngươi khỏi cuộc sống tù hãm hàng ngàn năm, nhưng nhà ngươi đã lấy ân làm oán vẫn kiên trì muốn giết ta vì vậy đến lượt mình, ta cũng phải tỏ ra tàn nhẫn không chút thương hại đối với nhà ngươi.
Nhà ngươi vẫn phải ở trong chiếc bình này và ta sẽ đem ném ngươi xuống biển cho nhà ngươi nằm trong đó đến ngày tận thế. Đó là sự trả hận của ta đối với nhà ngươi.
Lão đánh cá, bạn của ta? – Hung thần vội vã nói – Một lần nữa, ta xin nhà ngươi chớ nên làm chuyện ác độc như vậy. Chẳng hay ho gì chuyện trả thù mà ngược lại nên lấy ân trả oán thì tốt hơn.
Chớ nên đối xử với ta như ngày xưa Imama đối xử với Ateca.
Thế Imama đã làm gì Ateca? – Lão đánh cá hỏi.
Ôi! Nếu ngươi muốn biết chuyện đó – Hung thần nói thì hãy mở cái nắp bình này cho ta ra ngoài. Nhà ngươi cho là ta nằm trong cái nhà tù chật hẹp này mà hào hứng kể chuyện cho nhà ngươi nghe sao? Ta sẽ kể bao lâu cũng được khi nhà ngươi cho ta ra khỏi đây.
- Không – Lão đánh cá nói – Ta sẽ không thả nhà ngươi đâu, đừng có nhiều lời. Ta sẽ dìm nhà ngươi xuống tận đáy biến.
- Hãy nghe ta nói đã, lão đánh cá ơi? – Hung thần hoảng hốt kêu lên – Ta hứa sẽ không làm hại nhà ngươi một tí nào. Ngược lại, ta sẽ bày cho nhà ngươi cách để trở nên giàu có nứt đố đổ vách.
Hy vọng thoát ra khỏi cảnh nghèo khổ làm cho lão đánh cá dịu đi một chút.
- Ta có thể nghe ngươi – Lão nói- Nếu lời ngươi nói có gì đó ích lợi. Nhà ngươi hãy thề, nhân danh Thượng đế tối cao, là lời ngươi nói xuất phát từ thiện ý thì ta sẽ mở nắp bình cho ngươi ra.
Ta không tin là ngươi dám táo gan để bước qua lời thề như vậy.
Hung thần cất lời thề và lão đánh cá liền mở nắp bình. Lập tức khói tuôn ra và hung thần lấy lại vóc dáng của mình giống như lần trước. Việc đầu tiên lão ta làm là giơ chân đá chiếc bình lăn xuống biển.
Hành động này làm người đánh cá hoảng hốt:
- Hung thần? Thế là nghĩa làm sao? Ngươi không muốn giữ lời mà ngươi vừa thề ư? Và liệu ta có phải nói như người thầy thuốc đã nói với quốc vương HI Lạp: “Hãy để cho thần sống và Thượng đế sẽ cho bệ hạ trường thọ?”
Sự sợ hãi của người đánh cá làm hung thần bật cười, vội đáp:
- Không! Lão hãy yên tâm! Ta hất cái bình đi chỉ để đùa vui thôi và cũng để xem nhà ngươi có hoảng sợ không mà thôi. Và để chứng tỏ là ta giữ lời hứa, nhà ngươi hãy vác lưới đi theo ta.
Nói xong, hung thần bước đi trước, còn lão đánh cá vội vã vác lưới lên vai bước theo sau, trong bụng vẫn còn nghi ngờ. Họ đi qua thành phố, trèo lên đỉnh một ngọn núi và xuống rồi xuyên qua một bình nguyên rộng dẫn tới một cái hồ lớn giữa bốn ngọn đồi.
Khi tới bờ hồ, hung thần bảo lão đánh cá:
- Nhà ngươi buông lưới và vớt cá lên đi!
Lão đánh cá chẳng nghi ngờ là không vớt được cá vì lão trông thấy cá lúc nhúc trong đầm nhưng điều làm lão hết sức ngạc nhiên là mỗi con cá đều có màu sắc khác nhau, tất cả có bốn màu: trắng, đỏ, xanh và vàng.
Lão buông lưới và vớt lên được bốn con, mỗi con một màu như đã nói trên.
Vì chưa từng bao giờ được thấy như vậy nên lão không ngừng ngắm nghía và ước lượng là sẽ bán được rất nhiều tiền, trong lòng mừng vui khôn xiết.
- Nhà ngươi hãy đem những con cá này về – Hung thẩn bảo – Và đưa dâng hoàng đế, Người sẽ cho tiền, nhà ngươi tiêu suốt đời chưa hết. Nhà ngươi có thể hàng ngày tới hồ này đánh cá, nhưng báo cho ngươi biết là môi ngày chỉ được thả lưới một lần, nếu không thì sẽ mang hoạ đấy, phải cẩn thận. Đó là điều ta khuyên ngươi.
Nếu ngươi làm theo thì tất cả đều tốt.
Nói xong hung thần dậm mạnh chân, mặt đất mở ra và lại khép kín ngay lại khi hung thần đã thụt xuống.
Lão đánh cá quyết làm theo từng điểm một những lời khuyên của hung thần. Không bao giờ buông lưới hai lần trong ngày. Lão trở lại đường vào thành phố, hài lòng với mẻ cá và suy nghĩ lan man về chuyện vừa xảy ra.
Lão đi thẳng tới cung điện hoàng đế để phô bày những con cá vừa đánh được…
- Nhưng, tâu bệ hạ – Scheherazade thưa – thần thiếp đã thấy mặt trời lên, thiếp phải dừng lại ở đoạn này thôi.
- Chị ơi! – Dinarzade nói – Sao mà những chi tiết cuối cùng chị vừa kể ly kỳ đến vậy! Em thấy khó mà tin được là từ đây trở đi chị lại có thể kể được những chuyện khác ly kỳ hơn.
- Em thân yêu! – Hoàng hậu Scheherazade nói – Nếu hoàng đế, chúa của chị còn để cho chị đến ngày mai thì chị chắc là em sẽ thấy đoạn tiếp theo chuyện lão đánh cá còn ly kỳ hơn đoạn đầu và hấp dẫn không có gì so sánh được.
Schahriar tò mò muốn biết đoạn kết chuyện lão đánh cá có đúng như lời hoàng hậu đã hứa hẹn không, nên lại lui ngày thi hành điều luật tàn khốc mà chính ông đã soạn thảo đến hôm sau.
Vào cuối đêm, Dinarzade gọi hoàng hậu và nói với nàng:
- Chị ơi? Nếu chị không ngủ nữa, chờ trời sáng xin chị kể tiếp chuyện lão đánh cá đi? Em đang rất nóng lòng muốn nghe.
Scheherazade, được phép của hoàng đế, liền tiếp tục câu chuyện như sau:
- Tâu bệ hạ, thần thiếp, dành cho bệ hạ suy nghĩ về sự ngạc nhiên của vị quốc vương đó khi nhìn thấy bốn con cá mà người đánh cá vừa mang lại. Ông cầm hết con nọ đến con kia lên để ngắm nghía khá lâu.
Sau đó, ông bảo viên tể tướng: “Nhà ngươi đem mấy con cá này trao cho người đầu bếp giỏi mà quốc vương Hi Lạp triều cống. Ta tin rằng chúng đẹp như thế thì thịt phải rất ngon”. Viên tể tướng tự mình đem đến nhà bếp trao cho người đầu bếp bảo: “Đây là bốn con cá đặc biệt người ta vừa đem dâng hoàng đế, Người lệnh cho nhà ngươi phải nấu nướng cho thật ngon lành”.
Xong việc, viên tể tướng trở về gặp nhà vua và được lệnh đem thưởng cho lão đánh cá bốn trăm đồng tiền vàng. Tể tướng tuân lệnh ngay. Lão đánh cá chưa bao giờ được nắm trong tay, chỉ một lần, khoản tiền lớn như vậy nên hết sức mừng rỡ, và coi như đó chỉ là một giấc mơ. Nhưng sau đó mới dần thấy hoàn toàn là thật vì khoản tiền đó đã đáp ứng quá đủ cho những nhu cầu của gia đình.
- Nhưng mà, tâu bệ hạ – Scheherazade nói tiếp – Sau khi đã nói về người đánh cá, chúng ta cũng phải nói tới người đầu bếp của nhà vua mà lúc này đang trong tình trạng vô cùng lúng túng.
Sau khi đã làm cá sạch sẽ, bà ta bỏ vào chảo, cho mỡ vào rán.
Khi thấy một bên đã rán kĩ, bà lật cá lên để rán nốt nửa bên kia thì… ồ, một điều kỳ lạ phi thường? Tường nhà bếp nứt rộng và từ đó bước ra một thiếu phụ trẻ xinh đẹp ăn vận lộng lẫy kiểu Ai Cập với những hoa tai, vòng cổ và vòng tay vàng cẩn hồng ngọc. Nàng cầm trong tay một chiếc đũa.
Nàng tới gần cái chảo rán cá trong sự ngạc nhiên kinh hoàng của bà đầu bếp lúc đó đang đứng ngây ra như một bức tượng, gõ đầu đũa vào một con cá và nói: “Cá, cá, mi có sẵn sàng làm bổn phận không?”. Con cá không nói gì cả, nàng nhắc lại câu đó và tức thì cả bốn con cá đều ngóc đầu liên và đồng thanh rành rọt: “Vâng, vâng, nếu các người đếm, chúng tôi cũng đếm; nếu các người trả nợ của các người, chúng tôi cũng trả nợ của chúng tôi; nếu các người chạy trốn, chúng tôi sẽ thắng và chúng tôi thật hài lòng”.
Khi lũ cá dứt lời, thiếu phụ hắt đổ cái chảo và lại thụt vào chỗ kẽ tường nó khép lại ngay và bức tường lại y nguyên như cũ.
Bà đầu bếp mà tất cả cảnh tượng kỳ lạ đó làm cho kinh hãi, đã lấy lại được hồn vía, tới bếp để lật chiếc chảo gắp những con cá đã rơi cả vào trong bếp than hồng lên thì thấy chúng đã đen xì hơn cả than không sao ăn được nữa.
Hoảng sợ và đau khổ, bà ta khóc rống lên: “Than ôi? Biết làm sao bây giờ? Liệu nhà vua có tin không khi tôi kể với Người tất cả những gì đã chứng kiến. Chắc chắn là Người sẽ không tin và sẽ trút giận vào tôi như thế nào đây?”
Trong lúc bà đầu bếp hoang mang buồn khổ như thế thì tể tướng đi vào và hỏi món cá đã xong chưa? Bà ta kể tất cả những gì đã xảy ra cho tể tướng nghe và chúng ta cũng thừa biết là ông đã kinh ngạc như thế nào.
Nhưng chưa tâu bẩm gì với đi hoàng đế, ông bịa ra một chuyện gì đó làm cho nhà vua tin, đồng thời ông cho tìm lão đánh cá tới.
- Này, lão đánh cá – Ông bảo – Hãy mang lại đây ngay cho ta bốn con cá khác giống như những con trước vì đã có một vài trở ngại xảy ra nên đã không làm được món ăn đó dâng lên hoàng đế.
Người đánh cá không cho tể tướng biết lời dặn của hung thần nhưng mượn cớ là đường xa nên chỉ có thể đưa cá tới vào sáng hôm sau.
Người đánh cá ngay trong đêm đó đã phải vác lưới lên đường và đến thẳng nơi có hồ cá. Ông ta buông lưới, kéo lên và thấy trong lưới đúng bốn con cá cũng như những con lần trước, mỗi con mang một màu khác nhau.
Ông quay ngay trở về và mang cá trao cho tể tướng đúng thời gian như đã hứa.
Vị đại thần nầy tự mình đem bốn con cá tới nhà bếp và ở luôn tại đó với bà đầu bếp. Bà này bắt đầu làm sạch mấy con cá, cho vào chảo mỡ, đặt lên bếp than như lần trước. Khi cá đã chín một phía bà đùng đũa lật lên và lại cũng như lần trước bức tường nhà bếp nứt dọc ra và một thiếu phụ trẻ xuất hiện với chiếc đũa trong tay.
Nàng tới gần cái chảo, gõ đầu đũa vào một con cá, nói với chúng cũng những câu như lần trước và lũ cá ngóc đầu lên trả lời y như thế. Nhưng, tâu thánh thượng – Scheherazade nói – Kìa trờl hửng sáng đã không cho thần thiếp kể tiếp nữa. Những chi tiết mà thần thiếp vừa kể, thực ra, thật rất kỳ lạ, nhưng nếu còn được sống đến ngày mai, thần thiếp sẽ kể tiếp những chi tiết còn rất đáng được Người chú ý nghe. Vua Schahriar, cảm thấy đoạn tiếp tục của câu chuyện hẳn là phải vô cùng kỳ lạ nên quyết định sẽ nghe tiếp đêm sau.
- Chị thân yêu của em – Dinarzade theo thường lệ gọi chị – Nếu chị đã thức thì xin chị kể nốt câu chuyện rất hay về người đánh cá đi?
Hoàng hậu chẳng muốn để cô em phải cầu xin đến lần thứ hai, nên ngoảnh về phía nhà vua và tiếp tục kể như sau:
- Tâu chúa thượng, sau khi các con cá đã trả lời, người thiếu phụ lại lấy đầu chiếc đũa hất đổ cái chảo rồi lại rút vào kẽ nứt của tường bếp, nơi mà nàng bước ra, tường lại liền lại như cũ.
Viên tể tướng được chứng kiến tất cả những gì đã xảy ra lẩm bẩm:
- Cái này thật kỳ dị quá và khác thường quá, không thể giấu giếm nhà vua được. Ta phải tâu lại Người cái sự việc phi thường này.
Và ông đi tìm nhà vua, tâu lại hoàn toàn sự thật.
Hoàng đế hết sức ngạc nhiên, nóng lòng muốn tận mắt mình nhìn thấy chuyện kỳ diệu này. Muốn vậy, ông cho đi tìm lão đánh cá tới bảo:
- Này anh bạn của ta! Ngươi có thể lại đem cho ta bốn con cá nữa với các màu khác nhau không?
Lão đánh cá xin với nhà vua trong ba ngày ông ta sẽ làm cho Người hài lòng. Được chấp thuận, lão đánh cá tới hồ lần thứ ba. Và cũng chẳng kém may như hai lần trước, ngay mẻ lưới đầu tiên, lão đã vớt lên được bốn con cá với bốn màu khác nhau. Lão vội vã đưa về dâng vua. Vua mừng lắm vì không ngờ lại có được cá sớm như vậy.
Người lại lệnh cho tể tướng ban cho lão đánh cá bốn trăm đồng tiền vàng.
Trước hết, nhà vua cho đem cá vào ngự phòng với tất cả những gì cần thiết để nấu nướng. Ở đó tự thân viên tể tướng làm cá sạch sẽ, cho vào chảo mỡ và đặt lên bếp đun. Khi cá đã chín một phía tể tướng đùng đũa lật lên.
Thế là bức tường của ngự phòng mở hé ra, nhưng thay vì thiếu phụ trẻ là một người đàn ông da đen bước ra. Tên da đen mang đồng phục nô lệ to cao lực lưỡng và mang trong tay một cái gậy lớn màu xanh. Hắn tiến đến gần cái chảo, lấy gậy đụng vào một con cá và thét lên ghê gớm: “Cá, cái Mi đã sẵn sàng với bổn phận chưa?”.
Nghe câu đó, lũ cá ngước đầu lên đáp: “Vâng, vâng, chúng tôi sẵn sàng; nếu người đếm, chúng tôi cũng đếm; nếu người trả nợ của người, chúng tôi cũng trả nợ của chúng tôi, nếu người chạy trốn, chúng tôi thắng và hài lòng”.
Lũ cá vừa nói xong thì tên da đen hất cái chảo ra giữa ngự phòng và đất cháy lũ cá thành than. Xong việc hắn kiêu hãnh rút lui vào kẽ nứt và bức tường khép lại phẳng như cũ. Nhà vua nói với viên tể tướng:
- Sau những gì ta vừa chứng kiến tâm trí ta chẳng sao còn yên ổn được nữa. Những con cá này có một cái gì đó thật kỳ dị bí hiểm mà ta muốn được sáng tỏ.
Ồng cho đi tìm người đánh cá; lão được dẫn đến, nhà vua bảo:
- Này lão đánh cá? Những con cá ngươi mang đến đây gây cho ta nhiều lo lắng. Người đã đánh được chúng tại đâu vậy?
- Tâu hoàng thượng – Lão đáp – Tôi đã đánh được chúng trong một cái hồ nước ở giữa bốn ngọn đồi phía bên kia quả núi mà ở đây cũng trông thấy.
Nhà ngươi có biết cái hồ nước đó không? – Nhà vua hỏi tể tướng.
- Thưa không – tể tướng đáp – Thần cũng chưa từng nghe nói đến, dù là tới sáu chục năm nay thần đi săn ở phía bên kia ngọn núi đó.
- Nhà vua hỏi lão đánh cá cái hồ nước đó cách hoàng cung bao xa. Lão đánh cá quả quyết là đi bộ chỉ mất độ trên ba tiếng đồng hồ. Nghe vậy và thấy trời còn sáng, có thể tới đó trước khi màn đêm buông xuống, nhà vua hạ lệnh cho cả triều đình lên ngựa, lão đánh cá làm nhiệm vụ dẫn đường.
Cả đoàn người trèo núi và khi xuống hết sườn núi bên kia, họ sửng sốt thấy một vùng bình nguyên rộng lớn mà tới lúc này không ai ngờ tới. Cuối cùng họ tới hồ nước, thấy đúng là lọt vào giữa bốn ngọn đồi như người đánh cá đã tâu trình. Nước hồ trong vắt, họ trông thấy từng đàn cá bơi lượn và mang các màu như những con cá lão đánh cá dã man về cung điện.
Nhà vua dừng lại trên bờ hồ và, sau một lúc nhìn ngắm đàn cá đầy vẻ ngưỡng mộ, ông hỏi các quan tuỳ tùng có đúng là họ chưa từng nhìn thấy hồ nước này không khi nó cách không xa kinh thành là bao.
Họ tâu là chưa từng nghe thấy nói đến cái hồ nước này bao giờ cả.
Nhà vua bảo họ:
- Vậy là tất cả các ngươi đều thổng nhất chưa từng nghe nói và ta cũng chẳng kém ngạc nhiên về sự kiện mới mẻ này, ta quyết định là sẽ không trở về cung điện chừng nào chưa biết rõ nguyên do vì đâu mà lại có cái hồ nước này tại đây, và tại sao lại chỉ có những con cá bốn màu trong đó.
Nói đoạn, nhà vua lệnh cho hạ trại và ngay tức thì hành cung và các lều được dựng ngay trên bờ hồ nước.
Vào chập tối, nhà vua rút vào hành cung nói riêng với tể tướng, ông bảo:
- Tể tướng ạ, tâm trí ta lúc này đắm chìm trong một mối lo kỳ lạ: cái hồ nước từ đâu chuyển dịch tới đây, tên da đen xuất hiện trong ngự phòng, những con cá biết nói này… Tất cả những cái đó khơi dậy trí tò mò mà ta không sao ngăn được sự nóng lòng mong mỏi được thoả mãn. Vì vậy ta nghiền ngẫm một ý đồ mà ta muốn thực hiện bằng được.
Ta sẽ rời trại này một mình, ngươi phải giữ tuyệt đối bí mật sự vắng mặt của ta, hãy ở tại trong hành cung của ta và sáng mai, các quan văn võ tới chầu, ngươi sẽ bảo họ giải tán với lý do là ta khó ở và muốn được một mình nghỉ ngơi. Những ngày sau nhà ngươi cũng bảo họ như thế cho đến ngày ta về.
Viên tể tướng hết lời can ngăn để nhà vua rời bỏ ý đồ đó: nào là dấn thân vào nơi nguy hiểm, nào là sự mệt nhọc của một cuộc vi hành mà có thể chẳng mang lại một kết quả nào. Nhưng bao lời lẽ hùng biện của tể tướng cũng không làm cho nhà vua thay đổi, vẫn sửa soạn vi hành. Ông vận bộ quần áo thuận tiện cho việc đi bộ, mang theo mình một thanh kiếm, và khi thấy trong trại tất cả đều yên ắng, ông liền nhẹ nhàng cất bước, chẳng có một người nào tháp tùng.
Nhà vua đi tới một trong bốn quả đồi, trèo lên không mấy khó khăn. Lúc xuống lại càng thấy dễ và khi tới cánh đồng rộng, ông tiếp tục đi cho đến lúc mặt trời mọc. Trông thấy xa xa một toà lâu đài đồ sộ, ông phấn khởi hy vọng có thể tìm thấy ở đó những gì muốn biết. Khi tới gần, ông nhận thấy đó là một cung điện lộng lẫy hay đúng hơn là một lâu đài kiên cố xây bằng đá cẩm thạch đen nhẵn bóng, giát thép ròng long lanh như một tấm gương. Khoan khoái vì đã lâu không được thấy gì xứng đáng để thoả mãn tính hiếu kỳ, ông dừng lại trước mặt tiền toà lâu đài và chăm chú ngắm nhìn.
Rồi ông đi tới tận chiếc cổng có hai cánh cửa mà một cánh mở toang. Dù ông có thể tự do bước vào, nhưng cẩn thận ông vẫn giơ tay gõ. Cú gõ nhẹ nhàng và ông chờ một lát nhưng chẳng thấy có ai ra, ông cho là chắc chủ nhân không nghe thấy. Vì vậy ông gõ lần thứ hai mạnh hơn, nhưng vẫn chẳng nhìn thấy, chẳng nghe thấy ai đi ra, ông gõ mạnh hơn, nhưng vẫn chẳng thấy có bóng người nào. Ông vô cùng kinh ngạc vì không ai có thể ngờ là một cái lâu đài được bảo vệ, giữ gìn như thế mà lại bị bỏ hoang.
, “Nếu không có người nào cả – ông tự nhủ – thì ta chẳng có gì mà ngại, nếu có người nào đọ, ta cũng đã có vũ khí để tự vệ rồi”.
Cuối cùng, nhà vua mạnh dạn bước vào, và vừa đi trong tiền sảnh vừa kêu to: “Có ai ở đây không? Có ai đế tiếp một người khách lạ đi qua đang cần có chỗ nghỉ ngơi và giải khát?” Ông nhắc đi nhắc lại như thế hai, ba lần nhưng dù lớn tiếng vẫn chẳng có ai đáp lại. Sự vắng lặng này càng làm nhà vua ngạc nhiên hơn.
Ông đi tới một cái sân rất rộng, nhìn khắp xung quanh xem có phát hiện ra một người nào không, nhưng chẳng nhìn thấy bất cứ một sinh vật nào…
- Nhưng, tâu bệ hạ – Đến đây, Scheherazade nói – ánh sáng ban ngày tới bắt thần thiếp phải im tiếng rồi!
- Ôi! Chị của em – Dinarzade nói – Chị dừng lại giữa chỗ hay nhất!
Đúng vậy – Hoàng hậu đáp – Nhưng, em ơi, cần phải vậy Còn phụ thuộc vào hoàng thượng lãnh chúa của chị, là em có được nghe tiếp vào ngày mai hay không.
Chẳng phải chỉ vì muốn làm cho Dinarzade vui lòng Schahriar lại để cho hoàng hậu sống thêm một ngày nữa, mà chính hoàng đế cũng muốn được thoả mãn tính hiếu kỳ,muốn biết có gì đã xảy ra trong lâu đài đó.
Dinarzade không quên đánh thức hoàng hậu vào cuối đêm nay:
- Chị thân yêu – Nàng nói – Nếu chị không còn ngủ nữa, thì chị hãy kể xem có gì xảy ra trong cái lâu đài tráng lệ mà chị bỏ lại hôm qua, trong lúc chờ đợi trời sáng, chắc chẳng còn bao lâu nữa.
Scheherazade liền kể tiếp, luôn hướng về vua Schahriar:
- Tâu hoàng thượng, vị quốc vương đó vậy là chẳng thấy một ai trong sân nên ông bước vào các đại sảnh mà thảm chùi chân bằng lụa quí, những bục bệ và tràng kỷ đều phủ vải La Mecque, các cửa sổ đều treo điềm bằng những thứ vải quý Ản Độ óng ánh sợi vàng sợi bạc. Rồi ông bước vào một phòng khách lộng lẫy chính giữa là một chiếc bể lớn mà mỗi góc đặt một tượng sư tử bằng vàng.
Bốn con sư tử nhả nước qua miệng chúng vào bể và những tia nước đó khi rơi xuống làm thành những hạt kim cương và ngọc trai. Ở giữa bể lại có một vòi phun nữa, tia nước vọt lên chạm vòm trần chạm trổ những hoa văn sặc sỡ.
Ba phía của toà lâu đài là vườn cây và những luống hoa, những hồ nước, những cụm cây và hàng ngàn những vật trang trí… đều làm tôn lên vẻ đẹp của ngôi nhà uy nghi đồ sộ. Và cái làm cho chốn này càng thêm tuyệt diệu là vô vàn chim chóc cất lên những tiếng hót du dương, tràn đầy khoảng không gian tĩnh mịch.
Nhà vua dạo bước khắp nơi, từ phòng này sang phòng khác, thấy tất cả đều lớn lao đẹp đẽ. Khi thấy thấm mệt vì đi nhiều, ông ngồi nghỉ trong một căn phòng có cửa mở ra vườn, nhớ lại tất cả những gì đã thấy và lúc này đang trông thấy, ông suy nghĩ lan man về mọi khía cạnh các sự vật khác nhau, bỗng vẳng đến tai một tiếng rên kèm theo là những tiếng kêu than thảm thiết.
Ông lắng tai và nghe rõ ràng tiếng nói nhuốm vẻ đau buồn không sao nhầm được: “Ôi! Số mệnh trớ trêu! Nếu ngươi không thể cho ta hưởng lâu dài một cuộc sống hạnh phúc, muốn biến ta thành một con người bất hạnh nhất thế gian, thì hãy thôi hành hạ ta và tới đây bằng một cái chết mau chóng, chấm dứt nỗi đau của ta đi. Than ôi? Sao ta lại vẫn còn sống sau bao nhiêu đòn tra tấn hành hạ mà ta phải hứng chịu? Có thể như thế được không?”.
Xiết bao xúc động nghe những lời kêu than thảm thiết như vậy, nhà vua đứng lên và đi về phía phát ra những lời nói đó. Tới trước một gian phòng lớn, ông mở cửa và nhìn thấy một thanh niên khôi ngô tuấn tú ăn vận sang trọng ngồi trên một cái ngai cao hơn mặt đất một chút. Vẻ buồn khổ hiện lên khuôn mặt.
Nhà vua đi tới gần và nghiêng người chào. Người thanh niên chào lại cúi đầu rất thấp, và vẫn cúi đầu như thế, chàng nói:! Thưa ngài, đáng lẽ ra tôi phải đi tới để tiếp rước ngài với tất cả tấm lòng kính trọng mới xứng đáng với ngài, nhưng vì vấp phải một trở ngại vô cùng to lớn, mong được ngài thể tất cho”.
Nhà vua vội đáp: “Thưa ngài, tôi vô cùng biết ơn lời nói tốt đẹp ngài đã nói về tôi. Còn về việc ngài chẳng tiện đứng lên thì dù vì lý do nào đi nữa, tôi cũng rất vui lòng chấp nhận. Chú ý vì những lời than vãn, thông cảm với nỗi khổ đau của ngài nên tôi tới để mong được giúp ngài.
Nếu Thượng đế dạy tôi phải đem đến sự an ủi cho nỗi khổ đau của ngài, tôi sẽ làm hết sức mình. Tôi mong là ngài sẽ vui lòng kể lại cho tôi hay nỗi bất hạnh của ngài. Nhưng xin làm ơn, trước hết hãy cho tôi biết về cái hồ nước ở gần ngay đây mà trong đó người ta thấy những con cá có bốn màu khác nhau là thế nào.
Còn cái lâu đài này là thế nào, tại sao ngài lại ở đây và nguyên cớ vì sao lại chỉ có một mình ngài?”. Thay vì trả lời những câu hỏi đó thì chàng thanh niên lại cất tiếng khóc thật là ai oán: “Ôi! Số mệnh sao mà đa đoan! Nó thích dìm xuống bùn đen những người mà chính nó đã đưa lên đến mây xanh. Đâu là những người được hưởng thụ một hạnh phúc yên bình mà số mệnh ban cho, những người có cả những chuỗi ngày thanh cao và trong sáng?
Nhà vua xúc động và thương cảm thấy chàng thanh niên ở trong cái tình trạng bi thảm đó, khẩn khoản chàng nói lên nguyên do của sự khổ ải lớn lao này. Chàng thanh niên nói: “Ôi, thưa ngài, làm sao mà tôi ngăn được nỗi buồn đau? Và có cách gì mà đôi mắt tôi chẳng biến thành những dòng suối lệ không bao giờ cạn?”.
Nói đến đây, chàng vén gấu áo lên để cho nhà vua thấy chàng chỉ là người từ đầu xuống đến thắt lưng, còn nửa kia cơ thế là đá cẩm thạch đen…
Đến đoạn này Scheherazade dừng lại để chỉ cho hoàng đế các quốc gia Ấn Độ là trời đã rạng. Schahriar vô cùng thích thú về những gì vừa nghe và cảm thấy long mình như có cái gì dìu dịu trước Scheherazade.
Ông quyết định để cho nàng sống trọn một tháng.
Ông đứng lên cũng như mọi khi nhưng chẳng nói cho nàng hay quyết định của mình.
Dinarzade nóng lòng muốn được nghe nốt câu chuyện bỏ dở đêm hôm trước, nên đánh thức chị dậy rất sớm:
- Chị thân yêu – Nàng nói – Nếu chị không ngủ thì xin chị kể nốt câu chuyện vô cùng kỳ lạ mà chị phải bỏ dở hôm qua đi?
- Chị đồng ý – Hoàng hậu đáp – Hãy nghe chị nhé. Chắc là em cũng thấy là vị quốc vương đó ngạc nhiên vô cùng khi nhìn thấy cái tình trạng thật là bi thảm của chàng thanh niên, ông bảo chàng: “Tình trạng mà ngài vừa chỉ cho tôi thấy đó, không những làm tôi kinh sợ mà còn khơi dậy trí tò mò của tôi, tôi nóng lòng muốn nghe chuyện của ngài chắc hẳn là hết sửc kỳ lạ và tôi cũng thấy chắc chắn là cái hồ nước và những con cá cũng có phần đóng góp trong đó. Vì vậy, tôi xin ngài hãy bình tâm kể cho tôi nghe, ngài sẽ thấy một điều gì đó như một sự an ủi, vì kinh nghiệm cho thấy là những người đang nặng lòng vì khổ đau sẽ thấy nhẹ nhõm phần nào khi được thổ lộ tâm sự của mình.
- Tôi chẳng muốn khước từ việc làm cho ngài được có niềm vui đó – Chàng thanh niên nói – Dù rằng kể ra để ngài nghe tôi chẳng khỏi khuấy lại nỗi đau thắt ruột của mình. Nhưng tôi cũng xin báo trước để ngài chuẩn bị đôi tai, chuẩn bị tinh thần và cả đôi mắt nữa để đón nhận những sự vật nó vượt xa tất cả những gì mà óc tưởng tượng có thể tiếp nhận được vì nó vô cùng kỳ dị.
Chương 6: Ông vua trẻ của đất nước hòn đảo đen
Thưa ngài, ngài sẽ biết là – Chàng thanh niên nói tiếp – Cha tôi có tên là Mahmound, vua của đất nước này. Đó là quốc gia Những Hòn Đảo Đen. Có tên như vậy vì có bốn ngọn núi nhỏ kề bên, trước đây vốn là những cù lao Kinh đô của vương quốc mà cha tôi ngự trị chính là chỗ hồ nước mà ngài nhìn thấy đó.
Chuyện tôi kể tiếp sau đây sẽ làm ngài rõ tất cả những sự đổi thay này.
Cha tôi mất vào tuổi bảy mươi. Vừa lên nối ngôi thì tôi lấy vợ, người mà tôi chọn để cùng tôi chia sẻ vương quyền là cô em họ. Tôi có đủ lý do để hài lòng về những biểu hiện tình yêu của cô ấy đối với tôi.
Còn về phía mình, tôi cũng hết lòng yêu thương trìu mến hoàng hậu vợ mình.
Cuộc tình duyên êm ấm và hạnh phúc này kéo dài được năm năm. Rồi sau đó, tôi nhận thấy hoàng hậu cô em họ của tôi không còn thích tôi nữa.
Một hôm, sau bữa trưa, nàng đi tắm. Tôi cảm thấy buồn ngủ và đặt mình nằm xuống một trường kỷ. Hai thị nữ của vợ tôi lúc đó ở trong phòng, tới ngồi một ở phía đầu, một phía chân, tay cầm quạt phe phẩy vừa để đuổi không khí nóng bức, vừa để xua lũ ruồi có thể làm cho tôi mất ngủ.
Các ả tưởng là tôi ngủ say nên khẽ cùng nhau trao đổi chuyện trò. Nhưng tôi chỉ nhắm mắt chưa ngủ nên nghe rõ mồn một câu chuyện của hai cô ả.
Một ả nói nói với ả kia: “Đúng là hoàng hậu đã sai lầm là không yêu một ông hoàng vô cũng dễ thương như đức vua của chúng ta – Đúng vậy – ả kia đáp – Phần tôi, tôi chẳng hiểu ra sao cả.
Tại sao mà đêm nào bà ấy cũng đi ra ngoài cung điện, để mặc nhà vua nằm một mình.
Liệu ông chồng có biết không nhỉ? – Ồ, làm sao mà nhà vua thấy được? – Ả đầu tiên nói – Tối nào mà bà ấy chả pha vào nước uống của chồng một chất dược thảo gì đó làm cho nhà vua ngủ say như chết, bà ấy tha hồ muốn đi đâu thì đi. Rạng sáng trở về lại vào nằm cạnh chồng cho ông ngửi một thứ hương gì đó rồi đánh thức dậy”.
Ngài thử xét xem, thưa ngài đáng kính, tôi ngạc nhiên biết chừng nào khi nghe được chuyện trò của hai ả và điều đó đã khiến tôi nghĩ gì. Tuy nhiên, dù xúc động tới đâu, tôi cũng có đủ sức kiềm chế để không lộ ra trên nét mặt.
Tôi làm như vừa thức giấc và chẳng nghe thấy gì sốt.
Hoàng hậu từ buồng tắm ra. Chúng tôi cùng nhau dùng bữa chiều và trước khi đi ngủ, nàng tự tay đem một cốc nước đầy mà tôi thường có thói quen uống trước khi lên giường. Nhưng đáng lẽ đưa cốc nước lên miệng thì tôi lại đi tới một cửa sổ mở và khéo léo đổ nước ra ngoài. Nàng không hay biết gì cả.
Sau đó tôi trả chiếc cốc không vào tay nàng để cho nàng yên trí là tôi đã uống cạn.
Chúng tôi lên giường nằm và sau một lát, tưởng là tôi đã ngủ say nàng trở dậy chẳng nhẹ nhàng chút nào và nói to: “Ngủ đi, và mong là mi chẳng bao giờ thức dậy nữa?” Nàng nhanh chóng mặc quần áo và bước ra khỏi phòng….
Kể đến câu đó, Scheherazade thấy trời đã hửng sang nên ngừng lời: Dinarzade há hốc miệng nghe chị nói. Schahriar thấy chuyện nhà vua nước Những Hòn Đảo Đen thật thú vị, xứng đáng với trí tò mò của mình.
Ông đứng lên, rất nóng lòng được nghe tiếp vào đêm sau…
Một tiếng đồng hồ trước khi trời sáng, Dinarzade thức giấc, không quên nói với hoàng hậu:
- Chị thân yêu, nếu chị không ngủ nữa thì xin hãy kể nốt cho em nghe chuyện nhà vua trẻ xứ Những Hòn Đảo Đen đi?
Scheherazade, nhớ lại đoạn ngừng lại đêm trước rồi kể tiếp như sau:
“Khi hoàng hậu vợ tôi đã đi ra khỏi phòng – Nhà vua nước “Những Hòn Đảo đen” nói tiếp – Tôi cũng vùng dậy, mặc vội quần áo, cầm lấy thanh kiếm, đuổi theo nàng và chẳng mấy chốc đã nghe thấy bước chân nàng đi phía trước mình một quãng ngắn. Tôi phải ghìm bước lại và đi nhẹ nhàng hơn vì sợ nàng nghe thấy.
Nàng đi qua nhiều cửa mà cánh cửa tự mở ra vì nàng đọc câu thần chú gì đó. Cánh cửa cuối cùng mở ra khu vườn mà nàng qua đó đi ra ngoài: Tôi dừng lại chỗ này sợ nàng nhìn thấy khi qua một bãi trống. Tôi theo dõi qua bóng tối thấy nàng đi vào một cánh rừng nhỏ mà đường đi lọt giữa hai bờ giậu cây cối rậm rạp.
Tôi đi tới đó bằng một con đường khác và nấp sau hàng giậu ven một con đường khá dài, tôi trông thấy nàng sóng bước cùng với một người đàn ông.
Tôi dỏng tai chăm chú nghe lời đối thoại của hai người và đây là những gì tôi nghe được: “Em không đáng – Hoàng hậu nói với nhân tình- để chàng trách móc là quá chậm trễ. Chàng đã biết quá rõ nguyên nhân gì đã cản trở em đấy.
Nhưng nếu tất cả những gì mà em biểu hiện tình yêu đối với chàng cho đến lúc này vẫn chưa đủ để chàng tin vào sự trung thực của em thì em sẵn sàng chứng minh bằng những việc làm to tát hơn nữa: chàng cứ ra lệnh đi, chàng sẽ biết rõ bản lĩnh của em như thế nào. Nếu chàng muốn thì trước khi mặt trời mọc, em sẽ làm cho kinh thành to lớn và cung điện lộng lẫy này chỉ còn là một đống đổ nát điêu tàn, chỉ còn là nơi trú ẩn của chó sói, cú vọ và quạ đen mà thôi. Chàng muốn em làm bật tung những bức tường thành đá xây vững chắc này, bắn sang bên kia dãy núi Caucase, ra ngoài chỉ giới của thế gian không? Xin chàng cứ nói lên một tiếng và tất cả nơi này sẽ thay hình đổi dạng.
Khi hoàng hậu vừa dứt lời thì nàng và tình nhân vừa tới đầu con đường tôi nấp, chúng quay người để đi vào con đường khác và đi ngang trước mặt tôi. Tôi đã rút gươm ra khỏi vỏ và vì tên tình nhân đó đi sát về phía mình, nên một nhát gươm trúng cổ, tôi phóng ra làm hắn ngã lăn xuống đất.
Tôi tưởng là đã giết hắn chết nên đã mau chóng rút đi không cho hoàng hậu nhìn thấy, dù sao nàng vẫn là họ hàng mà.
Nhát gươm của tôi đã làm nhân tình của vợ tôi tử thương, nhưng bà ta vẫn giữ được mạng sống cho hắn nhờ phù chú, tuy vậy, có thể nói hắn thành một phế nhân dở sống dở chết. Lúc đi qua khu vườn để trở về cung, tôi nghe thấy mụ hoàng hậu kêu khóc rất to nhưng để cho mụ phải kéo dài nỗi khổ đâu đớn, tôi nương tay để cho mụ sống.
Trở về tới ngự phòng, tôi đi nằm, thoả mãn vì đã trừng trị được cái tên khốn kiếp đã lăng nhục mình, tôi ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, tôi thấy mụ hoàng hậu nằm bên cạnh…”.
Scheherazade buộc phải ngừng lời ở chỗ này vì thấy vừng đông vừa hé.
- Trời ạ – Dinarzade nói – Em thấy thật bực mình vì chị không kể thêm được nữa.
- Em ơi – Hoàng hậu đáp – Đáng lẽ em phải đánh thức chị sớm hơn. Đó là lỗi tại em đấy nhé.
- Em sẽ sửa chữa đêm nay, cầu xin Thượng đế chứng giám – Dinarzade nói – Vì em không tin là đức hoàng thượng lại không cùng ý muốn như em muốn biết đoạn kết của câu chuyện này và em hy vọng là Người sẽ rộng lượng để chị sống đến ngày mai.
Dinarzade như đã tự hứa, gọi hoàng hậu dậy rất sớm:
- Chị thân yêu của em – Nàng nói – Nếu chị đã thức thì em xin chị kể nốt chuyện rất hay về ông vua nước Những Hòn Đảo Đen cho em nghe đi. Em nôn nóng muốn biết tại sao ông ta lại bị biến nửa người thành đá đen.
- Em sẽ được biết ngay đây – Scheherazade đáp – với sự chuẩn y của hoàng thượng.
“Nhà vua xứ Những Hòn Đảo Đen nói tiếp: “Vậy là tôi thấy mụ hoàng hậu nằm cạnh mình. Tôi chẳng biết mụ có ngủ hay không, nhưng tôi nhẹ nhàng trở dậy, qua văn phòng và mặc áo quần chỉnh tề.
Sau thiết triều trở về cung, tôi thấy hoàng hậu mặc tang phục, đầu tóc tả tơi và có một phần bị dứt đứt.
Mụ đến trước tôi nói:
Tâu bệ hạ. Cầu mong Người sẽ không lấy làm lạ là thiếp lại ở trong tình trạng này: ba cái tin đau lòng mà thiếp vừa nhận được là nguyên nhân chính của nỗi buồn xé ruột mà Người chỉ mới nhìn thấy những dấu hiệu yếu ớt ở con người thiếp.
- Đó là những tin gì hả hậu? – Tôi hỏi.
- Đó là cái chết của mẫu hậu, mẹ thân yêu của thiếp- Nàng đáp – Cái chết của phụ thân, cha thiếp bị tử trận và cuối cùng là cái chết của một trong những đứa em của thiếp bị ngã xuống vực sâu.
Tôi cũng chẳng chút tức giận vì nàng đã bịa ra cớ đó để che giấu nguyên nhân thực đã làm nàng đau khổ và tôi thấy là nàng không chút nghi ngờ là tôi đã giết tình nhân của nàng.
- Hậu ạ – Tôi bảo nàng – Không những ta chẳng chê trách gì mà ta cam đoan là còn muốn đóng góp phần mình vào nữa kia. Ta sẽ cực kỳ ngạc nhiên nếu thấy hậu vẫn bình thản trước sự mất mát này.
Cứ khóc đi, những giọt nước mắt của hậu chính là những biểu hiện cụ thể của bản chất tuyệt vời của hậu.
Dù vậy ta hy vọng là thời gian và lý trí có thể sẽ mang lại cho hậu sự dịu dần nỗi buồn phiền bất mãn.
Nàng rút lui vào tư thất và ở đó nàng khóc than thoải mái. Suốt một năm ròng nàng buồn rầu ủ dột và than khóc không ngừng. Cuối năm đó, nàng xin tôi cho phép được xây lăng mộ cho mình trong khuôn viên của hoàng thành nói là nàng muốn vào ở trong đó cho đến ngày nhầm mắt xuôi tay.
Tôi y chuẩn và nàng cho xây một cung điện nguy nga với vòm cuốn cao mà ngồi đây ta cũng trông thấy được. Nàng đặt tên nó là Cung Giọt Lệ.
Khi hoàn thành, nàng cho khiêng nhân tình tới đó mà trước đây nàng đã kịp thời giấu hắn ở một nơi nào đó ngay trong đêm tôi đâm hắn trọng thương. Nàng đã giữ mạng sống cho hắn tới bây giờ nhờ vào những thứ thuốc nước nàng cho hắn uống và vẫn tiếp tục cho uống hàng ngày từ khi hắn được đưa tới Cung Giọt Lệ.
Tuy nhiên, với tất cả những pháp thuật nàng có, nàng cũng không sao chữa lành được cho cái tên khốn kiếp này. Không những hắn không đi không đứng được, không cả cử động chân tay được mà còn bị câm.
Cuộc sống của hắn chỉ còn thấy ở hai con mắt. Mụ hoàng hậu chỉ còn được an ủi là nhìn thấy hắn và nói với hắn tất cả những lời âu yếm nhất, đắm say nhất mà tình yêu điên cuồng của mụ khơi gợi. Mỗi ngày hai lần, mỗi lần kéo dài khá lâu; mụ đến thăm hắn đều đặn. Tôi nắm được tất cả những cái đó nhưng vẫn làm như không biết gì cả.
Một hôm, tôi đi tới cung điện Giọt Lệ, tò mò xem mụ hoàng hậu làm gì ở đó và từ một chỗ nấp kín đáo tôi nghe thấy mụ nói với tình nhân như thế này: “Em như đứt từng khúc ruột thấy chàng trong tình trạng này; nỗi đau vò xé mà chàng đang phải chịu đựng, em cũng thầy đau chẳng kém gì chàng.
Nhưng người yêu nhất đời của em ơi! Sao cứ để em nói với chàng hoài mà chàng không đáp lại. Chàng còn im lặng đến bao giờ đây? Hãy nói với em một tiếng đi! Ôi, những giây phút êm đềm nhất trong cuộc đời em là những lúc em ở đây để chia sẻ cùng chàng nỗi đau khôn tả. Em không thể sống xa chàng.
Em muốn có sự hoan lạc được nhìn thấy chàng không ngừng hơn cả uy quyền trị vì toàn vũ trụ.
Nghe những lời lẽ trên, nhiều lần bị những tiếng nức nở khóc than ngắt quãng, cuối cùng mất kiên nhẫn, tôi bước từ chỗ nấp tiến đến gần nàng: Thưa bà – Tôi bảo mụ – Than khóc thế là đủ rồi đấy.
Đã đến lúc cần chấm dứt đi cái trò đau buồn nó làm nhục cả hai chúng ta.
Bà đã hoàn toàn quên lãng bổn phận của bà đối với tôi và cả đối với chính bà – Thưa bệ hạ – Mụ bảo tôi- Nếu bây giờ còn có chút nào nể trọng hoặc đúng hơn là lòng thương hại đối với thiếp, thì xin đừng ép buộc thiếp. Hãy để cho thiếp được vùi mình vào nỗi đau, thời gian cũng khó có thể làm vợi đi được.
Khi thấy là những lời lẽ của mình không những không làm cho nàng ta tỉnh ngộ trở về với bổn phận mà lại như chọc vào sự điên khùng của mụ, liên tôi không nói gì nữa mà quay gót ra về.
Còn mụ thì vẫn hàng ngày tới thăm nom và chăm sóc nhân tình nhưng suốt hai năm ròng mụ vẫn ôm thất vọng.
Tôi đến cung Giọt Lệ lần thứ hai, khi mụ đang có mặt tại đó. Tôi vẫn nấp vào chỗ kín và nghe thấy mụ nói với tình nhân: “Thế là đã suốt ba năm chàng chẳng nói với em một lời và cũng chẳng tỏ ra một dấu hiệu nào đáp lại những lời than thở âu yếm của em. Có phải vì không còn cảm giác hay vì khinh miệt em.
Ôi nhà mồ? Phải chăng mi đã huỷ hoại đi rồi cái tình yêu cuồng nhiệt của chàng đối với ta? Phải chăng mi đã khép kín đôi mắt kia đã từng nhìn ta chan chứa yêu đương và làm cho ta tràn trề hạnh phúc? Không, không, ta không tin như thế. Tốt hơn hết là mi hãy nói đi, bằng phép nhiệm màu nào mà mi trở thành nơi gìn giữ một vật báu chưa từng có trên thế gian này”.
Xin thú thật, thưa ngài, tôi vô cùng phẫn nộ khi nghe những lời trên đây của mụ, vì rút cục cái tên tình nhân yêu quí kia, cái tên được tôn sùng rất mực kia không biết ngài có thể tưởng tượng được không? Đó là một tên thổ dân da đen, sinh trưởng ở xứ sở này. Tôi đã nói là tôi vô cùng phẫn nộ vì những lời lẽ của mụ nên bất thần bước ra, và đến lượt mình, tôi cũng kêu cái nhà mồ đó:
- Này hỡi nhà mồ? Sao mi còn không nuốt chửng cái tên quái vật nó đã làm cho cả loài người ghê tởm đi? Hoặc đúng hơn là sao mi không thiêu cháy cả đôi nhân tình nhân ngãi khốn kiếp này đi?
Tôi vừa dứt lời, thì mụ hoàng hậu đang ngồi sát cạnh tên da đen, bật đứng lên và như một con điên:
A? Tên ác độc kia – Mụ bảo tôi- Chính ngươi đã gây nên nỗi đau của ta. Đừng tưởng là ta không biết mà rất lâu rồi ta chỉ muốn không tỏ ra mà thôi. Chính cái bàn tay man rợ của ngươi đã làm cho người ta yêu thương lâm vào tình trạng bi thảm này. Và ngươi lại còn nhẫn tâm đến đây để sỉ vả một tình nhân tuyệt vọng?
- Phải, chính ta – Tôi nổi giận bừng bừng ngắt lời mụ. Chính ta đã trừng trị con quỉ này xứng với tội của nó, đáng lẽ ra ta cũng phải đối xử với mi như vậy, ta hối tiếc là đã không làm thế, mi đã lạm dụng lượng khoan hồng của ta quá lâu rồi.
Nói đoạn tôi rút thanh kiếm giơ lên cao. Nhưng bình thản nhìn tôi, mụ mỉm cười mai mỉa nói:
- Hãy dẹp cơn thịnh nộ của ngươi lại?
Và ngay lúc đó mụ lẩm bẩm những câu gì tôi không nghe rõ rồi nói thêm: “Bằng pháp thuật của ta, ta hạ lệnh cho ngươi ngay lập tức biến thành tượng nửa người nửa đá”. Thế là, thưa ngài, từ lúc đó tôi trở thành…
như ngài đã trông thấy đấy. Tôi đã chết giữa những người đang sống, và sống giữa những người đã chết…!”.
Scheherazade tới đây thấy trời hửng sáng, bèn ngừng lại Dinarzade bảo chị:
Chị thân yêu của em, em vô cùng biết ơn hoàng đế. Chính nhờ lượng khoan hồng của Người mà em cực kỳ thích thú được nghe chuyện chị kể.
- Em ơi – Hoàng hậu đáp – Nếu chính lượng khoan hồng của Người mà để cho chị sống tới ngày mai thì em còn sẽ được nghe những điều làm cho em thích thú chẳng kém gì những điều chị đã kể.
Khi Schahriar chưa quyết định thay đổi ý dành cho Scheherazade cả tháng thì ông chưa ra lệnh cho xử hoàng hậu hôm đó.
Vào lúc đêm sắp tàn, Dinarzade gọi chị:
- Chị ơi! Nếu chị không còn ngủ nữa thì hãy kể cho hoàng thượng và em nghe nốt chuyện nhà vua nước Những Hòn Đảo Đen đi.
Scheherazade thức giấc, chiều em gái, bắt đầu kể tiếp: “Nhà vua nửa người, nửa đá tiếp tục kể chuyện mình cho vị hoàng đế nghe:
- Sau đó – Ông nói – Mụ phù thuỷ độc ác này, chẳng xứng để mang danh hoàng hậu nữa, đùng phép chuyển tôi sang phòng này. Mụ tàn phá kinh đô vốn rất thịnh vượng và đông đúc dân cư của tôi; huỷ diệt nhà cửa, công trường và chợ búa, biến thành hồ nước và cả một vùng đồng ruộng hoang vắng mà ngài đã thấy đó: Những con cá bốn màu trong hồ vốn là bốn loại dân cư với tôn giáo khác nhau: Cá màu trắng là những tín đồ Hồi giáo; cá màu đỏ là dân Ba Tư, thờ thần Lửa, cá màu xanh là những tín đồ đạo Cơ đốc và cá màu vàng là dân Do Thái.
Bốn ngọn đồi là bốn hòn đảo mà vương quốc này mang tên. Mụ phù thuỷ cho tôi biết tất cả những cái đó trong một cơn giận dữ của mụ chưa dừng lại ở chỗ tàn phá đất nước của tôi, biến tôi thành nửa người nửa đá, mà hàng ngày còn tới quật vào đôi vai trần của tôi một trăm roi gân bò. Mỗi lần như thế máu tôi chảy lênh láng. Sau mỗi cuộc tra tấn, mụ lại trùm lên người tôi một tấm vải thô dệt bằng lông dê cái, khoác lên bên ngoài chiếc áo gấm mà ngài trông thấy đây, không phải để làm cho tôi vinh hạnh mà chính là để mỉa mai tôi đó.
Nói đến đây, nhà vua trẻ xứ Những Hòn Đảo Đen không sao cầm được nước mắt và vị hoàng đế quá thương cảm cũng không thốt lên được một lời nào để an ủi nhà vua xấu số. Một lát sau, nhà vua trẻ, ngước mắt lên trời, kêu to: “Hỡi Đấng tạo hoá tối cao đầy quyền lực, con xin phục tùng mọi phán xét và mệnh lệnh của Người! Con kiên nhẫn chịu đựng mọi khổ đau vì đó là ý muốn của Người. Nhưng con mong mỏi tấm lòng đại từ đại bi của Ngườị sẽ mở lượng hải hà…
Hoàng đế xúc động về câu chuyện khá ly kỳ, và khoan khoái được trả thù tên da đen khốn kiếp của nhà vua trẻ, bảo ông:
- Ngài hãy cho tôi hay cái mụ phù thuỷ xảo quyệt đó lúc này trốn ở đâu, và cái tên da đen bẩn thỉu, nhân tình của mụ, đã bị liệm trước khi chết đó ở chỗ nào.
- Thưa ngài – Nhà vua đáp – Tên nhân tình da đen của mụ, như tôi đã nói với ngài hiện ở tại Cung Giọt Lệ, trong nhà mồ có hình vòm, và cung điện này có đường thông sang cái lâu đài về phía cổng hoàng cung.
Còn về con mụ phù thuỷ, tôi không thể nói chính xác được với ngài là mụ trốn ở đâu, nhưng hàng ngày, cứ mặt trời mọc là mụ tới thăm nhân tình của mụ sau cuộc hành tội đẫm máu mà nạn nhân là tôi, việc này tôi đã nói với ngài. Và ngài hẳn cũng thấy rõ là tôi làm sao mà tự vệ chống lại được sự tàn ác tối dã man đó.
Mụ mang đến cho hắn thứ chất lỏng để uống, một loại thức ăn duy nhất để duy trì sự sống của tên này cho tới nay. Từ khi hắn bị tử thương, mụ không ngừng than vãn và trách móc về sự câm lặng của hắn.
- Thưa quốc vương – Hoàng đế hói – Hoàn cảnh ai oán của ngài, có lời than nào cho đủ. Không ai có thể có một niềm thương cảm sâu sắc với hoạn nạn của ngài như tôi trong lúc này.
Chưa bao giờ có một chuyện kỳ lạ như thế xảy ra với bất cứ một người nào.
Và những người biết và ghi lại câu chuyện của ngài sẽ có ưu thế là đã thuật lại một sự việc vượt lên tất cả các sự việc lạ kỳ đã được viết ra từ trước tới nay. Chỉ còn thiếu có một điều: niềm vui của việc trả hận mà ngài hoàn toàn phải được hưởng và tôi sẽ không quên tạo ra bằng được cho ngài.
Quả vậy, hoàng đế trong lúc trao đổi với vị quốc vương này, sau khi đã nói cho ông ta biết mình là ai và tới lâu đài này có mục đích gì, đã dự định một kế hoạch để trả thù cho vị vương gia này và cùng với ông ta đem ra bàn bạc.
Họ nhất trí với nhau những biện pháp tiến hành để đạt hiệu quả tốt và ngày hôm sau sẽ bắt đầu hành động. Đêm đã rất khuya, hoàng đế cần phải tìm chỗ nghỉ ngơi chốc lát. Còn quốc vương, như mọi khi, ngồi nhắm mắt thiu thiu (ông có ngủ được đâu kể từ ngày bị phù phép) với chút hy vọng là có thể sắp được giải thoát khỏi bao nỗi nhọc nhằn.
Ngày hôm sau, thức dậy từ tờ mờ sáng và để bắt đầu hành động hoàng đế cởi bỏ bộ y phục mặc ngoài cất vào một chỗ kín rồi đi tới Cung Giọt Lệ. Ông thấy cung điện sáng choang dưới vô vàn những ngọn nến trắng, và một mùi hương thơm ngào ngạt toả ra từ rất nhiều những chiếc đỉnh bằng vàng ròng rất đẹp, đặt có hàng có lối thật mỹ quan.
Trước tiên ông nhìn thấy chiếc giường tên da đen nằm, ông rút kiếm và không chút khó khăn, hoá kiếp cho tên khốn nạn, lôi xác nó ra sân và quẳng xuống giếng. Sau việc làm đó, ông nằm lên giường của tên da đen, đặt kiếm bên cạnh, đắp mềm che kín rồi nằm chờ để hoàn tất kế hoạch dự kiến.
Mụ phù thuỷ tới. Việc đầu tiên là mụ đi vào phòng trong đó có nhà vua nước Những Hòn Đảo Đen, chồng mụ. Mụ lột áo ông ra và bắt đầu quật lên đôi vai trần của ông đủ một trăm roi gân bò một cách dã man chưa từng thấy.
Cả cung điện vang lên tiếng la hét của vị quốc vương khốn khổ, nhưng cũng chẳng làm cho mụ phù thuỷ độc ác nương nhẹ tay. “Ngươi đã chẳng thương gì người tình của ta – Mụ bảo chồng – thì ngươi cũng đừng hòng chờ đợi ở ta sự thương hại…”.
Scheherazade kể tới đây, thấy trời đã rạng, bèn thôi không nói tiếp nữa. – Ôi chúa ơi? Dinarzade kêu lên – Thật vô cùng dã man, cái con mụ phù thuỷ đó! Thế là phải dừng lại đúng chỗ này.
Chị ơi, liệu là mụ có bị trừng trị thật đích đáng không?
- Em thân yêu – Hoàng hậu đáp – Chị không muốn gì hơn là sẽ cho em biết vào ngày mai, nhưng chắc em cũng rõ là cái đó còn tuỳ thuộc vào hoàng đế của chúng ta.
Sau những gì mà Schahriar vừa được nghe, nhà vua chẳng có ý nào muốn cho hành quyết hoàng hậu Scheherazade cả, ngược lại ông thầm nhủ: ta chẳng muốn giết nàng chút nào khi câu chuyện ly kỳ này chưa kết thúc.
Dù câu chuyện hay như thế phải kéo dài hai tháng nữa…
Ta vẫn hoàn toàn giữ được lời nguyền kia mà.
Dinarzade thấy đã đến lúc gọi chị dậy, nàng nói:
- Chị thân yêu của em, nếu chị đã thức thì xin chị kể cho em nghe những gì đã xảy ra ở Cung Giọt Lệ. Schahriar cũng tỏ ra muốn được thoả mãn trí tò mò như Dinarzade nên hoàng hậu tiếp tục kể về số phận của nhà vua trẻ bị phù phép.
“- Tâu bệ hạ, sau khi mụ phù thuỷ đã quật đủ một trăm roi vào quốc vương, chồng mụ rồi, mụ lại choàng lên người ông tấm vải thô lông dê và phủ ngoài là tấm áo gấm sang trọng. Rồi mụ tới Cung Giọt Lệ, vừa đi vào vừa kêu than khóc lóc. Mụ đi tới gần chiếc giường mà mụ tưởng là nhân tình của mụ vẫn nằm đó.
Mụ kêu lên: “Độc ác biết chừng nào! Một người tình dịu hiền và say đắm như ta mà phải chịu nỗi cơ cực như thế này ư? Ngươi trách ta quá vô nhân đạo khi ta cho ngươi thấy hiệu quả của lòng căm hận của ta như thế nào. Tên vua độc ác kia, sự tàn bạo của ngươi còn vượt quá cả hành động trả thù của ta.
A! Quân phản bội, mưu hại cuộc sống của người mà ta tôn sùng, phải chăng người đã mưu hại chính cuộc sống của ta? Than ôi? – Mụ nói tiếp với hoàng đế mà mụ tưởng là nói với tên da đen – Mặt trời của em, cuộc sống của em! Chàng vẫn cứ lm lặng thế ư? Phải chăng chàng đã quyết định để em chết mà không có một lời an ủi nói là chàng yêu em? Linh hồn của em, ít ra thì chàng cũng nên nói với em một tiếng, em xin chàng đấy”.
Thế là hoàng đế làm như vừa thức giấc sau một giấc ngủ say, và bắt chước ngôn ngữ của người da đen, nói với hoàng hậu bằng một giọng nghiêm trang: “Chỉ có uy lực và quyền năng nơi Thượng đế duy nhất, đấng tối cao tối thượng” Nghe thấy vậy, mụ phù thuỷ, vô cùng bất ngờ, reo lên, mừng vui khôn xiết: “Lãnh chúa thân yêu của em – Mụ kêu lên – Em có nhầm không đấy? Có phải đúng là em đã nghe thấy chàng nói với em không?- Quân khốn kiếp? – Hoàng đế lại nói – Liệu mi có đáng để ta đối thoại với mi không? – Ồ, tại sao- mụ hoàng hậu sững sờ – chàng lại nặng lời với em như thế” – Những tiếng kêu khóc, những tiếng rên rỉ của chồng mi – Ông nói – mà mi hành hạ hàng ngày tàn nhẫn và dã man như vậy làm ta ngày đêm mất ngủ.
Đáng lẽ vết thương của ta khỏi đã lâu và ta đã nói được rồi nếu mi đã giải phép ma thuật cho hắn. Đó chính là nguyên nhân làm cho ta câm lặng và để cho mi than vãn hoài – Vậy thì – Mụ phù thuỷ nói – để chàng nguôi giận, em sẵn sàng làm tất cả những gì chàng ra lệnh. Chàng có muốn em trả lại cho hắn vóc dáng ban đầu không? – Ta muốn mi làm như vậy – Hoàng đế đáp – Và hãy mau mau thả hắn ra, để ta khỏi bị quấy rầy vì tiếng kêu la của hắn.
Mụ phù thuỷ tức thì rời khỏi cung Giọt Lệ. Mụ lấy một chén nước, ghé miệng đọc những câu chú gì đó làm cho chén nước sôi lên sùng sục. Rồi mụ đi tới buồng giam quốc vương trẻ, chồng mụ.
Mụ hất cả chén nước vào chồng và nói: “Nếu Đấng sáng tạo ra muôn loài tạo ra nhà ngưởi với hình dáng như hiện nay, hoặc là Người ghét giận, nhà ngươi, thì hãy cứ giữ nguyên như thế. Nhưng nếu ngươi phải ở tình trạng này là do pháp thuật của ta thì hãy trở về vóc dáng cũ và trở lại người như trước”.
Mụ vừa dứt lời thì quốc vương thấy mình bỗng trở lại như xưa, đứng lên thoải mái. Mừng vui khôn xiết, ông cảm tạ Thượng đế hết lời Mụ phù thuỷ nhìn ông bảo: “Hãy đi đi, tránh xa lâu đài này, không được bao giờ trở lại nữa, nếu không thì mất mạng đó”.
Nhà vua trẻ nhượng bộ, chẳng một lời đối hồi, lánh xa mụ phù thuỷ, rút về một nơl hẻo lánh, kiên tâm chờ thắng lợi của kế hoạch đã bàn mà vị hoàng đế vừa bắt đầu thực hiện với biết bao may mắn.
Mụ phù thuỷ quay trở lại Cung Giọt Lệ và vừa bước vào mụ vừa nói tưởng như vẫn với người tình da đen của mụ:
- Người yêu thương nhất đời của em – Mụ nói – Em đã làm những gì chàng ra lệnh. Vậy chẳng còn gì ngăn cản để chàng trở dậy và ban cho em sự hoan lạc mà em đã bị tước đoạt bấy lâu nay”.
Hoàng đế vẫn giả giọng người da đen: – Những điều mi vừa làm – Ông nói với giọng đột ngột – Chưa đủ cho ta bình phục, mà mới cất đi được một phần của vết thương, cần phải cắt tận gốc rễ kia.
- Chàng đen yêu quí – Mụ lại nói – ý chàng muốn nói gì với tiếng gốc rễ đó?
- Quân khốn kiếp? Mi không hiểu là ta muốn nói đến kinh thành này và những dân cư của nó và về bốn hòn đảo mà mi đã dùng phép ma huỷ diệt? Hàng ngày vào nửa đêm, những con cá không quên ngóc đầu lên khỏi mặt nước hờ kêu gọi trả thù ta và mi. Đó là nguyên nhân chính làm chậm lại sự bình phục của ta.
Hãy mau đi lập lại trật tự tất cả như trước và khi trở về, ta sẽ đưa tay cho mi và mi sẽ vực ta đứng dậy”.
Mụ phù thuỷ tràn trề hy vọng khi nghe những lời nói đó Mụ sung sướng quá kêu lên: “Trái tim của tôi, linh hồn của tôi, chẳng mấy chốc mà chàng lại khoẻ khoắn. Em sẽ đi làm tất cả những gì chàng ra lệnh”.
Đúng vậy mụ lập tức đi ngay và khi tới bờ hồ, mụ lấy tay vục nước và niệm chú vào đó…
” Kể tới đây, thấy trời đã sáng, Scheherazade không muốn nói gì thêm nữa. Dinarzade bảo hoàng hậu:
Chị ơi, em rất vui thấy quốc vương trẻ xứ Những Hòn Đảo Đen đã được giải phép của mụ phù thuỷ và em như đã nhìn thấy cả kinh thành và dân cư của nó trở lại hình thái ban đầu, nhưng em còn băn khoăn chẳng rõ mụ phù thuỷ rồi sẽ ra sao đây.
- Hãy kiên nhẫn em ạ – Scheherazade nói – Ngày mai em sẽ được thoả mãn thôi mà, nếu hoàng đế, chúa của chị, cũng bằng lòng như thế.
Schahriar như chúng ta biết, đã có chủ trương rồi, nên đứng lên đi làm nhiệm vụ.
Dinarzade đúng giờ thường lệ, không quên lên tiếng gọi hoàng hậu:
- Chị thân yêu của em – Nàng nói – Nếu chị không ngủ thì xin chị kể cho hoàng thượng và em nghe xem số phận của mụ hoàng hậu phù thuỷ ra sao như lời chị đã hứa.
Scheherazade giữ lời hứa, kể như sau:
“Mụ phù thuỷ đã phù chú vào bàn tay vục nước, vừa đọc mấy câu về những con cá và hồ nước thì ngay lập tức nhà cửa kinh thành vụt hiện lên. Những con cá trở lạl thành người: đàn ông, đàn bà hoặc trẻ con, tín đồ Hồi giáo, Cơ Đốc giáo, Ba Tư, hoặc Do Thái, người tự do hoặc nô lệ… Mọi người đều trở về hình hài cũ.
Tất cả những vật dụng, đồ đạc đều ở nguyên chỗ cũ và vẫn theo trật tự như trước khi bị phù phép. Đoàn tuỳ tùng đông đúc của hoàng đế hạ trại trên quảng trường lớn không khỏi ngạc nhiên thấy trong phút chốc mình ở giữa một kinh thành tráng lệ, rộng rãi và đông dân cư.
Quay trở lại với mụ phù thuỷ, ngay sau khi đã làm cuộc biến đổi kỳ diệu này, mụ tức tốc trở về Cung Giọt Lệ để hái lượm kết quả:
- Lãnh chúa yêu quí của em! – Mụ vừa bước chân vào vừa kêu lên như thế – Em tới để cùng chàng vui mừng đón nhận sự phục hồi sức khoẻ của chàng; em đã làm tất cả những gì chàng bảo.
Đứng lên chàng! Hãy đưa tay đây cho em?
Hãy đến gần đây! – Hoàng đế, vẫn nói giọng người da đen bảo mụ. Mụ bước lại gần.
- Chưa được. Hãy đến gần thêm chút nữa.
Mụ vâng lời. Tức thì ông đứng lên, bất ngờ nắm chặt cánh tay mụ khiến mụ không hiểu ra sao nữa. Và, bằng một nhát kiếm vung lên, hoàng đế xẻ mụ ra làm hai, mỗi nửa ngã về một phía.
Xong việc, ông để xác mụ nằm tại chỗ, rời khỏi Cung Giọt Lệ và đến chỗ quốc vương Những Hòn Đảo Đen đang sốt ruột chờ ông.
- Quốc vương? – Hoàng đế ôm lấy ông, bảo – Ngài hãy vui lên, chẳng còn gì phải sợ hãi nữa, kẻ thù độc ác của ngài không còn nữa.
Nhà vua trẻ không ngớt lời cảm tạ việc làm đầy ân nghĩa của hoàng đế và để tỏ lòng tri ân, ông chúc cho hoàng đế trường thọ và hưởng mọi vinh hoa phú quí. Hoàng đế bảo nhà vua trẻ:
- Từ nay ngài có thể sống yên bình trong kinh thành của ngài trừ trường hợp ngài muốn tới thăm vương quốc của tôi ngay bên cạnh đất nước ngài. Tôi rất vui lòng được đón tiếp và ở đó ngài cũng sẽ được tôn sùng và kính trọng chẳng kém gì tại đất nước ngài.
- Tâu hoàng đế hùng cường mà tôi chịu ơn sâu – Nhà vua trẻ nói – Ngài tưởng là đây rất gần kinh đô của ngài ư?
- Phải, ta tin như thế, đi bộ chỉ mất khoảng bốn hoặc năm tiếng thôi mà.
- Phải mất tròn một năm đấy tâu bệ hạ. Đúng là từ quý quốc tới đây ngài chỉ đi mất đúng như thời gian ngài vừa nói bởi vì đất nước tôi bị phù phép, nhưng từ lúc này trở đi thì mọi cái đã đổi khác rồi.
Nhưng điều đó chẳng ngăn tôi theo hầu bệ hạ dù phải đi tới cùng trời cuối đất: Bệ hạ là người đã giải thoát cho tôi và để tỏ lòng suốt đời chịu ơn, tôi quyết đi theo Người và để lại đất nước tôi cho người khác kế vị không chút tiếc nuối.
Hoàng đế vô cùng kinh ngạc khi biết là mình hiện ở rất xa vương quốc của mình và không hiểu sao lại có thể như thế được. Nhưng nhà vua trẻ nước Những Hòn Đảo Đen đã khéo thuyết phục làm ông hết hoài nghi.
- Cũng không sao cả – Hoàng đế nói – Nỗi mệt nhọc trên đường về lại đất nước của trẫm đã được đền đáp xứng đáng vì đã giúp được ngài khỏi cơn hoạn nạn và lại được có một người con trai như ngài. Vì ngài đã cho tôi vinh dự là quyết một lòng đi theo, mà tôi lại không có con, tôi sẽ coi ngài như con và chỉ định ngài làm người thừa kế và sẽ nối ngôi tôi.
Cuộc trò chuyện giữa hoàng đế và quốc vương Những Hòn Đảo Đen chấm dứt bằng những cái ôm hôn thắm thiết. Sau đó nhà vua trẻ chỉ còn nghĩ đến việc sửa soạn cho cuộc hành trình. Khoảng ba tuần mọi việc đều xong xuôi và trong sự luyến tiếc của cả triều thần, họ đón từ tay quốc vương một trong những hoàng thân lên thay ông tiếp tục trị vì đất nước.
Cuối cùng, hoàng đế cùng nhà vua trẻ tuổi lên đường với trăm con lạc đà chở những của cải quí vô giá lấy từ trong các kho tàng của quốc vương, tháp tùng là năm chục kỵ sĩ hiên ngang được trang bị đầy đủ.
Cuộc hành trình của họ hoàn toàn thuận lợi.
Hoàng đế đã phái sứ giả về trước báo nguyên nhân sự chậm trễ và các sự cố xảy ra nên khi về tới gần kinh thành, các quan đại thần đã ra nghênh đón và tâu trình suốt thời gian dài vắng hoàng đế đất nước vẫn ổn định không có gì thay đổi. Dân chúng cũng từng đoàn kéo ra hoan nghênh chúc tụng và liên hoan ca múa nhiều ngày liền.
Sau hôm trở về một ngày hoàng đế kể lại cho tất cả triều thần nghe các sự việc xảy ra với các chi tiết thật tỉ mỉ và trái với ý định đã làm cho sự vắng mặt của mình quá lâu. Sau đó hoàng đế công bố việc nhận nhà vua trẻ xứ Những Hòn Đảo Đen làm hoàng thái tử. Vị quốc vương này đã quyết định bỏ lại quốc gia rộng lớn của mình để theo và sống cùng hoàng đế, người đã cứu mình khỏi một tai hoạ khủng khiếp. Cuối cùng hoàng đế đã ban thưởng cho tất cả quần thần tuỳ theo cương vị lớn nhỏ vì đã tỏ rõ lòng trung thành với hoàng đế thời gian qua.
Còn về phần lão đánh cá, vì ông ta là nguyên nhân khởi đầu cho sự giải thoát quốc vương trẻ tuổi nên hoàng đế ban thưởng cho nhiều của cải, và làm cho ông ta cùng với cả gia đình, sống hạnh phúc cho đến cuối đời.
Scheherazade kết thúc ở đó câu chuyện về ông lão đánh cá và hung thần. Dinarzade tỏ ý vô cùng thích thú và Schahriar cũng vậy. Hoàng hậu Scheherazade nói với hai người là nàng còn biết có một chuyện còn hay hơn chuyện vừa kể xong và nếu được hoàng đế vui lòng cho phép thì nàng sẽ kể vào ngày mai vì trời đã bắt đầu hửng sang.
Schahriar nhớ tới cái hạn một tháng ông đã thầm hứa cho hoàng hậu, vả lại cũng tò mò muốn biết câu chuyện mới này sẽ có hay như nàng đã nói không nên ông đứng lên với ý nghĩ sẽ được nghe vào tối hôm sau.
Dinarzade đã quen lệ, không quên kêu hoàng hậu khi thấy đã tới giờ:
- Chị thân yêu của em! – Nàng nói – Nếu chị không còn ngủ nữa, thì xin chị, trong lúc chờ trời sáng, chị hãy kể cho em nghe một trong các chuyện hay mà chị biết.
Scheherazade, không trả lời em, mà kể tiếp luôn cho hoàng đế nghe.
Chương 7: Ba tu sĩ khổ hạnh và 3 thiếu phụ
Tâu hoàng thượng, dưới triều quốc vương Hồi giáo Haroun Iraschid, ở Bagdad có một người làm nghề khuân vác dù là một nghề hạ tiện và nhọc nhằn nhưng vẫn tỏ ra là một người thông minh và vui tính.
Một buổi sáng, cũng như thường ngày, với một cái sọt to cạnh mình, đứng tại một nơi công cộng, anh chờ xem có ai cần tới công việc của mình không. Chợt có một thiếu phụ trẻ thân hình thon thả, mặt che mạng đi tới và nhẹ nhàng bảo anh: “Nghe đây, anh phu khuân vác, nhắc cái sọt lên và đi theo tôi”.
Anh khuân vác, rất vui thích vớl những lời nói dịu dàng êm ái đó, vội đưa chiếc sọt lên đầu vừa đi theo người thiếu phụ vừa khẽ nói: “Ôi ngày may mắn! Ôi ngày tốt lành!”
Đầu tiên người thiếu phụ dừng lại trước một cái cửa khép kín, giơ tay gõ. Một tín đồ Kitô giáo, đạo mạo với bộ râu dài trắng xoá ra mở cửa. Thiếu phụ đặt ít tiền vào tay ông ta, không nói một lời.
Nhưng ông già biết là nàng muốn gì, đi vào và chỉ một lát sau mang ra một bình lớn rượu.
“Cầm lấy cái bình này – Thiếu phụ bảo người khuân vác và đặt vào sọt của anh”. Anh làm theo và nàng tiếp tục bước đi. Anh khuân vác bám sau và lại thốt lên: “Ôi, ngày diễm phúc? Ôi ngày vui vẻ bất ngờ!”.
Người thiếu phụ dừng lại trước sạp hàng hoa quả. Nàng chọn mua đủ các loại táo, đào, mận, mộc qua, chanh, cam, sim, hoa huệ, hoa nhài cùng nhiều loại hoa và rau thơm. Nàng bảo người phu là cho tất cả vào sọt và tiếp tục đi theo nàng. Đi qua trước quầy thịt lợn, nàng bảo cân cho hai mươi nhăm livres(1) loại thịt ngon nhất.
Và anh khuân vác lại cho vào trong sọt, theo lệnh nàng. Vào một cửa hàng khác nàng mua nụ phong điểu, rau mùi, dưa chuột và nhiều rau xanh khác, tất cả đều ngâm dấm. Đến một cửa hiệu khác, nàng mua nào là lạc, hạnh nhân, hạt dẻ, ba đậu, hạnh đào và nhiều loại quả tương tự. Lại ở một cửa hiệu khác nữa nàng mua đủ các loại mứt hạnh đào.
Anh phu khuân vác bỏ tất cả các thứ đó vào sọt, thấy đã đầy tràn bèn nói với thiếu phụ: “Thưa bà, đáng lẽ bà phải báo trước là mua rất nhiều thứ thì tôi sẽ mang theo một con ngựa hay đúng hơn là một con lạc đà để thồ. Nếu bà mà còn mua nữa thì tôi xin chịu chẳng mang nổi đâu”. Thiếu phụ bật cười vì câu đùa đó, vẫn bảo anh khuân vác đội sọt đi theo.
Nàng vào một cửa hiệu bán gia vị mua đủ loại nước thơm, đinh hương, nhục đậu khấu, hạt tiêu, gừng, một miếng long diên hương lớn và nhiều loại hương liệu thực phẩm Ấn Độ khác… làm cho cái sọt của anh khuân vác đầy tràn.
Thiếu phụ vẫn bảo anh đi theo.
Họ đi cho tới lúc đến trước một toà nhà lộng lẫy mà mặt tiền trang trí những cột trụ thật đẹp và cánh cửa thì khảm ngà voi. Họ dừng lại. Thiếu phụ gõ nhẹ cửa…”
Tới chỗ này, Scheherazade nhận thấy trời đã hửng sáng liền thôi không nói nữa.
- Chị ơi, thú thực là câu chuyện mới bắt đầu đã thấy thật là hấp dẫn- Dinarzade nói – Em tin là hoàng thượng chắc là chẳng bỏ qua cái thú được nghe đoạn tiếp.
Đúng là Schahriar không những chẳng ra lệnh xử hoàng hậu mà còn nóng lòng chờ đêm sau để xem cái gì sẽ xảy ra trong toà nhà lộng lẫy mà nàng đã miêu tả.
Dinarzade thức giấc trước khi trời sáng nói với hoàng hậu: “Chị của em, nếu chị đã thức, em xin chị hãy kể tiếp chuyện chị đã bắt đầu hôm qua đi?”.
Scheherazade liền kể tiếp như sau:
“Trong khi người thiếu phụ trẻ và anh khuân vác chờ cửa mở, anh này suy nghĩ miên man. Anh lấy làm ngạc nhiên. Một người phụ nữ chững chạc như anh thấy đó mà lại làm nghề tiếp phẩm? Chắc chắn chẳng phải là một nô lệ, với dáng dấp quí phái như vậy thì phải là một người tự do, một người có địa vị xã hội.
Anh đã định hỏi han để vấn đề được sáng tỏ, nhưng giữa lúc đó thì một thiếu phụ khác ra mở cửa, và thiếu phụ này cũng có một sắc đẹp rực rỡ khiến anh sững người xuýt nữa làm đổ cả chiếc sọt chứa đầy vật dụng bên trong. Anh chưa từng bao giờ thấy một sắcđẹp nào có thể so sánh với người đứng trước mặt anh.
Thiếu phụ dẫn anh đi theo nhận thấy sự bối rối diễn ra trong óc anh và biết rõ nguyên nhân vì đâu, nàng lấy làm thích thú quan sát vẻ bần thần của người khuân vác đến nỗi không thấy là cửa đã mở.
- Kìa, vào đi chứ? – Thiếu phụ ra mở cửa bảo – Em còn chờ gì đấy? Em không thấy là người đàn ông tội nghiệp đang bị gò lưng vì cái sọt nặng sao? Khi nàng cùng người khuân vác đi vào, người thiếu phụ ra đóng cửa lại và cả ba người sau khi đi qua một tiền sảnh đẹp thì vào một cái sân rất rộng xung quanh có hành lang, ăn thông vào các căn phòng to rộng ngang nhau vô cùng tráng lệ.
Cuối sân kê một chiếc sập to đẹp với một chiếc ngai hổ phách đặt chính giữa, có bốn cây cột bằng gỗ lim đỡ, các cây cột này đều khảm kim cương và ngọc trai cỡ to và pủ sa tanh đỏ thêu rua chỉ vàng rất công phu.
Giữa sân, là một bể lớn xây bằng đá cẩm thạch trắng, chứa nước trong veo được nhả ra tràn trề từ mõm một con sư tử bằng đồng mạ vàng. Anh chàng khuân vác, dù phải gò lưng mang vác cũng không khỏi trầm trồ về vẻ sang trọng mỹ lệ và sạch sẽ khắp mọi nơi trong toà nhà này. Nhưng hiện tượng đặc biệt thu hút sự chú ý của anh ta là người thiếu phụ thứ ba đang ngồi trên chiếc ngai, so với thiếu phụ thứ hai thì còn lộng lẫy hơn nhiều. Nàng bước xuống khi vừa thấy hai thiếu phụ kia trở vào.
Nhìn vào cung cách cử chỉ của họ, anh ta đoán bà chủ hẳn phải là người thiếu phụ thứ ba này, và anh ta đã không nhầm. Thiếu phụ này tên là Zobéide; thiếu phụ ra mở cửa là Safie và Amine là tên thiếu phụ vừa đi mua hàng về.
Zobéide nói với hai thiếu phụ khi bước tới gần họ.
- Các em này, các em không thấy là cái anh chàng tốt bụng này đang sụn lưng dưới cái sọt đầy các thứ này ư? Các em còn chờ gì nữa mà không đỡ cho anh ta?
Nghe vậy, Amine và Safie mỗi người đỡ lấy một bên quai của chiếc sọt, cả Zobéide cũng đặt tay vào, và cả ba người đặt nhẹ chiếc sọt xuống đất. Họ bắt đầu rỡ các thứ ở bên trong ra.
Xong việc, nàng Amine duyên dáng rút tiền ra trả,công cho anh khuân vác…
Ánh sáng bình minh, tới chỗ này, bắt Scheherazade phải ngừng lời, làm cho không những Dinarlade mà cả Schahriar cũng cảm thấy hẫng hụt. Hoàng đế đành phải để lại đêm sau nghe tiếp.
Đêm hôm sau, nôn nóng muốn được nghe đoạn tiếp theo của câu chuyện đã bắt đầu kể, Dinarzade thức giấc và nói với hoàng hậu:
- Nhân đanh Thượng đế, nếu chị không ngủ nữa thì xin chị kể cho em nghe chuyện ba thiếu phụ trẻ đẹp xem, họ đã làm gì với tất cả những thứ mà Amine đã mua về.
- Rồi em sẽ biết thôi – Scheherazade bảo em – Nếu em chăm chú nghe chị kể.
Và nàng tiếp tục kể câu chuyện như sau:
“Anh chàng khuân vác, rất hài lòng với khoản tiền được trả công, đáng lẽ vác sọt ra về thì lại ra vẻ tần ngần khó xử: cảm thấy như ngoài ý muốn của mình, anh ta định xin được ở lại để chiêm ngưỡng các vẻ đẹp hiếm có và theo anh thì cũng đều duyên dáng như nhau. Vì Amine cũng đã bỏ mạng che mặt xuống và anh thấy nàng cũng xinh đẹp chẳng kém gì hai thiếu phụ kia.
Điều làm cho anh ta không sao hiểu được là chẳng nhìn thấy bóng dáng một người đàn ông nào trong toà nhà này. Hơn nữa phần lớn những thức ăn anh mang về như quả khô và các loại bánh mứt chỉ phù hợp với những người thích nhậu nhẹt và giải trí vui nhộn.
Zobéide lúc đầu, tưởng là anh chàng khuân vác còn đứng lại để nghỉ xả hơi, nhưng thấy anh ta ở lại quá lâu nên cất tiếng hỏi:
- Anh còn chờ gì nữa thế? Anh chẳng đã được trả đủ tiền rồi sao? Em này – Nàng bảo Amine – Em hãy cho thêm anh ta chút gì nữa đi để anh ta được hài lòng.
- Thưa bà – Anh khuân vác nói – Không phải cái đó giữ tôi lại đâu, vì tiền công như thế là quá xứng đáng rồi. Tôi biết là mình không được lịch sự cho lắm khi cứ ở lại quá mức cần thiết nhưng tôi mong các bà vui lòng miễn thứ nếu thấy sự ngạc nhiên của tôi là không thấy một người nam giới nào ở cùng với ba vị đều có một sắc đẹp lạ thường. Một tập thể toàn đàn bà không có đàn ông thật ra là một điều cũng tẻ nhạt chẳng khác gì một tập thể toàn đàn ông không có đàn bà.
Anh ta thêm vào câu nói trên bằng nhiều chi tiết vui vui nữa để chứng minh cho những lời đã nói. Anh ta cũng không quên là dẫn ra câu người ta thường nói ở Bagdad: “ăn không ngon nếu không đủ bốn người”, và anh ta đi đến kết luận là ở đây mới chỉ có ba người, các bà cần phải có một người thứ tư nữa thì bữa ăn mới thật là thú vị.
Các thiếu phụ bật cười vì lý luận của anh chàng khuân vác. Rồi Zobéide nghiêm giọng bảo anh ta:
- Anh bạn! Anh đã quá tò mò đấy. Nhưng, mặc dù tôi chẳng muốn nhiều lời làm gì, tôi cũng cần cho anh biết là ba chị em chúng tôi làm việc của mình một cách kín đáo, không ai có thể biết được.
Chúng tôi có lý do quan trọng không thể để lộ cho những kẻ thóc mách biết chuyện riêng.
Một tác giả có tiếng mà chúng tôi đã đọc sách của ông nói như thế này: “Hãy giữ lấy bí mật của riêng mình và chớ để lộ ra với bất cứ ai. Kẻ nào để lộ thì chẳng còn làm chủ được bí mật ấy nữa. Nếu chính bụng ngươi còn không giữ nổi bí mật của mình thì bụng của người mà ngươi tin cậy trao cho bí mật đó làm sao giữ nổi?”.
- Thưa các bà – Anh chàng khuân vác lại nói – Chỉ với vẻ ngoài của các bà, ngay lúc đầu tiên tiếp xúc tôi đã biết là những con người cao quý hiếm có và thấy là đã không nhầm. Dù là số mệnh không cho tôi đủ giàu có để tự nâng cao mình lên làm một nghề trên cái nghề hiện nay, tôi cũng không ngừng trau giồi kiến thức bằng cách đọc các sách về khoa học, về lịch sử và xin các bà cho phép được nói là tôi cũng đã được đọc ở một tác giả một câu châm ngôn mà luôn luôn tôi thực hành một cách thường xuyên.
Đó là câu: “Chúng ta chỉ giấu những điều bí mật đối với những kẻ có tiếng là thóc mách chuyên lợi dụng lòng tin của chúng ta; nhưng chúng ta chẳng bao giờ ngần ngại bộc lộ với những người khôn ngoan, thận trọng, vì chúng ta biết chắc chắn là hò sẽ biết cách giữ kín trong lòng”. Điều bí mật để ở trong tôi cũng sẽ được tuyệt đối an toàn chẳng khác gì để trong một căn phòng cửa khoá hai lần mà chìa khoá đã bị mất vậy”.
Zobéiđe biết là anh chàng khuân vác này cũng khá thông minh, nhưng cho là anh ta muốn ở lại để dự bữa tiệc mà họ sắp tổ chức, nàng mỉm cườí bảo: “Anh biết là chúng ta sắp ăn tiệc và anh cũng đã rõ là chúng ta đã phải tiêu một khoản tiền lớn, vậy thì có công bằng không, nếu anh cũng muốn tham dự mà không đóng góp gì”.
Cô nàng xinh đẹp Safie cũng hùa vào cùng chị: “Anh bạn ơi – Nàng bảo anh khuân vác – Anh không nghe thiên hạ thường nói: nếu anh mang đến cái gì đó, anh sẽ là người ở lại với chúng tôi; nếu anh chẳng mang đến cái gì cả thì nên tay không mà rút đi thôi”.
Anh chàng khuân vác, mặc dù là một tay bẻm mép, nhưng có lẽ cũng phải sượng sùng rút lui nếu Amine không mạnh dạn đứng về phía anh nói với Zobéide và Safie: “Các chị thân yêu, em xin các chị cho phép anh ta được ở lại cùng chị em mình: chắc chắn anh ta sẽ làm cho chúng ta vui, các chị thấy đấy anh ta có đầy đủ khả năng như thế.
Em đoán chắc với các chị là nếu không có sự sốt sắng, sự mau lẹ và lòng can đảm đi theo em của anh ta thì em không sao có thể mua đủ được bằng ấy thứ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi như vậy. Thêm nữa, nếu em kể lại cho các chị nghe tất cả những lời lẽ ngọt ngào lịch sự anh ta nói với em dọc đường thì chắc các chị sẽ không lấy làm ngạc nhiên về sự che chở của em đối với anh ta.
Nghe những lời Amine vừa thốt ra, anh chàng khuân vác vui mừng khôn xiết, quì ngay xuống hôn mặt đất, chỗ bàn chân của người đẹp rồi vừa đứng lên vừa nói: “Thưa bà yêu kính, hôm nay bà đã mở đầu hạnh phúc cho tôi, bà lại làm cho nó tăng lên bội phần bằng một hành động thật là hào hiệp.
Tôi không sao nói hết được lòng biết ơn của mình. Ngoài ra, thưa các bà – anh ta nói với cả ba người – vì các bà đã cho tôi một vinh dự lớn, xin đừng cho là tôi quá lạm dụng, tôi tự cho mình là một người xứng đáng với vinh dự đó; Không, tôi luôn luôn coi mình là một nô lệ hèn của các quí bà”.
Nói xong, anh ta đưa trao trả lại khoản tiền công đã nhận, nhưng nàng Zobéide nghiêm trang bảo anh ta giữ lại, nàng nói: “Tất cả những gì một khi đã ra khỏi bàn tay chúng ta để thưởng cho những người có công giúp đỡ, thì không bao giờ trở về nữa…”.
Mặt trời ló rạng đúng vào quãng này bắt nàng Scheherazade phải ngừng lời.
Dinarzade hết sức chú ý nghe, rất tức bực. Nhưng dịu xuống ngay khi hoàng đế, cũng tò mò muốn biết cái gì đã xảy ra giữa ba thiếu phụ xinh đẹp và anh chàng khuân vác, bảo dành lại đoạn tiếp cho đêm hôm sau và đứng lên đi làm công việc thường ngày.
Dinarzade hôm sau, không bỏ lỡ việc đánh thức hoàng hậu vào giờ thường lệ và bảo nàng:
- Chị thân yêu của em, để chờ trời sáng cũng sắp sửa rồi, chị hãy kể tiếp câu chuyện ly kỳ chị kể giở đêm qua đi?
Scheheralade cất tiếng và tâu với hoàng đế.
- Tâu hoàng thượng được người cho phép, thiếp xin thoả mãn trí tò mò của cô em thiếp. – Rồi nàng kể tiếp chuyện ba tu sĩ khổ hạnh đạo Hồi như sau: “ Vậy là Zobéíde không muốn lấy lại tiền công của anh chàng khuân vác, nhưng nàng bảo:
- Này anh bạn, đồng ý để anh bạn được ở lại vui cùng chúng ta, nhưng ta cảnh báo anh không phải chỉ với điều kiện buộc anh phải giữ bí mật thôi là đủ, mà chúng ta còn muốn anh phải nghiêm chỉnh tuân theo những qui định về phép lịch sự và tính trung thực nữa?
Trong lúc đó, nàng Amine xinh đẹp cởi bỏ bộ áo đi phố ra, giắt áo dài bên trong vào thắt lưng cho gọn ghẽ và bắt tay vào dọn bàn ăn. Nhiều thức ăn được bầy ra và nàng đặt lên tủ nhiều chai rượu và những chiếc chén bằng vàng.
Sau đó, các thiếu phụ ngồi vào bàn và cho anh chàng khuân vác ngồi bên cạnh mình. Anh này thấy hài lòng không sao tả được vì thấy được ngồi cùng bàn với ba người phụ nữ xinh đẹp tuyệt vời.
Sau mấy miếng ăn khai vị, Amíne ngồi cạnh tủ, cầm lấy một chai rượu, một chiếc chén, rót rượu uống trước theo phong tục những người Ả Rập. Nàng rót tiếp đưa cho các chị lần lượt uống rồi rót lần thứ tư cũng vào chiếc chén đó, nàng đưa cho anh chàng khuân vác. Anh này đón lấy chiếc chén, hôn bàn tay Amine, và trước khi uống, hát một bài mà nghĩa của một số câu đại ý là: như làn gió cuốn theo nó mùi hương của những chốn thơm tho, nó đi qua cũng như chén rượu anh ta sắp ương, từ bàn tay nàng đưa sẽ đượm một hương vị ngọt ngào hơn hẳn hương vị tự nhiên của nó.
Câu hát đó làm các nàng vui thích và cũng cất tiếng hát theo. Mọi người đều rất vui trong bữa ăn được kéo dài khá lâu và được chêm thêm vào nhiều trò chơi thú vị.
Ngày sắp hết, Safie thay cho cả ba chì em bảo anh chàng khuân vác:
- Thôi, anh hãy dậy và đi đi, đã đến lúc anh phải ra về rồi đó.
Anh khuân vác chẳng muốn rời đi chút nào, nói:
- Ô hay? Các bà muốn ra lệnh cho tôi đi đâu khi tôi đang trong tình trạng như thế này? Tôi đã say mềm vì nhìn các bà và uống rượu của các bà. Tôi sẽ chẳng bao giờ tìm thấy đường về nhà cả đâu.
Hãy cho tôi ở lại một đêm cho tỉnh táo hẳn, ngủ ở đâu cũng được nhưng cũng phải có thời gian lâu lâu một chút thì tôi mới có thể trở lại tình trạng như lúc mới tới đây. Với tất cả những điều kiện đó, tôi vẫn còn nghi là vẫn còn để lại đây cái phần ưu tú nhất của mình.
Amine lại một lần nữa bênh vực anh khuân vác:
- Các chị ạ – nàng nói – Anh ta nói đúng. Em tán thành lời đề nghị của anh ta. Anh chàng này đã làm cho chúng ta thật vui vẻ. Nếu các chị tin em hay đúng hơn là các chị yêu em như em thường tin chắc như thế, chúng ta hãy giữ anh ta lại đêm nay ở đây với chúng ta.
- Em à – Zobéide nói – Chúng ta chẳng thể nào khước từ được lời cầu xin của em. Anh khuân vác. – Nàng nói tiếp với anh chàng này – Chúng ta vui lòng chấp nhận yêu cầu của anh một lần nữa, nhưng phải có thêm điều kiện mới.
Dù chúng ta làm gì có liên quan tới chúng ta hoặc tới bất kỳ ai khác, bất kỳ việc gì khác trước mặt anh, anh cũng không được mở miệng hỏi chúng ta lý do vì sao, bởi vì đặt câu hỏi với chúng ta về những việc chẳng có liên quan gì tới anh, anh sẽ có thể phải nghe những điều chẳng làm anh thích thú.
Hãy thận trọng, chớ nên quá tò mò muốn đi sâu vào nguyên nhân những việc chúng ta làm.
- Thưa bà – Anh chàng khuân vác nói – Tôi xin hứa là sẽ tuân theo thật nghiêm và chính xác điều kiện đó, để bà sẽ không phải phiền lòng trách cứ và sẽ không bao giờ phải phạt tôi về tội bép xép: cái lưỡi tôi, trường hợp này, sẽ nằm yên bất động và đôi mắt tôi sẽ như một tấm gương nó chẳng chứa lại bất cứ một vật nào nó phản chiếu.
- Để cho anh thấy – Zobéiđe lại nói với vẻ thật nghiêm trang – điều mà ta đòi hỏi ở anh không phải là chúng ta mới đặt ra. Anh hãy đứng lên và tới đọc những gì đã viết bên trên cánh cửa này ở phía trong.
Anh khuân vác đi tới tận chỗ cánh cửa và đọc dòng chữ được viết to mạ vàng: “Kẻ nào nói những điều chẳng có liên quan gì tới mình sẽ được nghe những điều chẳng hay ho gì”.
Anh ta trở lại chỗ ba thiếu phụ, nói:
- Thưa các bà, tôi xin thề là các bà sẽ chẳng bao giờ nghe thấy tôi nói những điều không có liên quan tới mình và đó lại là những điều các bà quan tâm.
Thoả thuận xong, Amine bày bữa ăn tối, và sau khi đã đốt rất nhiều nến tẩm trầm hương và xạ hương toả ra một mùi thơm dễ chịu, chiếu sáng rực rỡ khắp gian phòng, nàng ngồi vào bàn cùng với các chị và anh chàng khuân vác.
Họ lại bắt đầu ăn, uống, hát và ngâm thơ.
Các thiếu phụ lấy làm thích thú chuốc rượu cho anh ta thật say dưới cớ là uống chúc sức khoẻ của tất cả. Lời lời tốt đẹp được phát ra không chút kiêng dè. Tất cả đều đang hoan hỉ trong niềm vui ít có thì bỗng nghe tiếng gõ cửa…”
Scheherazade tới đây phải ngừng lại vì thấy trời đã sáng.
Hoàng đế, không chút nghi ngờ là đoạn tiếp sau của câu chuyện này chẳng phải là không đáng nghe, vì thế ông quyết chờ đến hôm sau và đứng lên.
Cuối đêm hôm sau, Dinarzade gọi hoàng hậu:
- Nhân danh Thượng đế, nếu chị không còn ngủ nữa thì kể tiếp cho em nghe chuyện về ba thiếu phụ xinh đẹp. Em nóng lòng muốn biết là ai đã gõ cửa nhà các bà đó.
- Em sẽ biết ngay đây – Scheherazade nói – Chị có thể đoán chắc với em là những gì mà chị sẽ kể sau đây chẳng đến nỗi không xứng với sự chú ý của hoàng thượng, lãnh chúa của chị.
“ Nghe tiếng gõ cửa – Nàng kể tiếp – Cả ba thiếu phụ lập tức đều đứng lên đi ra mở cửa. Nhưng Safie, việc này đã quen, nhanh chân hơn; hai người kia thấy bị vượt trước nên dừng lại đợi Safie trở lại cho biết là ai lại có thể có công việc gì mà tới muộn như vậy. Safie trở lại báo tin:
- Các chị ạ, có cơ hội tất để qua một phần đêm thật vui vẻ và nếu các chị cũng cùng một ý nghĩ như em thì chúng ta chớ nên bỏ qua. Lúc này ở trước cổng nhà ta có ba tu sĩ khổ hạnh Hồi giáo, em cho là thế căn cứ vào y phục của họ. Nhưng có một chi tiết chắc làm cho các chị kinh ngạc: cả ba người đều chột mắt bên phải và đầu tóc cũng như râu ria, lông mày đều cạo nhẵn thín.
Họ nói là họ mới đặt chân hôm nay đến Bagdad là lần đầu, và vì trời đã về đêm, họ chẳng biết trọ nơi đâu nên gõ cửa hú hoạ nhà ta. Họ xin chúng ta, vì lòng kính yêu Thượng đế, mở rộng tấm lòng chìa tay ra tiếp họ, cho họ ngủ qua đêm dù phải ở trong chuồng ngựa. Họ đều trẻ và khoẻ mạnh có vẻ còn khá thông minh nữa, nhưng em không sao nhịn được cười khi nhìn khuôn mặt ngộ nghĩnh và cùng một kiểu của họ.
Nói tôi đây, Safie dừng lại và bật cười lên khanh khách làm cho hai thiếu phụ kia và cả anh chàng khuân vác cũng không nhịn được cười.
- Chị cả và em ơi? – Safie nói tiếp – Nên cho họ vào thôi chị và em ạ. Với những con người mà em vừa tả đó thì không có lý gì mà chúng ta lại không được kết thúc một buổi tối vui vẻ gấp bội lúc bắt đầu.
Họ sẽ làm cho chúng ta hết sức thích thú mà chẳng bị làm phiền gì đáng kể.
Họ chỉ yêu cầu được nghỉ lại mỗi đêm nay và sẽ ra đi từ tờ mờ sáng.
Zobéiđe và Amine rất ngần ngại, thấy khó có thể chấp nhận được ý muốn của Safie và lý do vì sao thì chính Safie cũng đã rõ. Nhưng thấy cô này tỏ ý rất tha thiết muốn được sự đồng tình nên hai người chẳng nỡ khước từ.
- Thôi được – Zobéide bảo nàng- Cho họ vào đi. Nhưng em đừng quên bảo họ chớ nên mở miệng hỏi han về chuyện gì không liên quan tới mình và cho họ đọc câu đã viết trên cánh cửa.
Được lời, Safie vui mừng đi ra mở cửa và trở vào ngay, theo sau là ba tu sĩ Hồi giáo.
Ba tu sĩ đi vào, cúi Người trịnh trọng vái chào các nàng lúc đó đã đứng dậy đón khách, chào mừng và tỏ vẻ hân hạnh được giúp họ đỡ nhọc mệt sau cuộc đi dài. Cuối cùng các nàng mời cả ba người ngồi xuống cạnh mình.
Sự lộng lẫy của căn phòng và vẻ lịch sự ôn tồn của các thiếu phụ làm cho ba chàng tu sĩ thầm khâm phục các nữ chủ nhân xinh đẹp. Nhưng trước khi đặt mình ngồi xuống ghế, vô tình liếc nhìn anh khuân vác, ăn vận gần giống những tu sĩ khác dòng tu với họ, râu và lông mày không cạo như họ, một trong ba người bảo:
- Hình như đây là một trong những đồng đạo Arập phái chống đối của chúng ta.
Anh khuân vác đôi mắt đang lim dim và hơi men còn đang bốc trong đầu, nghe nói vậy lấy làm bất bình, chẳng thèm đứng lên, kiêu hãnh nhìn ba tu sĩ và nói:
- Này, các bạn hãy ngồi xuống và chớ nên xen vào những chuyện không đâu. Các bạn chưa đọc câu viết trên cánh cửa hay sao? Không nên bắt mọi người sống theo cách của mình. Nhập gia phải tuỳ tục chứ.
- Này anh bạn – Người tu sĩ đã có lời nhận xét lúc đầu nói – Xin đừng vội nóng. Chúng tôi lấy làm tiếc đã có phần nào thiếu sót đối với anh. Ngược lại, lúc này chúng tôi sẵn sàng nghe những lời chỉ bảo của anh đây.
Cuộc cãi vã đáng lẽ còn kéo dài, nhưng các thiếu phụ đã xen vào và khéo léo dàn hoà.
Khi những tu sĩ đã ngồi vào bản, các nàng tiếp thức ăn cho họ và cô nàng Safie đặc biệt vui vẻ rót rượu chuốc..”. Tới đây, Scheherazade ngừng lại vì thấy trời vừa sáng. Hoàng đế cũng đứng lên đi thiết triều thầm nhủ sẽ nghe tiếp vào hôm sau vì ông rất muốn biết vì sao các tu sĩ này lại chột mắt mà cả ba cùng chột một bên.
Một giờ trước khi trời sáng, Dinarzade thức giấc nói với hoàng hậu:
- Chị thân yêu của em, nếu chị không ngủ nữa thì xin chị kể cho em nghe chuyện gì sẽ xảy ra giữa ba thiếu phụ và ba người tu sĩ đạo Hồi.
- Xin rất vui lòng – Scheherazade nói.
Và nàng kể tiếp chuyện đêm trước:
“ Sau khi đã ăn uống thoả thuê, ba tu sĩ tỏ ý muốn giúp vui cho bữa tiệc bằng cách hoà nhạc nếu các nàng có sẵn nhạc cụ và vui lòng cho người mang ra. Ba thiếu phụ vui vẻ nhận lời.
Cô nàng Safie xinh đẹp đứng lên đi tìm nhạc cụ và một lúc sau đem tới một chiếc sáo địa phương, một chiếc khác kiểu sáo Ba Tư và một chiếc trống xứ Basque. Mỗi tu sĩ chọn lấy một thứ trong tay người đẹp và cả ba bắt đầu chơi một điệu nhạc. Các thiếu phụ đều biết lời của khúc nhạc này, một điệu rất vui, đã hoà vào lời ca của họ. Nhưng đôi lúc họ lại phá lên cười vì lời của ca khúc rất nhộn.
Cuộc vui đang ở phút cao trào và mọi người đang hân hoan cực độ thì lại nghe tiếng gõ cửa. Safle ngừng hát ra xem có chuyện gì. Nhưng, tâu hoàng thượng, trước hết cần phải nói để Người rõ vì sao mà có người lại gõ cửa nhà ba thiếu phụ giữa đêm rất khuya như vậy. Nguyên do là vì hoàng đế Haroun Alraschid có thói quen là hay vi hành trong đêm khuya để tự mình xem xét tình hình trật tự trị an trong Kình thành ra sao, có xảy ra tình trạng gì lộn xộn không.
Đêm hôm đó, hoàng đế ra đi từ chập tối, có Giafar, vị tể tướng và Mesrour, tổng thái giám của hoàng cung đi hộ giá. Cả ba người đều cải trang thành những thương nhân. Khi qua đường phố có dinh cơ của ba thiếu phụ, vị quốc vương này nghe thấy tiếng đàn tiếng hát và những tràng cười ròn rã, bèn bảo tể tướng:
- Này, nhà ngươi hãy gõ cửa cái nhà đang làm ầm ĩ lên đó xem nào. Ta muốn vào xem cho biết nguyên nhân.
Vị tể tướng ra sức trình bày đó là các thiếu phụ bày tiệc vui tối đó và hẳn là men rượu đang bốc lên đầu họ, nên chớ có dại mà vào để hứng lấy những lời chẳng đẹp đẽ gì vả lại cũng chưa đến giờ cấm, chẳng nên phá rối cuộc vui của họ. Nhưng hoàng đế Haroun Alraschid vẫn bảo:
- Mặc kệ, đến gõ cửa đi! Ta ra lệnh cho khanh đấy.
Thế là, cực chẳng đã, tể tướng Giafar phải đến gõ cửa nhà các thiếu phụ, tuân lệnh nhà vua không muốn để lộ hình tích. Safie ra mở cửa và viên tể tướng, dưới ánh sang cây nến nàng cầm tay trông thấy một phụ nữ đẹp tuyệt trần.
Ông đóng rất tốt vai trò của mình, cúi đầu thật thấp và lễ phép nói:
- Thưa bà, ba người chúng tôi là thương nhân ở Moussoul(1) đến đây đã được mươi hôm với rất nhiều hàng hoá đắt tiền gửi trong kho một trang trại, nơi chúng tôi tạm trú. Hôm nay chúng tôi được một bạn buôn mời tới thăm nhà và chúng tôi được thết đãi một bữa no say. Ông ta lại cho gọi một tốp vũ nữ tới nhảy múa, đàn hát tưng bừng.
Đêm đã khuya và đoàn người quá vui làm huyên náo phố phường nên lính tuần tra đi qua bắt mở cửa. Một số người bị bắt giữ, còn chúng tôi, may mắn đã trèo qua được bức tường thấp và trốn thoát. Nhưng – Tể tướng nói tiếp vì chúng tôi là những người xa lạ lại đang còn say rượu, loạng choạng sợ đụng toán lính tuần tra khác hoặc chính toán vừa rồi trước khi về đến trang trại cách đây khá xa. Vả lại nếu có về tối thì cũng vô ích vì cổng đóng chỉ sáng ngày ra mới mở dù bất cứ có sự biến gì.
Vì vậy, thưa bà, đi qua đây và nghe thấy tiếng đàn hát, chúng tôi đoán là cuộc vui chưa giải tán, nên đánh bạo gõ cửa xin nghỉ nhờ lại đêm nay. Nếu các vị thấy chúng tôi xứng đáng để được phép tham gia vào cuộc vui thì chúng tôi xin cố gắng với khả năng có thể để bù vào quãng thời gian bị gián đoạn vì chúng tôi. Nếu không thể được thì chỉ xin cho tạm trú dưới mái hiên nhà ngoài cho đỡ sương gió qua đêm thôi cũng được.
Trong lúc Giafar nói, thì nàng Safie xinh đẹp có thời gian để ngắm nhìn viên tể tướng và hai người đi cùng mà ông ta nói cũng là thương nhân như ông ta. Nhìn mặt mũi dáng điệu đoán chẳng phải là những người tầm thường, Safle nói với họ mình không phải là bà chủ, chịu khó chờ một chút, nàng sẽ trở lại cho họ biết ý kiến trả lời về yêu cầu của họ.
Safie trở vào trình bày với Zobéide và Amine. Họ lưỡng lự một lúc không biết giải quyết ra sao. Nhưng các nàng vốn là những người tốt bụng và cũng đã cho ba người tu sĩ ở lại rồi.
Vì vậy họ quyết định để cho ba thương nhân vào nhà…” Scheherazađe định nói tiếp, nhưng thấy trời đã hửng sáng nên dừng lại.
Số nhân vật mới mà hoàng hậu vừa đưa vào câu chuyện đã khơi gợi trí tò mò của Schahriar làm cho ông trong tâm trạng chờ đợi một sự cố bất ngờ nào đó xảy ra, vị quốc vương này trong lòng háo hức đành để lui lại đêm sau.
Dinarzade, cũng tò mò như hoàng đế muốn biết cái gì sẽ xảy ra khi vị quốc vương đó vào nhà ba thiếu phụ, đã không quên đánh thức hoàng hậu dậy rất sớm.
-Nếu chị không còn ngủ nữa – Nàng bảo chị – thì em xin chị hãy kể tiếp chuyện những tu sĩ đi.
Thế là Scheherazade, được phép của hoàng đế, kể tiếp như thế này:
“ – Nhà vua, tể tướng của ông và viên tổng thái giám, được nàng Safie xinh đẹp đưa vào, cúi đầu chào các thiếu phụ và các tu sĩ rất lịch sự. Các thiếu phụ cũng tiếp đón họ như thế và Zobéiđe coi như chị cả nghiêm trang thích hợp với vị trí của mình bảo họ:
- Xin chúc mừng các vị, nhưng trước hết,- nếu không lấy làm phiền thì chúng tôi xin có một yêu cầu.
- Yêu cầu gì vậy, thưa bà? – Nhà vua hỏi – Liệu ai mà có thể chối từ một điều gì với những phu nhân xinh đẹp như các bà chăng?
- Đó là điều Zchéide nói – chỉ nên dùng mắt nhìn mà nên để cho lưỡi nghỉ, chớ nên hỏi gì về những cái mà các vị nhìn thấy, đừng dò hỏi nguyên nhân và không bép xép những điều chẳng liên quan gì tới mình kẻo lại phải nghe những lời nghịch nhĩ.
- Chúng tôi sẽ tuân theo, thưa bà. Chúng tôi chẳng phải là quan toà cũng chẳng phải là những người tò mò hay bép xép. Chỉ chú ý tới gì có liên quan tới mình cũng là quá đủ rồi, còn công đâu mà xen vào những chuyện của người khác.
Tể tướng dứt lời, mọi người vui vẻ ngồi xuống, nối lại cuộc chuyện trò và lại bắt đầu chuốc rượu những người khách mới.
Trong lúc tể tướng Giafar hỏi han các thiếu phụ, hoàng đế không ngừng thầm phục sắc đẹp lạ thường, vẻ duyên dáng và trí thông minh của họ. Mặt khác, ông cũng vô cùng kinh ngạc là sao các tu sĩ, cả ba người đều chột mắt phải.
Ông rất muốn được biết nguyên nhân của sứ khác thường này nhưng điều kiện mà người ta đã đưa ra cho ông và cả bọn làm ông dừng lại. Cùng với những suy nghĩ đó, rồi nhìn những đồ đạc sang trọng, sự sắp xếp trật tự hài hoà và sự sạch sẽ cực kỳ của toà nhà, ông không khỏi không nghi hoặc là ở đây chắc hẳn có chuyện bùa phép gì chăng.
Cuộc chuyện trò bàn sang những trò giải trí và các cách du hí làm vui, các tu sĩ đứng lên và nhảy theo điệu riêng của họ được các nàng tán thưởng nhiệt liệt và tranh thủ được sự quý trọng của hoàng đế và những người cùng đi. Khi các tu sĩ kết thúc điệu nhảy, Zobéiđo đứng lên, nắm lấy tay Amine bảo:
- Đứng dậy em, chắc hẳn mọi người đây không chê cười là chúng mình không chịu sự gò bó nào cả. Và sự có mặt của tất cả các vị đây cũng không phải là sự cản trở công việc mà chúng mình vẫn làm.
Amine, hiểu ý của chị muốn nói gì bèn đứng lên thu đọn bát đĩa, chai lọ, tách chén, đẹp cái bàn và các nhạc cụ mà các tu sĩ vừa chơi lại.
Safie cũng chẳng đứng không. Nàng quét nhà, sắp đặt lại trật tự tất cả các đồ đạc để lộn xộn, gạt bấc các cây nến, cho thêm trầm và long điên vào lò. Xong việc, nàng đề nghị ba tu sĩ ngồi vào tràng kỷ kê ở một bên và nhà vua cùng với người của mình ngồi trên chiếc tràng kỷ khác phía bên kia.
Còn về người khuân vác, nàng bảo:
- Anh đứng dậy đi, và giúp chúng tôi một trong việc sắp làm đây. Một người đàn ông như anh mà chúng tôi coi như người trong nhà, chẳng nên ngồi ì ra như thế.
Anh khuân vác hơi quá chén một chút, nhanh nhẹn đứng bật dậy, và sau khi đắt vạt áo dài vào thắt lưng:
- Tôi đã sẵn sàng – Anh nói – Có việc gì vậy?
- Tốt lắm – Safie bảo – Chờ một chút rồi anh sẽ rõ, anh sẽ không phải khoanh tay lâu đâu.
Một lát sau, Amine đi ra với một chiếc ghế ngồi đem đặt giữa phòng. Rồi nàng đi đến trước một cánh cửa phòng, giơ tay mở và ra hiệu bảo anh khuân vác tới gần.
- Đến đây – Nàng nói – và giúp tôi.
Anh nghe theo, đi vào cùng với nàng và lát sau đi ra tay đắt hai con chó cái đen bằng một cái xích gắn vào cổ dề mỗi con. Hai con chó trông có vẻ đã bị đánh nhiều bằng roi. Anh khuân vác đắt hai con vật ra giữa phòng.
Nàng Zobéide đang ngồi giữa các tu sĩ và nhà vua liền đứng dậy đi tới chỗ anh khuân vác:
- Nào – Nàng thở dài nói – chúng ta hãy làm bổn phận. Nàng vén áo lên tận khuỷu tay và cầm lấy chiếc roi Safie đưa, bảo anh khuân vác:
Anh hãy trao một con cho Amine, còn con kia thì đắt tới đây cho ta.
Anh khuân vác nghe theo và khi tới gần Zobéiđe thì con chó anh đắt theo bắt đầu rên lên ư ử, ngẩng đầu nhìn Zobéide với vẻ van xin. Nhưng Zobéide thản nhiên làm như không nhìn thấy cái vẻ tội nghiệp và tiếng kêu rên của con chó cái, giơ tay quật mạnh chiếc roi vào người nó cho đến lúc không còn hơi sức nữa mới ném roi xuống đất.
Rồi nắm lấy cái xích trong tay anh khuân vác, nâng hai chân trước của con chó lên, người và vật nhìn vào mặt nhau buồn rầu, cảm động và cả hai cùng khóc. Cuối cùng Zobélđe rút khăn tay ra, lau nước mắt cho con chó, hôn nó và trao cái xích cho người khuân vác:
- Anh đắt nó đi, trả về chỗ cũ và đưa con kia tới đây cho ta.
Anh chàng khuân vác đắt con chó vừa bị đánh đưa vào buồng trong, lúc quay về nắm lấy xích con chó thứ hai từ tay Ámine và đưa đến cho Zobéiđe đang đứng đợl.
- Hãy giữ nó như con lúc nãy – Nàng bảo anh khuân vác
Rồi cầm lại chiếc roi, nàng quật xuống người nó như con đầu tiên. Rồi lại khóc cùng với nó, lau nước mắt cho nó và trao trả cho anh khuân vác. Lần này thì tự tay Amine đắt con chó cái thứ hai này vào buồng trong.
Ba người tu sĩ khổ hạnh đạo Hồi, nhà vua và hai người của mình vô cùng ngạc nhiên trước cảnh đó. Họ không sao hiểu được vì cớ gì mà Zobéide sau khi đánh đập dữ dội hai con chó cái, theo đạo Hồi thì đó là những con vật bẩn thỉu, rồi sau đó lại khóc với chúng, lau nước mắt và hôn chúng nữa. Họ thì thầm trao đổi với nhau.
Nhất là nhà vua, nôn nóng hơn cả muốn biết ngay nguyên do của một hành động cực kỳ khác lạ đó, không ngừng ra hiệu cho tể tướng hỏi cho biết sự thể. Nhưng tể tướng ngoảnh đầu sang phía khác cho đến lúc thấy nhà vua vẫn tiếp tục ra hiệu thật thúc bách, ông đành cũng phải ra hiệu trả lời là lúc này chưa thoả mãn tính hiếu kỳ của nhà vua được.
Zobéiđe ngồi nguyên tại chỗ một hồi lâu ở giữa phòng như để lấy lại sức sau khi đã cật lực quất roi hai con chó mực cái.
- Chị thân yêu của em – Nàng Safie xinh đẹp bảo chị – Chị hãy vui lòng trở về chỗ cũ, để đến lượt em làm nhiệm vụ chứ.
- Được Zobéide đáp.
Rồi nàng đến ngồi trên sập. Bên phải nàng là nhà vua, tể tướng Giafar và tổng thái giám Mesruur; bên trái là ba tu sĩ và anh khuân vác…” Đến đây, nàng Scheherazađe nói:
- Tâu hoàng thượng, những gì mà Người vừa nghe chắc là thấy kỳ lạ, nhưng đoạn tiếp của câu chuyện còn kỳ lạ hơn nhiều. Thiếp chắc là Người muốn nghe tiếp vào đêm mai nếu Người cho phép thiếp kể nốt câu chuyện đó.
Hoàng đế thuận ý, đứng dậy vì trời đã sáng.
Dinarzade vừa thức giấc đã vội kêu chị:
- Chị ơi, nếu chị không ngủ nữa thì kể nốt cho em câu chuyện rất hay ngày hôm qua đi.
Hoàng hậu nhớ tới đoạn đang kể dở đêm hôm trước, hướng tới hoàng đế kể tiếp như sau:
“- Tâu hoàng thượng, sau khi Zobéide trở về chỗ ngồi, tất cả mọi người cùng im lặng một lát. Cuối cùng Safle đang ngồi trên chiếc ghế đặt ở giữa phòng, nói với Amine:
“Em thân yêu của chị, em hãy đứng lên, em biết là chị muốn nói gì rồi đấy”. Amine đứng lên bước tới một buồng khác với buồng nhất hai con chó mực cái. Nàng ta trở vào tay cầm một cái túi bọc xa tanh vàng thêu kim tuyến và lót lụa xanh. Nàng đi tới gần Safie và mở chiếc túi, lấy ra một cây đàn trao cho chị.
Safie cầm lấy và sau khi so dây, nàng bắt đầu gảy, theo điệu đàn, nàng hát theo một khúc hát nói lên những nỗi dằn vặt vì xa vắng có sức truyền cảm đến mức hoàng đế và cả mọi người đều nghe một cách say sưa. Nàng vừa đàn vừa hát thật say đắm kèm theo tay múa uyển chuyển theo nhịp điệu.
Xong bài ca nàng bảo Amine: “Này em, chị mệt rồi, lạc cả giọng em hãy thay chị đàn hát hầu các vị đây – Vâng, em rất vui lòng – Amine đáp, bước đến gần Safie nhận chiếc đàn từ tay chị và làm nhiệm vụ thay thế chị.
Amine dạo thử đàn rồi bắt đầu vừa gảy vừa hát lâu cũng như chị về cùng một chủ đề nhưng hăng hái hơn và nàng rất xúc động hay đúng hơn là thấm ý nghĩa của lời ca thật sâu sắc nên biểu diễn song thì kiệt sức.
Zobéide muốn tỏ rõ sự hài lòng của mình, bảo em:
- Em ạ, em đã làm nên điều kỳ diệu. Mọi người đều thấy rõ là em đau chính nỗi đau của mình nên đã diễn tả thật sống động.
Amine chẳng có thời gian để đáp lại tấm lòng trung thực đó. Nàng cảm thấy ngực mình ngột thở đến mức chỉ muốn phanh vạt áo ra cho thoáng khí nhưng bằng cử chỉ này nàng đã để lộ ra mảng ngực và một bầu vú không phải trắng trẻo mịn màng mà một thiếu phụ xinh đẹp như Amine phải có, trái lại ngực nàng dọc ngang đầy những vết sẹo làm cho mọi người kinh hãi. Phanh áo ra cho thoáng mát như vậy nhưng cũng không làm nàng tỉnh táo mà vẫn bị ngất xỉu…” Nhưng, tâu bệ hạ, thiếp không để ý là trời đã sáng rồi đó.
Nàng Scheherazade ngừng lời và hoàng đế đứng lên. Ông vua này đang lưỡng lự, chưa biết quyết định ra sao. Vì hiếu kỳ, ông còn muốn nghe nốt đoạn chót câu chuyện đầy những tình tiết bất ngờ lý thú.
Dinarzade, theo thói quen, nói với hoàng hậu:
- Chị thân yêu của em, nếu chị không ngủ nữa thì xin hãy kể nốt chuyện các thiếu phụ và những tu sĩ Hồi giáo đi chị.
Scheherazade tiếp tục kể như sau:
“ Trong lúc Zobéide và Safie chạy đến cứu trợ cô em thì một trong các tu sĩ cất tiếng phàn nàn: “Chúng ta thà nằm ở ngoài trời còn hơn là vào đây để phải nhìn thấy những cảnh này”: Quốc vương nghe thấy, bước lại gần y và các tu sĩ khác hỏi: “Tất cả những cái đó là thế nào vậy?” Người tu sĩ vừa phàn nàn đáp: “Thưa ngài, chúng tôi cũng chẳng biết gì hơn các ngài – Sao? – Nhà vua nói – Các anh không phải là người nhà này ư? Và các anh cũng không thể cho chúng ta biết chút gì về hai con chó mực cái bị hành hạ tàn tệ và cái bà bị ngất xỉu kia ư? – Thưa ngài – Cả ba tu sĩ đồng thanh – Chúng tôi chỉ mới tới cái dinh thự này lần đầu tiên trong đời, và tới trước ngài chỉ mới một lát”
Điều này càng làm tăng thêm sự kinh ngạc của nhà vua.
- Có thể – Nhà vua phán đoán – Còn người kia, cùng ngồi với các anh đó, có nắm biết được điều gì chăng? Một tu sĩ ra hiệu cho anh khuân vác tới gần và hỏi anh ta có biết vì sao mà hai con chó mực cái bị đánh rơi và vì sao mà bộ ngực nàng Amine lại héo hon và đầy sẹo như vậy.
- Thưa ngài – Anh khuân vác đáp – Tôi thề trước Trời đất thánh thần là nếu các ngài không biết một chút gì cả về cảnh tượng này, thì tôi cũng vậy. Đúng là tôi cư trú tại kinh thành này nhưng hôm nay là lần đầu tiên tôi vào ngôi nhà này và nếu các ngài ngạc nhiên thấy tôi tại đây thì tôi cũng ngạc nhiên không kém là được thấy mình nhập bọn với các ngài. Điều làm tôi ngạc nhiên gấp bội là không thấy một người đàn ông ở cùng với các bà đây.
Hoàng đế vớl những người cùng đi và các tu sĩ cứ đinh ninh anh khuân vác là người nhà các thiếu phụ nên hy vọng có thể qua anh ta biết những điều cần hiểu rõ, nhưng bị thất vọng.
Vị hoàng đế quyết bằng giá nào cũng phải được thoả mãn tính hiếu kỳ của mình, nói với mọi người:
- Các anh hãy nghe đây, chúng ta ở đây có tất cả là bảy người đàn ông và chỉ phải đối phó với ba người phụ nữ, tại sao chúng ta lại không buộc họ phải làm sáng tỏ những điều chúng ta cần biết.
Nếu họ không vui lòng đáp ứng thì chúng ta có cách ép họ nói ra bằng được?
Tể tướng Giafar không đồng tình với ý kiến trên và nêu lên hậu quả của việc làm cho hoàng đế nghe. Ông lựa cách nói như một thương nhân nói với người cùng nghề:
- Thưa ngài – ông nói – Xin ngài hãy nghĩ xem, chúng ta cần phải bảo toàn danh dự. Chúng ta đều biết là với điều kiện như thế nào mà các bà này đồng ý tiếp chúng ta tại nhà vả chúng ta đã chấp nhận.
Người ta sẽ nói gì nếu bị phản lại lời cam kết? Lại càng đáng trách hơn nếu vì thế mà xảy ra điều gì tai hại. Không có vẻ gì là các bà này đòi hỏi chúng ta lời hứa đó để được thấy sự hối hận nếu chúng ta bội ước.
Đến đây, tể tướng kéo hoàng đế ra xa một chút và nói thật khẽ: “Tâu hoàng đế, chẳng mấy chốc nữa là qua đêm, xin Người hãy kiên nhẫn một chút. Thần sẽ cho bắt các bà này vào sáng mai, dẫn họ tới trước ngai vàng, và Người sẽ biết về họ tất cả những gì muốn biết”.
Mặc dù lời khuyên đó vô cùng phải lẽ, hoàng đế vẫn bác bỏ, bắt tể tướng im lặng, bảo ông là muốn được sáng tỏ sự việc ngay bây giờ.
Chỉ còn vấn đề ai sẽ là người phát ngôn. Hoàng đế cố ép các tu sĩ lên tiếng trước, nhưng họ đều cáo lỗi. Cuối cùng, họ nhất trí là anh khuân vác làm việc đó. Anh này đang chuẩn bị nêu lên câu hỏi tai hại này thì Zobéide sau khi đã cứu chữa cho Amine hồi tỉnh, bước lại gần họ. Vì nghe thấy họ bàn bạc to tiếng và sôi nổi, nàng hỏi:
Các ngài bàn việc gì đó? Các ngài có điều gì phản đối?
Anh khuân vác tức thì lên tiếng:
- Thưa bà, các ngài đây muốn được bà vui lòng cho biết là tại sao sau khi hành hạ hai con chó mực cái, bà lại cùng khóc với chúng, và vì sao mà bà bị ngất đi đó lại có bộ ngực đầy vết sẹo.
Đó là, thưa bà điều mà tôi được họ uỷ cho để hỏi bà.
Zobéide nghe thấy vậy, bằng dáng vẻ kiêu hãnh ngoảnh sang phía hoàng đế, và cả bọn người đi theo cùng các tu sĩ khổ hạnh, lạnh lùng hỏi:
- Thưa các ngài, có đúng là các ngài đã uỷ cho hắn ta đặt câu hỏi thế ra với tôi không?”
Tất cả đều trả lời là đúng như thế trừ tể tướng Giafar không nói gì. Nghe lời xác nhận đó, nàng nói với họ bằng một giọng thể hiện rõ sự bất bình vì thấy bị xúc phạm:
- Trước khi đồng ý tiếp các ngài theo yêu cầu của các ngài, và để đề phòng mọi điều có thể làm chúng tôi không được đẹp lòng đối với các ngài vì chúng tôi chỉ toàn là đàn bà con gái.
Vì vậy điều kiện đã được đặt ra là các ngài không được xì xào gì về những sự việc không liên quan gì tới mình sợ rằng sẽ phải nghe những lời không vừa ý. Sau khi được nghênh tiếp và chiêu đãi lịch sự nhất theo khả năng của chúng tôi, thế mà các ngài lại làm sai lời đã hứa. Cái đó một phần cũng là lỗi ở chúng tôi là đã quá dễ dãi. Nhưng về phần các ngài thì không sao tha thứ được. Cách xử sự của các ngài thật không đứng đắn chút nào?
Nói xong nàng dậm mạnh chân và vỗ tay ba lần rồi kêu to:
- Hãy mau lại đây! Mau lên?
Ngảy tức thì một cánh cửa mở toang ra và bảy tên nô lệ da đen to khoẻ bước vào, kiếm cầm tay, mỗi tên tóm lấy một vị khách, đẩy ngã lăn xuống đất, kéo sềnh sệch ra giữa gian phòng, chuẩn bị chặt đầu cả bọn bảy người.
Cũng dễ hiểu là hoàng đế kinh hoàng tới mức nào. Ông hối hận, nhưng đã quá muộn, là đã không nghe theo lời khuyên của tể tướng. Trong khi nhà vua đáng thương, Giafar, Mesrour, anh khuân vác và các tu sĩ sắp phải trả giá bằng cả cuộc sống vì tính tò mò đáng trách của họ thì một trong những tên nô lệ cất tiếng hỏi Zobéide và các cô em:
Thưa các bà chủ cao cả, quyền uy và đáng kính, phải chăng các bà lệnh cho chúng con phải chặt đầu họ?
- Hãy khoan! – Zobéide đáp – Trước hết, ta còn phải hỏi chúng đã.
Thưa bà – Anh khuân vác run rẩy lắp bắp – Nhân danh Thượng đế, xin đừng bắt tôi phải chết vì tội của người khác. Tôi vô tội, chính họ mới là thủ phạm. Than ôi? – Anh ta khóc và nói tiếp – Chúng ta đã vui vẻ biết bao! Chính các tu sĩ chột này là nguyên nhân của tai hoạ, không có thành phố nào mà không chịu cảnh đổ nát điêu tàn trước những con người bất thành nhân dạng ấy.
Thưa bà, tôi xin bà chớ nên nhầm lẫn người đầu với kẻ cuối và nên nghĩ là tha thứ cho một người khốn khổ như tôi, chẳng biết trông cậy vào ai thì thật đẹp hơn là dùng quyền uy để hành hạ và làm vật hi sinh cho sự giận dữ của mình.
Zobéide, mặc dù tức giận cũng không nén được cười thầm trước những lời kêu van của gã khuân vác. Nhưng không dừng lại trước hắn, nàng hỏi lại những người khác lần thứ hai:
Hãy trả lời và cho tôi biết các người là ai. Các người chỉ còn sống được trong chốc lát mà thôi. Tôi không thể tin được các ông là những người đứng đắn cũng chẳng phải là những người có chức có quyền hoặc những người danh giá trong đất nước các ông, cho dù đó là nước nào. Bởi vì nếu đúng là như vậy thì các ông đã biết tự kiềm chế và tôn trọng chúng tôi hơn”.
Hoàng đế, bản chất nôn nóng, thấy đau khổ nhiều hơn những người khác vì thấy sự sống chết của mình phụ thuộc vào sự ra lệnh của một phụ nữ bị xúc phạm và giận dữ một cách chính đáng; nhưng ông bắt đầu cảm thấy một tia hy vọng khi nàng tỏ ra muốn biết thân thế từng người trước khi ra lệnh giết.
Ông tin là nàng sẽ không cho giết khi biết được địa vị của mình. Vì vậy ông nói khẽ với tể tướng sát cạnh mình là tuyên bố ngay cho nàng ta rõ mình là ai. Nhưng tể tướng khôn ngoan và thận trọng muốn cứu với danh dự của chủ mình và không muốn cho lan truyền điều sỉ nhục lớn mà nhà vua chuốc lấy, nên chỉ đáp: “Chúng tôi phải chịu những gì đáng phải chịu”,chứ không tuân lệnh của hoàng đế muốn nói nhừng Zobéide đã hỏi sang các tu sĩ khổ hạnh. Khi nhìn thấy cả ba người cùng bị chột mắt, nàng hỏi có phải anh em không.
Một người trả lời thay cho cả ba: “Không, thưa bà, chúng tôi không phải anh em cùng huyết thống mà chỉ là đồng đạo tức là cùng tuân theo một nếp sống như nhau – Anh – Nàng hỏi riêng một người – Anh có phải là bị chột bẩm sinh không? – Không, thưa bà – Anh này đáp – Tôi bị chột vì một sự cố rất kỳ lạ mà nếu được ghi chép lại thì cũng là chuyện bổ ích. Sau tai hoạ đó, tôi cạo râu và lông mày và trở thành tu sĩ khổ hạnh như y phục tôi đang mang đây”.
Zobéide cũng hỏi hai tu sĩ kia như thế và họ cũng trả lời như người thứ nhất. Nhưng một người nói thêm: “Để bà hiểu, thưa bà, chúng tôi không phải là những người dân thường và để bà có một chút gì xem trọng xin nói để bà rõ cả ba chúng tôi đều là con vua. Dù là chúng tôi mới chỉ biết nhau buổi chiều hôm nay nhưng cũng đã giới thiệu cho nhau biết thân thế mình và chúng tôi có thể đoán chắc với bà là các phụ vương của chúng tôi đều là những ông vua có danh tiếng trong thiên hạ”.
Nghe những lời như vậy, Zobéide cũng nguôi nguôi cơn giận một chút, bảo bọn nô lệ:
- Hãy cho họ tự do đôi chút, nhưng các ngươi vẫn phải ở tại đây. Người nào kể cho chúng ta nghe rõ lai lịch của mình và nguyên nhân vì sao lại tới đây thì ta không xử tệ và sẽ cho họ muốn đi đâu thì đi.
Nhưng chúng ta sẽ không tha những ai khước từ không muốn làm theo điều chúng ta yêu cầu…
” Đến đây Scheherazade ngừng nói và sự im lặng đó cùng với ánh sáng bình minh hé rọi làm cho Schahriar hiểu là đã đến lúc ông phải đứng dậy.
Chương 8: Truyện kể tu sĩ khổ hạnh và kẻ xấu
Thưa bà, để cho bà hiểu vì sao tôi lại mất con mắt bên phải và nguyên nhân buộc tôi mang áo thầy tu, xin thưa với bà tôi là hoàng tử con vua. Vua cha tôi có một người em trai cũng ở ngôi vua như ông tại một nước láng giềng.
Người em này có hai con, một hoàng tử và một công chúa và hoàng tử thì gần như đồng niên với tôi.
Khi tôi đã hoàn thành tất cả những nhiệm vụ được trao, phụ vương cha tôi thường cho tôi được hưởng một thứ tự do thuần khiết và thích đáng. Đều đều hàng năm tôi được đi thăm quốc vương chú tôi và tôi ở lại đó một hoặc hai tháng. Sau đó tôi lại về sống gần phụ vương cha tôi. Những cuộc đi trên đã tạo điều kiện cho hoàng tử em họ tôi và tôi một tình thân thật đậm đà và đặc biệt sâu sắc. Lần gặp nhau vừa rồi, hoàng tử em tiếp tôi với những biểu hiện thân tình chưa từng thấy. Và một hôm để chiêu đãi tôi, chú ta đã chuẩn bị thật là kỳ công. Chúng tôi ngồi vào bàn ăn đã lâu và sau khi cả hai cùng no nê thoả mãn, hoàng tử bảo tôi:
- Anh ạ, anh không thể đoán được là em đã bận tâm về việc gì từ cuộc đến thăm của anh lần trước đâu. Đã được một năm kể từ ngày anh trở về bên bác, em đã thuê rất nhiều thợ làm việc để thực hiện một ý đồ mà em đã nghiền, ngẫm.
Em đã cho xây xong một đinh thự và bây giờ đã có thể ở được.
Chắc là anh sẽ rất thích được tới xem. Nhưng trước hết anh phải hứa với em là tuyệt đối giữ bí mật và phải một dạ trung thành. Đó là hai điều em đòi hỏi ở anh. Tình bạn thân thiết và tình ruột thịt gia đình giữa chúng tôi không cho phép tôi từ khước một điều gì, vì vậy tôi không chút ngần ngại thề như ý em tôi muốn và em tôi liền bảo:
- Anh hãy chờ em tại đây, một lát nữa em sẽ quay lại. Đúng vậy, chỉ một lát sau em tôi trở về và đi cùng một thiếu nữ rất xinh đẹp, quần áo sang trọng. Em chẳng nói cho tôi biết nàng là ai và tôi thấy cũng chẳng nên tò mò làm gì. Chúng tôi lại ngồi vào bàn tiệc cùng người thiếu nữ đó một lát, nói chuyện về nhiều vấn đề và uống chúc mừng sức khoẻ lẫn nhau.
Sau đó hoàng tử bảo tôi: “Anh họ ạ, chúng ta không có nhiều thời gian đâu. Anh hãy giúp em đưa phu nhân này tới phía đó, ở cái chỗ mà anh sẽ nhìn thấy một ngôi mộ có vòm mới xây. Anh sẽ nhận biết dễ dàng. Cửa hầm mộ đã mở sẵn, hai người cùng vào trong đó và chờ em. Em sẽ tới ngay thôi”.
Trung thành với lời hứa, tôi chẳng muốn tìm hiểu gì hơn, giơ tay cho nàng và theo những chỉ dẫn của hoàng tử em họ, tôi dẫn nàng đi dưới ánh trăng. Vừa tới chỗ ngôi mộ, chúng tôi đã nhìn thấy hoàng tử đi phía sau chúng tôi, mang theo cái bình chứa đầy nước, một cái cuốc và một túi nhỏ đựng vôi vữa.
Hoàng tử dùng cuốc phá dở nấm mồ trống không, bê lần lượt các tảng đá xếp vào một góc. Rồi chú ấy đào đất sâu xuống và tôi thấy hiện ra một cái nắp dưới đáy huyệt mộ. Hoàng tử lật cái nắp đậy lên và tôi nhìn thấy ở phía dưới, đầu một cầu thang xoáy trôn ốc. Thế rồi ông em họ tôi nói với thiếu nữ:
Đó là lối để đi tới chỗ mà tôi đã nói.
Người thiếu nữ bèn đi tới gần và đưa chân bước xuống, hoàng tử em tôi đi theo, nhưng trước khi cũng bước xuống bèn quay lại nói với tôi: “Anh họ của em, em rất biết ơn sự giúp đỡ của anh. Xin cảm ơn và vĩnh biệt anh.
– Em họ thân mến của anh – tôi kêu lên – Thế này là nghĩa làm sao? – Thế là đủ rồi anh ạ – Chú em tôi đáp – Anh có thể trở lại con đường anh vừa đi tới đây”
Scheherazade kể đến đây thì trời vừa sáng, nàng chẳng thể vượt điều đã qui định. Hoàng đế cũng đứng lên, trong lòng băn khoăn về ý đồ của người hoàng tử và vị phu nhân dường như muốn tự chôn sống mình.
Ông đành nóng lòng chờ đến đêm hôm sau để được sáng tỏ chuyện đó.
- Chị ơi, nếu chị không còn ngủ nữa – Dinarzade gọi chị trước khi trời sáng – Em xin chị kể tiếp chuyện người tu sĩ thứ nhất cho em nghe đi.
Schahrlar cũng tỏ ý với hoàng hậu là ông rất muốn nghe hoàng hậu kể tiếp chuyện đó. Scheherazade kể tiếp như sau:
“ Người tu sĩ nói với Zobéide:
- Tôi không thể moi gì được thêm ở hoàng tử em họ tôi nên buộc phải chia tay với y. Khi trở về hoàng cung, của quốc vương chú tôi, chất men rượu bốc lên đầu nhưng tôi cũng về được tới phòng riêng nằm ngủ như chết.
Hôm sau thức dậy, nghĩ lại những gì đã xảy ra đêm trước, và sau khi nhớ lại tất cả những chi tiết của một sự kiện thật là kỳ lạ, tôi ngỡ đó là một giấc mộng. Đinh ninh với ý nghĩ đó, tôi cho người đi tìm hiểu xem hoàng tử em họ tôi có ở nhà không. Nhưng khi người ta cho biết là y không ngủ ở nhà và cũng không biết y ra sao trong lúc này.
Mọi người đều lấy làm lo lắng, tôi thấy rõ là chuyện kỳ lạ về ngôi mộ là hoàn toàn có thật. Tôi rất buồn và tránh mặt tất cả, tôi bí mật một mình đi tới nghĩa địa mà ở đó có vô vàn những nấm mồ giống như nấm mồ tôi đã thấy hôm qua. Suốt một ngày tôi xem xét hết cái này đến cái khác nhưng không sao nhận biết được ngôi mộ nào là cái tôi đã thấy. Liên tiếp bốn ngày tôi tìm tòi một cách vô ích.
Cũng cần biết thêm là suất thời gian đó quốc vương chú tôi đi vắng. Nhiều ngày liền, ông mải đi vào cuộc săn thú rừng. Chờ đợi lâu tôi rất sốt ruột nên sau khi nhờ các quan trong triều cáo lỗi hộ khi Người trở về và tôi rời hoàng cung của ông để về với triều đình của phụ vương cha tôi mà tôi không quen sống xa quá lậu.
Những đại thần của triều đình chú tôi rất lo lắng về việc hoàng tử em họ tôi mất tích. Nhưng trung thành với lời thề là giữ bí mật cho y, tôi không dám cho họ rõ những gì tôi biết về hoàng tử.
Tôi về tới kinh đô nơi cha tôi trị vì. Trái với lệ thường, tôi thấy trước cổng hoàng cung rất nhiều lính vệ binh và tôi bị bao vây ngay lúc mới bước vào. Hỏi lý do, viên sĩ quan cận vệ cho tôi biết là quân đội đã suy tôn viên tể tướng lên nối ngôi thay cha tôi đã mất và tôi bị bắt làm tù binh theo lệnh của quốc vương mới.
Bọn vệ binh bắt trói tôi và đưa đến trước tên bạo chúa. Bà thử xem, thưa bà, sự kinh ngạc và nỗi đau của tôi lớn đến mức nào.
Tên tể tướng phản động này đã mời mối hận thù với tôi đã rất lâu rồi. Và nguyên nhân là đây: Trong tuổi ấu niên, tôi rất thích bắn cung. Một hôm tôi cầm một cây cung đứng trên sân thượng cung điện tập bắn.
Có một con chim đậu phía trước, tôi nhằm bắn nhưng trượt và chẳng may mũi tên bay lạc cắm vào mắt viên tể tướng lúc đó đang đứng hóng mát trên sân thượng nhà ông và làm ông ta nổ một mắt. Khi biết tin tai hoạ đó, tôi cho người đến tạ lỗi và tự mình cũng đến tạ lỗi với ông. Nhưng ông vẫn mang lòng hận thù và chỉ chờ dịp để trả hận. Khi thấy tôi đã ở trong tay, hắn nhảy xổ vào tôi như một thằng điên, chọc thẳng ngón tay vào mắt phải tôi và móc ra. Đó, tôi bị chột mắt là vì thế.
Nhưng kẻ tiếm quyền không ngừng tính độc ác của hắn tại đó. Hắn cho giam tôi trong một chiếc hòm và ra lệnh cho đao phủ cứ thế mang tôi ra xa kinh thành, để cho lũ ác điểu rỉa thịt sau khi đã chặt đầu tôi.
Tên đao phủ cùng với một tên nữa cưỡi ngựa, mang theo cái hòm, dừng lại trên cánh đồng vắng để thi hành mệnh lệnh. Tôi khóc lóc van xin khiến chúng mủi lòng.
Tên đao phủ bảo tôi:
- Đi đi, đi ra mau khỏi vương quốc và đừng trở về nữa vì anh sẽ chết và tơi cũng bị chết lây đó.
Tôi cảm ơn tên đao phủ và khi chỉ còn lại một mình tôi tự an ủi dù bị mất một con mắt nhưng đã tránh được tai hoạ mất đi cả cuộc sống.
Với tình trạng như thế nên tôi chẳng đi được bao ngã quãng đường dài. Ban ngày tôi ẩn mình vào những nơi hẻo lánh kín đáo, tôi chỉ đi hoàn toàn vào ban đêm, gắng hết sức mình càng đi được mau càng tốt.
Cuối cùng tôi tới được vương quốc của chú và đi thẳng vào kinh đô.
Tôi kể cho chú tôi nghe với tất cả chi tiết nguyên nhân khốc liệt của sự trở về và tình trạng bi thảm lúc này mà chú tôi thấy.
- Than ôi? – Ông thốt kêu lên – Mất một đứa con thế chưa đủ sao! Mà ta lại còn phải hay tin cái chết của một người anh trai vô cùng thân thiết, lại còn phải nhìn thấy tình trạng thảm thương của cháu ta thế này.
Chú tôi tỏ ra vô cùng lo lắng về việc chẳng được có một tí tin tức nào về hoàng tử con trai ông dù đã cho đi lùng tìm ráo riết. Người cha khốn khổ này khóc ròng khi than thở cùng tôi và tỏ vẻ vô cùng đau khổ làm tôi không sao đừng được mà phải kể lại cho ông nghe tất cả những gì tôi biết mặc dù tôi đã phát lời thề với hoàng tử em họ tôi.
Nhà vua lắng nghe tôi nói có vẻ như được an ủi phần nào. Khi tôi dứt lời, ông nhìn tôi hỏi:
- Cháu của chú, chuyện cháu vừa kể đưa lại cho chú một đôi chút hy vọng. Chú biết là con chú đã cho xây nhà mồ đó và chú biết nó ở chỗ nào. Với trí nhớ của cháu, ta tin là có thể tìm thấy.
Nhưng vì nó đã bí mật xây và còn đòi hỏi ở cháu phải giữ kín, ta thấy là nên tránh chuyện ồn ào: chỉ hai chú cháu ta đi tìm thôi.
Còn một lý do nữa mà chú tôi không nói ra là không muốn cho tất cả mọi người biết chuyện. Lý do này rất quan trọng mà chúng ta sẽ thấy rõ ở đoạn tiếp lời thuật lại của tôi.
Hai chú cháu cùng cải trang và ra khỏi hoàng thành bằng cửa khu vườn mở ra phía cánh đồng. Chúng tôi may mắn tìm ngay ra được cái cần tìm. Tôi vô cùng sung sướng nhận ra cái nhà mồ mà mấy hôm trước đã mất bao công tìm kiếm vô ích. Chúng tôi bước vào và tìm ra được cái cửa sắt chặn lối xương cầu thang.
Mất rất nhiều công sức với cái cửa này vì hoàng tử em tôi đã trát kỹ phía trong bằng túi vữa chú ta mang theo. Nhưng rồi cuối cùng chúng tôi cũng nâng lên được.
Quốc vương chú tôi bước xuống trước. Tôi theo sau và chúng tôi phải đi xuống khoảng năm chục bậc thang. Khi đã xuống tới chân cầu thang, chúng tôi thấy mình đang ở trong một tiền phòng đầy khói và bốc lên mùi hôi hám.
Khói làm cho ánh sáng toả ra từ một cái đèn chùm rất đẹp bị mờ hẳn đi.
Từ gian phòng này chúng tôi bước sang một gian phòng khác to rộng có những cột lớn và được nhiều chùm đèn chiếu sáng. Giữa phòng là một thùng lớn chứa nước và bên cạnh xếp nhiều loại thức ăn.
Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên vì chẳng nhìn thấy một người nào.
Trước mặt chúng tôi kê một cái sập khá cao có bậc để trèo lên và trên sập là một chiếc giường rộng có điềm che kín. Nhà vua đặt chân vào bậc trèo lên, mở diềm che và nhìn thấy hoàng tử con trai ông và người thiếu nữ nằm cạnh nhau nhưng thân thể cả hai đều bị đốt cháy đen như thể có ai ném họ vào một lò lửa lớn rồi lôi ra kịp trước khi bị thiêu cháy hoàn toàn thành than.
Điều làm tôi ngạc nhiên hơn cả, là trước cảnh tượng làm mọi người kinh hoàng đó thì nhà vua chú tôi, đáng lẽ phải rất đau buồn thấy con trai mình trong tình trạng thê thảm như vậy thì ông lại nhổ vào mặt con và phẫn nộ kêu lên: “Đó là sự trừng phạt trên thế gian này nhưng ở thế giới bên kia thì sự trừng phạt sẽ còn kéo dài vĩnh viễn”. Chưa bằng lòng với lời xỉ vả đó, ông còn tháo giày ra cầm tay đập mạnh vào mặt hoàng tử, con trai ông.”
- Nhưng, tâu hoàng thượng – Scheherazade nói – Trời đã lại sáng rồi, thiếp tiếc là Người chẳng còn được thư thả để nghe thiếp kể tiếp nữa.
Vì câu chuyện về tu sĩ thứ nhất chưa kể xong và thật lạ lùng với hoàng đế nên ông quyết định nghe kể tiếp vào đêm sau và đứng lên
Hôm sau Dinarzade thức giấc sớm hơn mọi khi. Nàng gọi chị Scheherazade và bảo:
Hoàng hậu tốt bụng của em ơi, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin chị kể nốt chuyện người tu sĩ thứ nhất cho em nghe đi. Em sốt ruột muốn biết đoạn kết ra sao.
- Vậy thì thế này nhé – Scheherazade bảo – Em thấy là tu sĩ thứ nhất đang tiếp tục kể chuyện của mình với nàng Zobéide. Anh ta nói:
- Tôi không sao tả được, thưa bà, sự ngạc nhiên của mình khi thấy quốc vương chú tôi lại hành hạ hoàng tử con mình đã chết rồi như thế. Tôi nói với ông:
- Tâu bệ hạ, dù sự tang tóc này có làm cho cháu đau đớn tới mức nào thì cháu cũng cố nén lại để xin chú cho biết hoàng tử em họ cháu đã phạm tội gì để Người phải đối xử như thế với thi hài của em.
- Cháu của ta! – Nhà vúa đáp – Ta có thể nói là con trai ta không xứng đáng được mang tên gọi đó. Nó yêu em gái nó từ khi còn nhỏ và em gái nó cũng yêu nó như vậy. Ta không phản đối cái tình cảm đó bởi vì ta không lường trước được điều xấu có thể xảy ra. Ai mà có thể dự kiến được cái đó? Tình cảm âu yếm đó tăng lên theo tuổi và tiến tới điểm mà bác lo là sẽ gây hậu quả không hay. Ta tìm cách ngăn ngừa trong phạm vi quyền lực của mình. Không những ta kéo riêng con trai mình ra một chỗ để răn đe, vạch cho nó thấy rõ sự kinh tởm của mối tình say đắm mà nó sa vào và sự nhục nhã mãi mãi của cả một dòng tộc nếu nó cứ nhắm mắt lao theo những tình cảm tội lỗi.
Ta còn răn đe con gái ta cũng những điều như thế và bắt nó cấm cung để không còn liên hệ được với anh trai nó nữa. Nhưng con bé khốn kiếp đã ăn phải bả độc rồi nên tất cả những cấm đoán vì lo xa chúng rơi vào sự loạn luân bất chính chỉ càng làm cho nó như bị kích thích thêm mà thôi.
Con trai chú chắc là em gái nó đối với nó vẫn như trước đây, mượn cớ xây lăng mộ, nó chuẩn bị chỗ ở dưới đất này với hy vọng có ngày nào đó tạo cơ hội để bắt cóc đối tượng yêu đương của nó rồi mang tới đây.
Nó đã chọn ngày chú đi vắng để xông vào nơi giam giữ em gái nó, phá cửa đưa em gái ra.
Đó là điều mà danh dự không cho phép chú công bố. Sau hành động đáng phải lên án như thế, nó cùng với em gái đến ẩn náu tại đây. Cháu xem đấy, chúng đã chuẩn bị đủ các loại thức ăn để cùng nhau tận hưởng lâu lâu mối tình đáng khinh bỉ mà mọi người đều ghê tởm. Nhưng Thượng đế chẳng bỏ qua hành động bỉ ổi này và Người đã trừng phạt đích đáng cả hai đứa.
Nói dứt câu trên, ông bật khóc nức nở và tôi cũng hoà nước,mắt cùng ông.
Một thời gian sau, ông để mắt tới tôi, ông ôm hôn tôi và nói:
- Cháu yêu quí, ta đã mất đứa con chẳng ra gì, nhưng lại sung sướng thấy ở cháu một con người xứng đáng để thay thế nó.
Những suy nghĩ mà chú tôi gợi lại về cái kết thúc bi thảm của hoàng tử và công chúa, hai con của Người đã khiến cả chú tôi và tôi không cầm được nước mắt.
Chúng tôi trèo lên cũng bằng các bậc thang đó và rời khỏi cái chốn chết chóc ấy. Chúng tôi hạ cái cánh cửa sắt xuống và đắp đất dày lên trên, cố gắng che giấu đi cái hậu quả khủng khiếp của cơn thịnh nộ mà Thượng đế đã ra tay.
Chúng tôi trở lại hoàng cung mà không một ai biết đã vắng mặt. Chưa được bao lâu thì nghe thấy tiếng kèn, trống, thanh la những khí cụ chiến tranh khác nổi lên vang dậy. Một đám bụi khổng lồ dày đặc bốc lên làm không gian mờ mịt đã cho chúng tôi biết có gì xảy ra. Một đạo quân đông đảo đang tiến tới gần.
Đó cũng chính là tên tế tướng đã cướp ngôi vua của cha tôi, bây giờ lại muốn chiếm cả đất nước của chú tôi với một lực lượng quân sĩ đông vô kể.
Vị quốc vương này lúc đó chỉ có một đội quân cận vệ bình thường không thể cự địch với kẻ thù hùng hậu. Chúng tấn công đô thành và vì các cổng thành đều bỏ ngỏ không đề kháng, nên chúng dễ dàng làm chủ.
Cũng chẳng khó khăn gì mà chúng tiến vào tới tận cung điện của chú tôi.
Ông ra sức kháng cự nhưng đã bị chúng giết sau khi bắt chúng phải trả giá đắt cho mạng sống của mình. Về phần mình, tôi cũng chiến đấu được một thời gian nhưng xét thấy một mình chẳng địch nổi được số đông nên tìm cách rút lui. May mắn cho tôi là đã dựa được vào các ngóc ngách thoát được ra ngoài vòng vây tìm đến nhà một vị võ quan mà lòng trung thành đã được thử thách, nhờ cứu giúp.
Ê chề đau khổ và bị số phận đầy đoạ, tôi phải nhờ đến một mẹo nó là phương sách cuối cùng để bảo toàn tính mệnh. Tôi cạo nhẵn râu ria và cả lông mày, mặc áo tu sĩ khổ hạnh, đi ra khỏi kinh thành chẳng thu hút sự chú ý của ai.
Nhờ đó, tôi đã dễ dàng đi ra khỏi đất nước của quốc vương chú tôi, bằng những con đường đi vắng vẻ hẻo lánh. Tôi tránh không đi qua các thành phố, cho đến khi tới được bờ cõi của đức thống lĩnh các tín đồ, hoàng đế vinh quang và danh tiếng Haroun Alraschid, tôi mới hết sợ. Thế là tôi tự hỏi phải làm gì lúc này, tôi quyết định là phải đi tới Bagdad, quỳ xuống chân vị hoàng đế vĩ đại mà ai cũng ca ngợi đức tính khoan dung độ lượng. Tôi tự nhủ:! Ta sẽ làm cho Người xúc động bằng câu chuyện kỳ lạ của ta, Người sẽ rủ lòng thương một hoàng tử tội nghiệp và ta sẽ chẳng uổng công cầu xin sự trợ giúp của Người”.
Rồi, sau một cuộc đi dài nhiều tháng trời, hôm nay tôi đã tới trước cổng kinh thành này. Lúc tôi vào thành thì trời đã về chiều. Dừng lại một lát cho tĩnh trí và để xem phải đi về hướng nào thì tu sĩ này, người ngồi cạnh tôi đây đi tới cũng như một du khách. Anh ta chào tôi, tôi chào lại và hỏi: “Có vẻ bạn cũng là khách lạ như tôi?”. Anh ta đáp là tôi đã không lầm.
Trong khi anh ta trả lời tôi như thế thì người tu sĩ thứ ba mà các vị thấy đây, chợt đi tới. Anh ta chào chúng tôi và cho biết anh ta cũng là khách lạ và là lần đầu đến Bagdad. Vì là đồng đạo, nên chúng tôi đi cùng với nhau và quyết định không rời nhau nữa. Tuy nhiên, đêm đã khuya, chúng tôi chẳng biết tìm đâu ra nơi trọ ở một thành phố chưa tới lần nào, hoàn toàn lạ lẫm.
Nhưng số phận may mắn đã đưa chúng tôi đến trước cửa đinh thự của các bà và mạnh bạo gõ cửa. Các bà đón tiếp chúng tôi với tấm lòng nhân hậu và hào phóng khiến chúng tôi vô cùng biết ơn. Đó, thưa bà – Anh ta nói thêm – đó là toàn bộ câu chuyện mà bà ra lệnh cho tôi kể hầu bà để rõ tại sao mà tôi chột mắt phải, vì sao râu tóc, lông mày tôi cạo nhẵn và tại sao lúc này tôi lại ở tại nhà quý bà.
- Đủ rồi – Zobéide nói – Chúng tôi rất hài lòng. Ngài hãy đi đi? Đi đâu tuỳ ý.
Chàng tu sĩ xin lỗi và xin được ở lại để có được cái thích thú là được nghe chuyện của hai người đồng đạo mà anh không thể, như anh nói, bỏ lại đột nhiên như vậy, và còn cả chuyện của ba vị khác nữa cùng trong nhóm người có mặt hôm nay.”
Tâu bệ hạ – đến đây Scheherazade nói – trời sáng rồi, thiếp chẳng kể tiếp được sang chuyện của người tu sĩ thứ hai. Nhưng nếu Người muốn nghe vào đêm mai thì Người sẽ thấy chẳng kém hứng thú như chuyện của tu sĩ thứ nhất.
Hoàng đế bằng lòng và đứng lên để đi tới phòng thiết triều.
Dinarzade chắc chắn là chuyện của người tu sĩ thứ hai cũng sẽ hay chẳng kém chuyện người tu sĩ đầu nên không quên gọi hoàng hậu trước khi trời sáng:
- Chị ơi, nếu chị đã thức thì xin chị hãy bắt đầu kể chuyện mà chị đã hứa hôm qua đi.
Scheherazade hướng về hoàng đế và nói thế này:
“- Tâu bệ hạ, chuyện người tu sĩ thứ nhất làm cả bọn thích thú về tính chất kỳ lạ của nó, đặc biệt là đối với vị hoàng đế. Sự có mặt của những nô lệ kiếm lăm lăm trong tay cũng không ngăn được ông rỉ tai viên tể tướng: “Từ khi lớn lên, ta đã được nghe nhiều chuyện, nhưng không có chuyện nào từa tựa như chuyện của tu sĩ này”.
Trong lúc hoàng đế nói như thế thì người tu sĩ thứ hai cất tiếng nói với Zobéide:
Chương 9: Chuyện kể tu sĩ khổ hạnh thứ hai
Thưa bà – Anh nói – Tuân theo lệnh của bà và để cho bà rõ vì nguyên cớ lạ lùng nào mà tôi lại bị chột mắt phải, tôi phải kể lại toàn bộ câu chuyện của đời tôi.
Chưa thật đọc thông viết thạo mà tôi đã thuộc lòng toàn bộ kinh Coran, cuốn sách tuyệt diệu chứa đựng các cơ sở nền tảng giáo huấn và quy tắc của tôn giáo chúng ta. Và để được giáo dục thật sâu sắc, tôi đọc những tác phẩm của các tác giả được hoan nghênh nhất đã làm sáng tỏ thêm thánh kinh bằng những lời bình luận của họ.
Thêm vào việc đọc đó, tôi học hỏi tất cả những lời truyền miệng của đấng tiên tri của chúng ta do những vĩ nhân cùng thời đại thu lượm được. Tất cả những gì liên quan tới đạo giáo của chúng ta, tôi đều để công nghiên cứu: tôi đặc biệt đi sâu vào môn lịch sử, văn học nghệ thuật, đọc thơ và làm thơ.
Tôi say mê môn địa lý, khoa biên niên sử, khoa ngôn ngữ học tuy nhiên cũng không lơ là xem nhẹ những bài tập võ nghệ mà một hoàng tử cần phải hiểu biết. Nhưng một môn mà tôi vô cùng yêu thích do đó mà đạt được thành công hơn cả là hoàn thiện các từ ngữ của tiếng A Rập chúng ta. Tôi đạt nhiều tiến bộ trong lĩnh vực này nên đã vượt tất cả những văn nhân bậc thầy trong toàn vương quốc đã từng gặt hái được danh tiếng lẫy lừng.
Sự nổi tiếng mang lại cho tôi nhiều vinh dự hơn cả phần tôi xứng đáng được hưởng. Sự nổi tiếng đó không những được truyền bá ở trong nước mà lan sang tới cả triều đình Ấn ĐỘ mà vị hoàng đế hùng mạnh ở đây, muốn được tận mắt mình thấy, đã cử một sứ thần với nhiều tặng vật quí tới yết kiến phụ vương cha tôi để xin phép cho tôi được đi tới triều đình của người.
Phụ vương tôi rất hài lòng với sứ bộ này vì nhiều lẽ. Ông thấy rằng không gì phù hợp hơn một hoàng tử ở tuổi tôi là được đi du ngoạn tới các triều đình nước ngoài, hơn nữa ông cũng rất mong muốn gây dựng tình hữu nghị với hoàng đế Ấn ĐỘ. Như vậy là tôi đi cùng với sứ thần nhưng với rất ít hành lý vì đường xa và trên đường đi còn có nhiều khó khăn trở ngại.
Đã một tháng rong ruổi, rồi một hôm chúng tôi chợt phát hiện thấy đằng xa một đám mây bụi lớn và dưới đám bụi đó là năm mươi kỵ sĩ vũ trang đầy mình. Đó là những tên cướp đang phi ngựa nước đại nhằm phía chúng tôi đi tới…
Scheherazade kể tới đây, thấy trời hé sáng liền báo cho hoàng đế hay. Ông bèn đứng lên. Nhưng vì muốn biết những gì sẽ xảy ra giữa năm mươi tên cướp và sứ thần Ấn Độ, vị hoàng đế này đành phải kiên nhẫn chờ đến đêm sau.
Hầu như trời đã sáng khi Dinarzade thức giấc vào hôm sau.
- Chị thân yêu của em – Nàng gọi hoàng hậu – Nếu chị không ngủ nữa thì kể nốt cho em nghe chuyện của tu sĩ thứ hai đi.
Scheherazade kể tiếp như sau:
“Thưa bà – Tu sĩ nói tiếp với Zobéide – Vì chúng tôi chỉ có mười con ngựa chở hành lý và những tặng vật của cha tôi để dâng lên hoàng đế Ấn Độ, và chúng tôi lại có rất ít người, vậy nên bọn cướp kia chẳng ngần ngại gì mà không xông đến. Không thể lấy sức mà đối phó với chúng được, chúng tôi bảo chúng, đây là đoàn sứ bộ của hoàng đế Ấn Độ, hy vọng vì kính nể Người mà chúng để chúng tôi yên. Nhưng bọn cướp đáp lại một cách hỗn xược: “Vì sao các ngươi lại muốn chúng ta kính trọng hoảng đế chủ ngươi? Chúng ta chẳng phải thần dân của ông ta và cũng chẳng trú ngự trên đất đai của ông ta kia mà”. Nói xong chúng bao vây và tấn công chúng tôi.
Tôi chống cự lại hết sức mình, nhưng cảm thấy đã bị thương và nhìn thấy sứ thần, người của ông và của tôi đều đã bị đánh ngã lăn xuống đất, tôi lợi dụng sức tàn của con ngựa cũng đã bị thương nặng, nhảy lên và phóng ra xa bọn chúng. Tôi thúc ngựa chạy bừa chừng nào nó còn mang nổi tôi, nhưng bất thần nó khuỵu xuống, chết thẳng cẳng vì quá sức và vì mất máu nhiều. Tôi rút chân ra khỏi bàn đạp mau chóng và không thấy tên cướp nào đuổi theo, chắc là chúng còn chúi đầu vào các thứ cướp được để chia chác”.
Kể tới đây, Scheherazade thấy trời đã sáng, buộc phải dừng lại.
- Ôi? Chị của em – Dinarzade nói – Chị không còn thời gian để kể tiếp nữa rồi. Chán quá đi mất?
- Nếu hôm nay em không lười mà ngủ quên thì chị đã kể được nhiều hơn rồi – Hoàng hậu bảo.
- Vậy thì, đêm mai em sẽ dậy sớm hơn – Dinarzade nói – Mong là chị sẽ đền bù lại để thoả mãn hiếu kỳ của hoàng đế mà vì em Người đã chịu thiệt thòi.
Schahriar không nói gì và đứng lên đi làm nhiệm vụ hàng ngày của mình.
Dinarzade không quên gọi hoàng hậu sớm hơn hôm trước.
- Chị thân yêu – Nàng nói – Nếu chị đã thức thì xin chị kể tiếp chuyện về tu sĩ thứ hai đi chị.
- Chị đồng ý – Scheherazade đáp, và ngay lúc đó nàng kể tiếp như sau:
“Thế là, thưa bà – Tu sĩ nói – Đơn độc, bị thương, không được ai cứu giúp, trong một xứ sở xa lạ, tôi không dám trở lại đi trên đường cái sợ là lại rơi vào tay bọn cướp. Sau khi băng bó vết thương cũng không nặng lắm, tôi bước đi cho đến chiều tối tới chân một quả núi. Tôi thấy ở sườn núi có một cửa hang.
Tôi vào trong hang và qua đêm ở đó một cách yên tĩnh sau khi đã ăn một vài trái cây hái trên dọc đường đi.
Ngày hôm sau và những ngày tiếp theo tôi vẫn đi vì chưa thấy chỗ nào thuận lợi có thể dừng chân. Sau một tháng ròng đi như thế tôi tới một thành phố lớn rất đông dân có nhiều con sông chảy qua.
Ở đây như suốt năm tháng là mùa xuân bất tận.
Cảnh tượng êm đềm bày ra trước mắt khiến tôi thấy vui vui tạm quên đi nỗi buồn da diết khi thấy thân phận mình nên nông nỗi ấy.
Mặt mũi chân tay tôi sạm đen vì năng gió, giày dép rách nát, quần áo lươm tươm.
Tôi vào trong thành phố để dò hỏi xem đây là đâu. Tôi hỏi một người thợ may trong cửa hàng của anh ta. Thấy tôi còn trẻ và dáng điệu có cái gì đó khác người thường, anh ta cho tôi ngồi xuống bên cạnh và hỏi tôi là ai, từ đâu đến và có việc gì mà tới đây. Tôi chẳng giấu giếm tất cả những gì xảy ra với tôi và cũng nói thực thân thế của mình.
Người thợ may chăm chú nghe nhưng khi tôi nói xong thì không những ông ta chẳng có một lời an ủi mà còn làm cho tôi phiền não hơn: “Hãy giữ mồm giữ miệng – Ông ta bảo tôi – Chớ có tâm sự với bất cứ ai những gì mà cậu vừa tâm sự với tôi vì quốc vương trị vì ở đây vốn là kẻ thù lớn nhất của quốc vương cha cậu.
Ông ta chắc sẽ làm nhục cậu nếu được biết là cậu tới thành phố này”. Tôi không nghi ngờ về sự thành thực của người thợ may khi ông ta nói tên vị quốc vương. Nhưng vì mối hiềm thù giữa vua cha và ông ta chẳng liên quan gì tới cảnh ngộ của tôi nên tất hơn là tôi không nói gì về chuyện đó.
Tôi cảm ơn bác thợ may đã có lời khuyên và tôi nói bác biết là sẽ triệt để nghe theo và sẽ không bao giờ quên niềm vui được gặp bác. Vì bác thấy tôi đang có vẻ đói nên mang các thức ăn ra cho tôi và còn cho tôi ngủ lại, tôi đã nhận lời.
Sau đó ít ngày, thấy là tôi đã lấy lại được sức khoẻ bị suy sụp trong một chuyến đi dài mệt nhọc và gian khổ và biết là phần lớn các ông hoàng theo đạo Hồi thường có một nghề hoặc am hiểu một nghệ thuật nào đó để phòng những lúc gặp vận chẳng may thì đem ra sử dụng nếu cần. Bác hỏi tôi là còn biết nghề gì kiếm sống để không phải nhờ vả ai không. Tôi đáp là có thạo môn nọ môn kia, là một nhà ngữ pháp, một nhà thơ v.v… Và nhất là viết chữ rất đẹp.
- Với tất cả những gì mà cậu vừa nói – Bác bảo – cậu sẽ chẳng làm gì được để có một mẩu bánh đâu. Ở đây chẳng có gì là vô tích sự hơn những hiểu biết các loại đó. Nếu nghe lời khuyên của tôi – Bác nói thêm – thì cậu sẽ kiếm một chiếc áo cộc và, trông cậu có vẻ khoẻ mạnh tráng kiện, cậu sẽ vào rừng gần đây kiếm củi đốt đem ra chợ bán, tôi chắc chắn là cậu sẽ sống chẳng phải nhờ vả ai cả. Với cách này, cậu có thể chờ thời cơ thuận lợi, trời đẹp sẽ xua tan đám mây mù đã làm hạnh phúc cuộc đời cậu u ám buộc cậu phải giấu giếm dòng dõi của mình. Tôi sẽ lo kiếm cho cậu một sợi dây thừng và một chiếc rìu bổ củi.
Lo vì sợ bị nhận ra và nhu cầu sống khiến tôi chẳng dám ngần ngại mặc dù nghề kiếm củi đi bán quả là hèn kém và nặng nhọc.
Ngày tiếp sau đó, bác thợ may mua cho tôi một cái rìu và một sợi dây thừng cùng với một chiếc áo cộc và gửi gắm tôi cho những người dân nghèo cũng sống bằng nghề kiếm củi. Bác đề nghị với họ là cho tôi đi theo.
Họ đưa tôi vào rừng và ngay ngày đầu tiên, tôi đã đội đầu mang về một bó củi lớn đem bán được nửa đồng tiền vàng của nước này dù rằng rừng không xa, củi gỗ đáng lẽ chẳng lấy gì làm đắt ở thành phố này, nhưng ít người chịu vào rừng kiếm. Trong một thời gian ngắn tôi đã kiếm được khá nhiều tiền, thừa để trả nợ bác thợ may đã ứng trước cho tôi.
Đã được hơn một năm sống như thế thì một ngày kia tôi đi sâu vào rừng hơn mọi ngày, tới một nơi phong cảnh thật đẹp, tôi bắt đầu chặt cành lấy củi. Lúc bứt lên một chùm rễ cây, tôi nhìn thấy một cái vòng sắt gắn vào một cái nắp cũng bằng sắt. Tôi gạt hết đất đá phủ bên trên nắm lấv cái vòng kéo nắp đậy lên thì thấy một đầu cầu thang, tôi tò mò vác rìu bước xuống.
Tới chân cầu thang, tôi thấy mình đang đứng trước một lâu đài to rộng, ánh sáng chiếu rọi chẳng khác gì trên mặt đất ở chỗ quang đãng nhất làm tôi choáng ngợp. Tôi bước đi trên một hành lang có những cây cột bằng đá hoa vân, chân và đỉnh cột là vàng khối. Nhưng bỗng phía trước tôi có một người đang đi tới, một phụ nữ dáng dấp quý phái có một sắc đẹp phi thường, đẹp đến nỗi tôi chẳng còn thiết gì nhìn ngắm các vật khác xung quanh mà chỉ còn dán mắt nhìn nàng thôi”.
Đến đây Scheherazade ngừng kể vì thấy trời vừa rạng. “Chị thân yêu của em – Dinarzade nói – Xin thú thực với chị là em vô cùng thoả mãn về những gì chị kể hôm nay, em tưởng tượng là những gì chị sẽ kể tiếp cũng sẽ kỳ lạ chàng kém – Em không nhầm đâu – Hoàng hậu đáp – vì đoạn tiếp theo về chuyện người tu sĩ thứ hai đáng để thu hút sự chú ý của hoàng đế, lãnh chúa của chị, hơn cả những gì mà Người đã nghe tới lúc này – Ta chưa hẳn tin là như vậy – Schahriar nói và đứng lên – Nhưng chúng ta sẽ xem xét cái đó vào đêm mai”.
Dinarzade đêm nay lại thức giấc rất sớm:
- Nếu chị không ngủ nữa, chị của em ơi – Nàng gọi chị – Em xin chị kể cho em nghe chuyện gì đã xảy ra trong cái lâu đài dưới mặt đất đó giữa người phụ nữ và vị hoàng tử.
- Em sẽ được nghe ngay bây giờ đây – Scheherazade nói – Em nghe nhé:
“Người tu sĩ thứ hai – Nàng nói,- kể tiếp câu chuyện: để tránh cho người phụ nữ xinh đẹp đó khỏi mất công đi tới chỗ mình, tôi vội vàng đi tới trước nàng và trong lúc tôi cúi thấp người xuống chào thì nàng hỏi: “Chàng là ai? Là người hay thần thánh?”.
- Tôi là người, thưa bà – Tôi ngẩng đầu lên đáp – Tôi chẳng có quan hệ gì với các vị thần thánh cả.
- Làm sao mà chàng đến được nơi đây? – Nàng lại hỏi kèm theo một tiếng thở dài – Đã hai mươi lăm năm nay tôi ở đây và suốt thời gian dài đó tôi chẳng nhìn thấy ai khác ngoài chàng hôm nay.
Sắc đẹp tuyệt vời của nàng trước mắt tôi với sự dịu dàng và vẻ trung hậu nàng đón tiếp đã làm tôi mạnh dạn để nói với nàng rằng: “Thưa bà, trước khi tôi có vinh dự được giải đáp mối băn khoăn của bà, xin bà cho phép được bộc bạch là tôi vô cùng vui thích vì cuộc gặp gỡ bất ngờ này.
Nó cho tôi cơ hội để tự an ủi về nỗi đau buồn đang mang nặng, và có thể đó cũng là cơ hội để làm cho bà được vui vẻ hơn trong chuỗi ngày hiện tại”. Tôi thành thật kể cho nàng nghe do một tai nạn không ngờ như thế nào mà một hoàng tử con vua trong tình trạng như nàng đang nhìn thấy và tình cờ ra sao mà tôi khám phá ra cái nhà ngục tráng lệ nhưng buồn chán đang giam hãm nàng.
- Than ôi? Thưa hoàng tử – Nàng nói và lại thở dài – Chàng rất có lý để thấy cái nhà ngục sang trọng và rất tráng lệ xa hoa này chỉ là nơi trú ngụ vô cùng tẻ nhạt chán chường. Khi đã trái với ý muốn của mình thì những nơi ở dù có tiện nghi hoa lệ tới đâu cũng chẳng làm cho người ta thích thú.
Chẳng có lẽ là chàng chưa bao giờ nghe nói đến tên vua Epitimarus, nhà vua vĩ đại đảo Gỗ Mun ư? Có tên như thế vì đảo này mọc đầy loại gỗ quí đó. Thiếp là công chúa, con gái của Người.
Vua cha chọn phò mã là một hoàng tử, anh họ thiếp; nhưng trong đêm tân hôn đầu tiên, giữa lúc triều đình và cả kinh thành của quốc đảo Gỗ Mun tưng bừng mở hội, khi thiếp chưa kịp trao thân cho chồng thì một hung thần tới bắt cóc thiếp đi. Lúc đó thiếp ngất xỉu, hoàn toàn bất tỉnh nhân sự và khi tỉnh lại thì thấy mình ở trong lâu đài này.
Một thời gian dài, thiếp không sao mà nguôi được, nhưng thời gian và nhu cầu bắt buộc thiếp cũng phải quen dần và cam chịu chung sống với lão hung thần. Đã hai mươi lăm năm, như đã nói với chàng, thiếp sống ở đây và có thể nói là tất cả những gì phục vụ cho đời sống đều rất đầy đủ, tất cả những gì có thể làm thoả mãn một công chúa chỉ ưa thích điểm trang và ăn diện.
Cứ cách mười ngày – Công chúa nói tiếp – là lão hung thần lại tới ngủ lại một đêm. Lão không ngủ luôn tại đây và lời thanh minh của lão là người vợ lão lấy trước đây sẽ nổi cơn ghen nếu biết lão không trung thành với mụ.
Tuy nhiên, nếu thiếp cần đến lão thì bất cứ ngày hay đêm, thiếp chỉ cần sờ tay vào lá bùa treo ở trước cửa buồng của thiếp thì lão sẽ xuất hiện ngay. Lão tới đây tính đến ngày hôm nay thì bốn ngày đã qua, như vậy thiếp chỉ còn chờ trong vòng sáu ngày nữa. Vì vậy chàng có thể ở lại đây năm ngày để làm bạn với thiếp nếu chàng muốn và thiếp sẽ hậu đãi chàng đúng với danh vị và phẩm giá của chàng.
Tôi tự cho mình quá hạnh phúc nhận được một sù ưu đãi đặc biệt như vậy, từ chối sao tiện. Nàng công chúa đưa tôi vào phòng tắm sang trọng chưa từng thấy và khi bước ra, thay thế cho bộ quần áo của mình, tôi thấy bộ khác rất đẹp và lịch sự, chắc là để mặc vào cho xứng đáng với nàng hơn.
Chúng tôi ngồi lên một chiếc sập trải thảm đẹp bên cạnh là những chíếc gối để tựa bọc gấm Ấn Độ. Một lát sau, nàng cho đưa lên mặt chiếc bàn những đĩa thức ăn ngon. Chúng tôi cùng ăn và qua nốt ngày hôm đó thật là vui vẻ thích thú và đêm đó nàng tiếp tôi trên giường nàng.
Ngày hôm sau, nàng tìm đủ mọi cách làm cho tôi vui. Trong bữa ăn, nàng lấy ra một chai rượu lâu năm, loại ngon nhất ít người có và muốn cùng tôi chén tạc chén thù. Lúc choáng váng hơi men vì chất rượu dịu êm đó, tôi bảo nàng:
- Công chúa xinh đẹp ơi? Đã rất lâu rồi nàng coi như bị chôn sống. Nàng hãy theo tôi, lên mặt đất hưởng thụ ánh sáng thật của ban ngày mà nàng đã bị tước bỏ mất bao năm tháng. Hãy bỏ lại đây cái ánh sáng giả dối hàng ngày nàng tắm gội.
- Thưa hoàng tử – Nàng cười đáp lại lời tôi – Xin đừng nói vậy. Thiếp coi thường cái ánh sáng đẹp nhất trần gian ấy miễn là cứ mười ngày thì chàng cho thiếp chín và ngày thứ mười nhường cho lão hung thần.
- Thưa công chúa – Tôi nói – Tôi thấy rõ là vì sợ lão hung thần mà nàng nói thế thôi. Còn tôi, tôi chẳng coi hắn là gì cả đâu, tôi sẽ xé vụn cái bùa ấy cùng những chữ loằng ngoằng viết trên đó ra từng mảnh nhỏ cho coi.
Mặc hắn tới, tôi chờ hắn đấy.
Cho dù hắn dũng mãnh ghê gớm tới đâu tôi sẽ cho hắn biết sức mạnh của cánh tay này. Tôi thề là sẽ tận diệt tất cả hung thần trên thế gian này và hắn sẽ là kẻ đầu tiên.
Nàng công chúa, biết trước hậu quả, khuyên tôi là chớ có động tới cái bùa. Nàng nói: “Nếu chàng làm thế thì đó là mang lại cái chết cho cả chàng và thiếp. Thiếp biết rõ lũ hung thần hơn chàng mà”.
Hơi men bốc lên làm tôi chẳng còn phân biệt được lời lẽ đúng đắn của công chúa. Tồi giơ chân dẫm lên lá bùa và xé nó ra nhiều mảnh”.
Kể đến đây, Scheherazade thấy trời sáng, ngừng nói và hoàng đế thì đứng lên. Nhưng ông chẳng chút nghi ngờ là lá bùa bị xé vụn nhừ thế sẽ chẳng khỏi gây ra chuyện nghiêm trọng nào đó. Ông quyết định phải nghe tiếp câu chuyện.
Một tiếng trước khi trời sáng, Dinarzade thức giấc nói với hoàng hậu:
- Chị của em, nếu chị không ngủ, em xin chị cho biết những gì đã xảy ra trong cái lâu đài dưới mặt đất đó, sau khi hoàng tử đã xé vụn lá bùa.
- Chị sẽ nói cho em rõ ngay giờ đây.
Rồi lập tức nàng tiếp tục câu chuyện dưới nhân vật người tu sĩ thứ hai:
“ Chiếc bùa vừa bị xé nát thì cả lâu đài rung chuyển như sắp đổ sụp với những tiếng sấm sét và chớp loé sáng từng đợt trong cái lâu đài tối om om. Tiếng động khủng khiếp đó làm giã một phần hơi men, tôi tỉnh lại nhưng đã quá muộn, chẳng cứu vãn nổi lỗi lầm của mình nữa. Tôi kêu lên:
- Công chúa! Thế là cái gì vậy?
Nàng hốt hoảng, chẳng nghĩ gì đến tai hoạ bản thân, trả lời tôi:
Hỡi ôi? Chàng hãy trốn mau đi, không thì chết mất?
Tôi làm theo lời nàng, nhưng vì quá sợ hãi mà tôi bỏ lại cái rìu và đôi dép. Vừa đi tới các bậc thang mà từ đó tôi đã xuống thì cái lâu đài ma mở toang ra lấy lối cho lão hung thần đi vào.
Hắn giận dữ hỏi- công chúa:
- Có việc gì xảy ra mà gọi ta tới?
Một cơn đau tim – Công chúa đáp – buộc thiếp phải đi tìm cái chai mà ngài trông thấy đó. Thiếp uống hai ba ngụm rồi đem cất đi nhưng không may bị trượt chân ngã làm rách lá bùa, Có thế thôi chứ chẳng có gì xảy ra cả.
Nghe nàng nói vậy, hung thần giận dữ bảo:
Cô là một con khốn kiếp, con dối trá: cái rìu và đôi dép kia, tại sao lại ở đây?
- Bây giờ thiếp mới trông thấy đấy – Công chúa nói – Có lẽ ngài tới đây mãnh liệt quá nên đã cuốn theo chúng từ một nơi nào đi qua và mang vào đây mà không để ý chăng.
Lão hung thần chỉ đáp lại bằng những lời chửi rủa và bằng đòn đánh mà tôi nghe rõ mồn một. Không đủ can đảm để nghe những tiếng than khóc thảm thiết của công chúa bị hành hạ dã man, tôi cởi bộ áo quần nàng đã đưa tôi thay, mặc lại bộ áo quần của mình mà tôi đã để ở chân cầu thang ngày hôm trước lúc ra khỏi phòng tắm.
Tôi trèo lên cầu thang, lên lại mặt đất, trong lòng đau xót và thương cảm nàng công chúa đã vì lầm lỗi của tôi mà phải hứng lấy tai hoạ. Tôi tự biến mình thành một kẻ sát nhân và một kẻ vong ân bội nghĩa nhất trần đời vì đã hy sinh một công chúa xinh đẹp nhất thế gian cho sự dã man hung ác của một tên hung thần đang cơn giận dữ.
“Đúng là nàng bị giam cầm suốt hai mươi lăm năm – Tôi nhủ thầm – Nhưng ngoài việc mất tự do ra thì nàng chẳng còn phải ước mong gì để được sung sướng. Sự tức giận của tôi đã kết thúc hạnh phúc của nàng và giao phó nàng vào tay một con quỉ tàn ác. Tôi hạ cái cửa nắp xuống, lấp đất và trở về thành phố với một bó củi đội trên đầu mà chẳng rõ tôi làm thế nào mà kiếm được trong lúc đang bối lối hoang mang cực độ.
Bác thợ may chủ nhà thấy tôi trở về, vui mừng khôn xiết: “Cậu đi biệt đâu – Bác bảo tôi – làm tôi rất lo lắng sợ nhân thân của cậu bị lộ. Tôi chẳng biết làm gì và sợ là một kẻ nào đó nhận ra cậu.
Cám ơn Trời, Phật đã đưa cậu trở về” Tôi cảm ơn sự quan tâm và tình thân ái của bác nhưng không cho bác biết những gì đã xảy ra với tôi kể cả vì sao tôi trở về mà không có rìu và dép. Tôi lui vào phòng riêng, hàng ngàn lần tự trách là đã vô cùng dại dột. Không có gì có thể so sánh được hạnh phúc của công chúa và mình nếu mình tự kiềm chế không đụng tới cái bùa ma đó.
Trong lúc tôi đang thả mình vào những ý nghĩ não ruột đó thì bác thợ may đi vào và bảo tôi: “Có một ông già tôi không quen vừa đến, mang theo cái rìu và đôi dép của cậu mà ông ta bảo thấy ở dọc đường.
Ông ta hỏi những người cùng đi rừng với cậu và biết cậu ở đây.
Ra gặp ông ta đi, ông ấy muốn tự tay mình trao trả cậu những vật đó.
Nghe vậy, tôi biến sắc và toàn thân run lẩy bẩy. Bác thợ may hỏi tôi vì sao, thì gạch lát sàn buồng bỗng nứt ra thành một khe hở. Ông già, không chờ được, hiện ra, trong tay cầm cái rìu và đôi dép.
Đó là lão hung thần, tên bắt cóc nàng công chúa xinh đẹp quốc đảo Gỗ Mun, cải trang như thế, sau khi đã hành hạ công chúa cực kỳ man rợ.
- Ta là thần linh – Hắn bảo chúng tôi – cháu ngoại Eblis, chúa tể các thần. Có phải đây là cái rìu của ngươi? – Hắn hỏi tôi – Và đây nữa có phải đôi dép của ngươi?”
Scheherazade kể tới đây, thấy trời hửng sáng nên ngừng lời. Hoàng đế thấy chuyện của tu sĩ thứ hai quá hay nên chẳng nỡ không muốn nghe tiếp. Vì vậy ông đứng lên thầm nghĩ: sẽ biết tiếp đó ra sao vào đêm mai vậy.
Đêm hôm sau, Dinarzade kêu hoàng hậu:
- Chị thân yêu của em, xin chị kể xem lão hung thần đó làm gì hoàng tử đi.
- Chị kể ngay đây và trí tò mò của em sẽ được thoả mãn – Scheherazade đáp rồi kể tiếp chuyện chàng tu sĩ thứ hai như sau:
“ Tu sĩ tiếp tục kể cho nàng Zobéide nghe: “Thưa bà – anh ta nói – Lão hung thần hỏi tôi như vậy và chẳng cho tôi thời gian để trả lời hắn, mà thực ra thi tôi cũng chẳng nói nên lời, cái bộ mặt kinh tởm của hắn đã làm tôi hết hồn. Hắn ôm ngang người tôi, kéo lê tôi ra khỏi buồng và nhảy vút lên cao, lôi tôi đến tận trời xanh mạnh và nhanh như chớp.
Tôi thấy bị đưa lên thật cao và kéo đi thật mau nên chẳng mấy chốc đã tới nơi. Hắn nắm chặt tôi nhào mạnh xuống đất, hắn dậm chân, mặt đất mở ra và hắn thụt xuống, tức thì tôi thấy mình đứng trước nàng công chúa xinh đẹp quốc đảo Gỗ Mun trong lâu đài ma. Nhưng, than ôi! Cảnh tượng trước mắt như một vật nhọn đâm thẳng vào tim tôi. Nàng trần truồng nằm đó mình đầy máu dở sống dở chết, nước mắt chan hoà chảy ướt nhoèn đôi má.
Quân xảo quyệt! – Hung thần chỉ vào tôi bảo nàng – Có phải đây là nhân tình của mi không?
Nàng đưa mắt sầu thảm nhìn tôi và buồn rầu đáp:
- Tôi không biết người này là ai, chỉ lúc này đây tôi mới trông thấy anh ta.
- Sao? – Lão hung thần bảo – Nó là nguyên nhân khiến cho mi phải thế này mà mi còn dám nói là không hề biết nó sao?
- Nếu tôi không biết anh ta – Công chúa lại nói – mà ông lại muốn tôi nói dối bảo là có biết để làm hạo anh ta sao?
- Vậy thì – Lão hung thần rút kiếm đưa vào tay công chúa – Nếu mi chưa thấy nó bao giờ thì cầm lấy thanh kiếm này chặt đầu nó cho ta xem.
- Than ôi! – Công chúa nói – Làm sao mà tôi làm được cái việc mà ngài bắt buộc tôi được đây? Sức chịu tôi đã cạn kiệt chẳng giơ nổi cánh tay, và nếu có còn sức chăng nữa thì liệu tôi có gan giết một con người mà tôi không biết là ai, một con người vô tội không?
- Lời chối từ đó – Hung thần bảo công chúa – làm ta thấy rõ tất cả tội của mi.
Rồi, quay sang tôi lão hỏi:
- Còn mày, mày có biết con này không?
Tôi sẽ trở thành một tên bội nghĩa đốn mạt nhất nếu tôi không trung thành với nàng cũng như nàng đã trung thành với tôi và đó cũng là nguyên nhân sự bất hạnh của nàng. Vì thế, tôi trả lời lão hung thần:
- Làm sao mà tôi biết bà ấy được khi đây là lần đầu tôi nhìn thấy?
- Nếu đúng như vậy – Lão hung thần nói – thì mi cầm lấy kiếm này và chặt đầu nó cho ta. Chịu làm thế thì ta sẽ thả cho mi tự do, ta sẽ tin là mi mới nhìn thấy nó mỗi một lần này như mi nói.
- Xin rất vui lòng – Tôi bảo hắn và cầm lấy thanh kiếm từ tay hắn…”
Nhưng tâu Bệ hạ – Scheherazade đến đây thôi không kể tiếp nũa – Trời sáng rồi, thiếp chẳng muốn lạm dụng lòng kiên nhẫn của Người – Đó thật là những chi tiết kỳ lạ – Hoàng đế thầm nhủ – Để ngày mai xem là tay hoàng tử này có nảy tính hung ác tuân theo lão hung thần hay không?
Đêm sắp tàn, Dinarzade gọi hoàng hậu bảo:
- Chị của em, nếu chị không ngủ, xin nói tiếp chuyện hôm qua còn bỏ dở cho em nghe đi?
- Chị cũng muốn thế – Scheherazade nói – Em sẽ biết là tu sĩ thứ hai kể tiểp thế này:
“Thưa bà, xin bà đừng tin là tôi tiến đến gần công chúa xinh đẹp quốc đảo Gỗ Mun để thực hiện mệnh lệnh dã man của lão hung thần. Tôi chỉ muốn biểu lộ bằng cử chỉ, trong khả năng có thể, tỏ cho nàng hiểu là nếu nàng đã dũng cảm hi sinh tính mệnh vì tình yêu đối với tôi thì tôi há lại không dám xả thân mình vì tình yêu đối với nàng hay sao. Công chúa hiểu ý đồ của tôi.
Mặc dầu đau đớn và sầu thảm, nàng nhìn tôi với ánh mắt biết ơn và như muốn nói là nàng vui lòng chết và lấy làm hài lòng thấy là tôi cũng muốn chết vì nàng. Và, tôi lùi lại một bước, vứt thanh kiếm xuống đất bảo lão hung thần: – Tôi sẽ bị đời đời nguyền rủa trước tất cả thiên hạ nếu tôi đã hèn hạ giết hại một người mà tôi chưa hề quen biết, đó là chưa nói tới bà đây người mà tôi đang nhìn thấy trong tình trạng như lúc này; đang sắp trút linh hồn. Ngươi muốn làm gì ta thì làm vì ta đang ở trong tay ngươi, nhưng ta không thể làm theo cái lệnh tàn ác dã man của ngươi được.
- Ta đã biết rõ – Lão hung thần nói – Là chúng mày thách thức ta, nhục mạ sự ghen tuông của ta. Nhưng với cách mà ta sẽ xử sự, cả hai chúng mày sẽ biết ta có thể làm được những gì.
Nói xong câu đe doạ này, con quỷ cầm lấy thanh kiếm giơ lên và chặt đứt một bàn tay công chúa. Nàng chỉ kịp đưa bàn tay kia làm hiệu cho tôi như một lời chào vĩnh biệt vì máu nàng đã mất trước cộng với lúc này chỉ còn cho phép nàng sống một vài khoảnh khắc nữa thôi sau sự hung bạo cuối cùng này mà cảnh tượng trông thấy làm tôi ngất lịm.
Khi tỉnh lại, tôi than phiền với lão hung thần sao lại để tôi phải mòn mỏi đợi chờ cái chết:
- Đâm đi? Chém đi! – Tôi bảo hắn – Ta sẵn sàng đợi một nhát kiếm. Ta chờ đợi ở ngươi như chờ một ân huệ lớn mà ngươi có thể làm cho ta.
Nhưng thay vì việc làm cho tôi chết, hắn bảo:
Đó, những thần linh đã xử sự với những người đàn bà bị nghi là bội phản như thế đó. Nó đã tiếp mi tại đây, nếu mà ta bắt được quả tang thì ta sẽ giết chết mi ngay lúc ấy. Nhưng ta sẽ tạm bằng lòng cho mi biến thành chó thành khỉ, thành lừa, thành sư tử hoặc thành chim. Mi hãy chọn một trong những con vật đó, ta muốn để cho mi được tuỳ ý thích.
Những lời nói của con quái vật này cho tôi một chút hy vọng là có thể làm cho nó đổi ý. Tôi bảo nó:
- Hỡi thần linh? Hãy nguôi cơn giận. Nếu ngài không nỡ lấy đi mạng sống của tôi thì hãy để tôi sống một cách tử tế. Tôi sẽ luôn nhớ tới sự khoan hồng của ngài nếu ngài thứ lỗi cho tôi cũng như một con người tốt bụng nhất trần gian này đã tha thứ cho một trong những Người láng giềng đã ghét cay ghét đắng anh ta”.
Lão hung thần hỏi tôi chuyện gì đã xảy ra giữa hai người láng giềng đó và nói là hắn sẽ có đủ đức kiên nhẫn để nghe câu chuyện ấy. Thế là tôi đã kể cho hắn nghe. Thưa bà, tôi tin là bà sẽ không phật ý nếu tôi cũng thuật lại câu chuyện đó hầu bà.
Chương 10: Kẻ hay ghen ghét và người bị ghen ghét
Trong một thành phố khá rộng lớn, hai người đàn ông sống ở hai ngôi nhà kề bên nhau. Một người ghét người kia thậm tệ đến nỗi người bị ghen ghét quyết định đổi chỗ ở, đi xa hẳn nơi khác vì tin chắc là chỉ riêng việc ở tách xa nhau ra thôi cũng đỡ chuốc sự thù ghét của người hàng xóm.
Vì mặc dù đã giúp đỡ anh ta nhiều việc tốt mà ông vẫn không làm giảm được sự ghét ghen của anh ta. Thế là ông bán rẻ bán tháo ngôi nhà đang ở và với một chút vốn liếng nhỏ bé ông ta rút vào thành phố của một xứ sở không xa đấy lắm. Ông ta mua một khoảnh đất nhỏ cách xa thành phố độ nửa dặm đường.
Ở đó có một căn nhà khá tiện nghi, một mảnh vườn đẹp và một cái sân rộng trong đó có một cái giếng cạn đã lâu ngày không dùng tới.
Con người tốt bụng đó sau khi đã đến nơi ở mới, đã mặc áo thầy tu để sống một cuộc đời ẩn dật. Ông ta còn cho xây nhiều phòng tu trong nhà và chẳng bao lâu sau tổ chức thành một cộng đồng tu sĩ.
Đức độ của ông chẳng bao lâu đã vang xa, thu hút khá đông người mộ đạo, cả dân thường và cả các quan chức thành phố. Mọi người đều kính trọng và rất yêu mến ông. Từ nơi rất xa cũng có người tới xin ông cầu nguyện cho và tất cả những người được gặp ông khi trở về đều ban bố lại những lời ban phước mà họ tin là đã nhận được từ đấng tối cao qua ông làm trung gian.
Danh tiếng của ông lan truyền về tới thành phố cũ mà từ đó ông đã ra đi. Kẻ ghen ghét ông càng buồn rầu tức tối đến mức bỏ cả nhà cửa, bỏ cả công việc, quyết tâm tìm cách giết hại ông bằng được.
Với mục đích đó, y tìm đến tu viện mới của các tu sĩ mà viện trưởng là láng giềng của y trước đây.
Viện trưởng tiếp y rất thân tình. Kẻ ghen ghét nói là y cố tình tới để thông báo cho ông biết một việc quan trọng mà cần phải trao đổi riêng. Y nói thêm:
- Để cho không ai nghe được câu chuyện riêng đó, tôi đề nghị chúng ta cùng đi dạo trong sân, và vì trời cũng đã tối, ông nên cho các tu sĩ về các phòng tu của họ.
Viện trưởng làm theo lời y.
Khi kẻ hay ghen ghét thấy chỉ còn mình với người láng giềng tốt bụng này, y bắt đầu nói hết chuyện nọ sang chuyện kia và đi sát cạnh nhau trong sân, cho đến lúc đi gần tới bờ giếng, y đẩy mạnh ông ta ngã xuống đấy, chẳng có người nào chứng kiến hành động tội ác đó. Xong việc, y mau chóng rời đi, qua cổng tu viện không có người nào nhìn thấy và trở về nhà, rất hài lòng về chuyến đi và chắc mẩm là đối tượng mà y ghen ghét chẳng còn có ở trên đời nữa. Nhưng y đã nhầm to.”
Scheherazade không thể nói tiếp được nữa vì bình minh đã ló rạng. Hoàng đế rất bất bình vì tính cách gian ác quỉ quái của kê hay ganh ghét. “Ta rất mong – ông nhủ thầm – là không có gì xấu xảy ra cho người tu sĩ tốt bụng đó.
Hy vọng là ta sẽ thấy vào đêm mai là trời không bỏ ông ta trong trường hợp đó.
- Chị ơi, nếu chị không ngủ – Dinarzade thức giấc gọi chị – thì xin chị cho em biết là ông tu sĩ tất bụng đó có được an toàn ra khỏi cái giếng đó không.
- Được an toàn em ạ – Scheherazade đáp – Và người tu sĩ đạo Hồi thứ hai tiếp tục chuyện của anh ta: “Cái giếng cổ rất sâu đó – anh nói – vốn là chỗ ở của các vị thần tiên, vừa đúng lúc để các vị cứu được tu viện trưởng.
Các vị đã đỡ lấy ông, nhẹ nhàng đặt xuống đáy giếng không làm ông xây xát tí nào. Ông thấy rõ ràng có một điều gì khác lạ xảy ra trong cái rơi ngã mà ông chắc chắn là sẽ mất mạng đó. Nhưng ông chẳng nhìn thấy gì và cũng chẳng cảm thấy gì cả. Rồi ông bỗng nghe thấy một tiếng nói: “Các bạn có biết người mà chúng ta vừa đón đỡ đó là ai không?”.
Nhiều tiếng khác đáp là không biết ai cả. Tiếng nói đầu tiên bảo: “Tôi sẽ nói cho các bạn rõ. Người này, với một tấm lòng nhân hậu nhất thế gian, đã rời thành phố đang sinh sống để tới đây ở với mong muốn là sửa chữa cho một trong các láng giềng của ông ta khỏi cái tật xấu là ganh ghét hận thù ông.
Ở đây, ông được toàn thể mọi người kính trọng làm cho kẻ ganh ghét tức tối, không chịu nổi y liền tìm đến tận đây để tìm cách mưu hại ông. Y đã thực hiện ý đồ và nếu không có chúng ta cứu giúp thì ông đã bị hại rồi. Danh tiếng của ông lừng vang khiến cho hoàng đế đang ngự ở thành phố bên cạnh đây, ngày mai sẽ tới đây thăm để nhờ ông cầu nguyện cho công chúa”.
Một tiếng nói khác cất lên hỏi vì sao mà công chúa lại phải nhờ cậy đến tu sĩ cầu nguyện cho. Tiếng nói đầu tiên lại đáp: “Thế ra các bạn không biết là công chúa bị thần Maimoun, con trai thần Đimdim, phải lòng nàng và ám nàng ư” Tôi biết rõ là ông tu viện trưởng nhân hậu này có thể chữa khỏi cho công chúa.
Công việc thật dễ dàng, tôi sẽ nói các bạn nghe. Số là trong tu viện của ông có một con mèo đen, chót đuôi nó có một chấm trắng. Chỉ cần nhổ bảy chiếc lông trong cái chấm trắng đó, đốt và xông khói lên đầu công chúa. Ngay tức thì nàng sẽ khỏi bệnh, tiễu trừ được sự ám ảnh của Mamoun, con trai Đimdim và không bao giờ tên này còn dám lăm le đến gần công chúa lần thứ hai nữa.
Trưởng các tu sĩ nghe không thiếu một lời nào trong cuộc trao đổi của các vị thần và các tiên. Họ hoàn toàn im lặng suốt đêm đó sau khi đã thốt lên những câu nói trên. Ngày hôm sau, trời rạng sáng tới lúc ông phân biệt rõ mọi vật thấy là cái giếng có nhiều chỗ lở lói, ông đã tìm cách trèo lên không mất công nhiều.
Các tu sĩ đang toả đi tìm, rất sung sướng thấy ông trở về. Bằng một vài câu vắn tắt ông kể cho họ nghe âm mưu độc ác của người khách mà ông tiếp đón thân tình hôm trước rồi lui vào phòng riêng.
Chú mèo đen mà ông nghe thấy đêm qua trong cuộc trao đổi giữa các thần và tiên nhắc đến đã tới với ông để được vuốt ve như mọi khi. Ông bèn nhổ bảy sợi lông ở cái chấm trắng chót đuôi con mèo và để riêng ra một nơi phòng khi dùng đến.
Mặt trời lên cao chưa được bao lâu thì hoàng đế chẳng muốn đà đận chút nào trong việc chữa mau cho công chúa dứt bệnh, tới trước cổng tu viện. Ông lệnh cho đám cận vệ dừng lại ở đó rồi cùng với các cận thần tuỳ giá bước vào.
Các tu sĩ kính trọng nghênh đón nhà vua.
Hoàng đế kéo ông trưởng các tu sĩ ra chỗ riêng bảo:
- Ông tu viện trưởng, chắc ông đã rõ vì sao trẫm tới đây chứ?
- Tâu bệ hạ – Người trưởng tu sĩ từ tốn đáp – Nếu thần không nhầm thì bệnh trạng của công chúa đã đưa đến cho thần vinh dự lớn này mà thần thật chưa xứng đáng.
- Đúng như vậy đó – Hoàng đế nói – Ông sẽ làm cho ta như được phục sinh nếu những lời cầu nguyện của ông làm cho con gái ta lành bệnh.
- Tâu bệ hạ – Con người nhân hậu nói – Nếu Người vui lòng rước công chúa tới đây, mong rằng với sự cứu giúp và ân sủng của Thượng đế, công chúa hoàn toàn sẽ khỏi bệnh trở về.
Nhà vua, hết sức hân hoan, lập tức cho tìm công chúa và chẳng bao lâu nàng xuất hiện với đông đảo mệnh phụ và các thị nữ hộ giá, mặt che mạng để không ai nhìn thấy. Tu viện trưởng cho đặt một bếp lò trên đầu công chúa và chỉ vừa đưa bảy sợi lông, mà ông vừa cho mang lại, vào đám than hồng trong bếp lò, con quái Maimoun, con trai của Đimdim đã thét to lên một tiếng, chẳng ai nhìn thấy hình bóng hắn, chạy biến đi thoát khỏi người công chúa.
Trước tiên nàng đặt tay lên mạng che mặt vén lên hỏi: “Ta ở đâu thế này? Ai đã đưa ta đến đây?”.
Nghe công chúa hỏi, hoàng đế không sao giấu được niềm vui dâng trào, ôm lấy con gái và hôn lên đôi mắt nàng. Ông cũng hôn bàn tay tu viện trưởng và bảo các cận thần tuỳ giá: “Các ngươi hãy nói đi.
Phần thưởng như thế nào cho xứng đáng với người đã chữa khỏi bệnh cho con gái ta đây?” Tất cả các cận thần đều đáp người đó đáng được kết hôn cùng công chúa. “Đó là điều mà ta đã nghĩ – Nhà vua nói – Và ngay từ lúc này, ta nhận người này làm phò mã”.
Một thời gian ngắn sau, tể tướng tạ thế. Hoàng đế bổ nhiệm tu viện trưởng vào chỗ đó. Rồi hoàng đế cũng thăng hà mà không có hoàng tử để nối ngôi. Những chức sắc tôn giáo cùng quân đội họp lại nhất trí tôn phò mã kiêm tân tể tướng lên nối ngôi vua.”
Trời sáng buộc Scheherazade ngừng lời. Schahriar thấy viên tu viện trưởng lên ngôi vua là xứng đáng nhưng ông còn băn khoăn vì thấy cái tên hay ganh ghét đó chưa chết vì tức bực sầu não.
Ông đứng lên thầm nhủ đêm hôm sau sẽ rõ chuyện này.
Dinarzade khi tới giờ như thường lệ nói với hoàng hậu như thế này:
- Chị thân yêu của em ơi! Nếu chị không ngủ thì xin kể nốt cho em nghe chuyện kẻ hay ganh ghét và người bị ganh ghét đi?
- Chị xin vui lòng – Scheherazade đáp – Sau đây là những gì mà người tu sĩ thứ hai kể tiếp:
“Người tu sĩ tốt bụng – Anh ta kể – như vậy là lên ngôi báu của bố vợ. Một hôm, cùng với cả triều đình ngự giá, ông nhìn thấy người hay ganh ghét đi lẫn trong đám đông trên đường đi.
Ông gọi một viên quan cận thần tới gần khẽ bảo: “Nhà ngươi hãy đi đến chỗ người kia và dẫn đến đây cho ta.
Đừng làm cho ông ta sợ hãi. Viên quan này tuân lệnh và khi con người hay ganh ghét đó đứng trước mặt nhà vua, nhà vua bảo:
Anh bạn, gặp anh,ta rất vui – Rồi lệnh cho một viên quan – Hãy đếm ngay cho ông ta một ngàn đồng tiền vàng trong ngân khố hoàng gia. Thêm vào đó là hai mươi kiện hàng loại quý hiếm trong kho tàng của ta đem tặng và cho một đội bảo vệ đầy đủ áp tải đến tận nhà ông ta”.
Sau khi trao cho viên quan sứ mệnh đó, nhà vua chào từ giã người hay ganh ghét rồi tiếp tục cuộc ngự giá.
Khi kể hết câu chuyện này cho tên hung thần đã giết hại công chúa quốc đảo Gỗ Mun nghe rồi tôi liên hệ và bảo hắn:
- Hỡi thần linh? Ngài thấy đấy. Ông vua hiền đức này không những là quên đi chuyện cái người hay ganh ghét này đã suýt giết chết ông mà lại còn hậu đãi thật là hào phóng như tôi vừa kể với ngài đó.
Rồi tôi trổ tài hùng biện thuyết phục hắn nên làm theo gương tốt đẹp đó mà buông tha cho tôi. Nhưng hắn vẫn chẳng siêu lòng. Hắn bảo tôi:
- Tất cả những gì ta có thể làm cho mi là để cho mi sống, nhưng chớ vội mừng là ta sẽ để cho mi an toàn nguyên vẹn. Cần phải cho mi biết ta có thể làm gì với pháp thuật của ta.
Nói đoạn hắn tóm lấy tôi, bay vút qua mái lâu đài dưới đất lúc đó mở rộng cho hắn qua, đưa tối lên tít trên cao, trông xuống dưới chỉ thấy toàn là mây trắng. Từ trên độ cao đó, hắn lao xuống mặt đất nhanh như chớp, đặt chân lên đỉnh một quả núi.
Ở đó, hắn vơ một nắm đất đưa lên gần miệng đọc hay đúng hơn là lẩm bẩm câu gì đó tôi không hiểu rồi ném vào tôi và hô to: “Biến, biến mau thành khỉ!”. Rồi hắn mất tăm, tôi còn lại một mình, thành khỉ, lòng đau đớn vô hạn trong một đất nước xa lạ, không rõ là gần hay xa vương quốc của nhà vua cha tôi.
Tôi xuống núi, đi vào một xứ sở đất đai bằng phẳng, tới địa đầu mất vừa tròn một tháng và cũng là đến được bờ biển. Bể yên sóng lặng, ngoài xa cảch khoảng nửa dặm đất liền tôi nhìn thấy một hạm tàu.
Để không bỏ lỡ một cơ hội tốt hiếm có, tôi bẻ một cành cây lớn, kéo xuống biển, cưỡi lên trên, hai tay hai cành nhỏ làm bơl chèo.
Cứ thế tôi bơi đến chiếc tàu. Khi đã khá gần mọi người có thể nhận ra tôi thì cả hành khách và thuỷ thủ tập trung trên mạn tàu đều tỏ ra vô cùng ngạc nhiên. Tất cả đổ dồn lại nhìn tôi đầy khâm phục.
Lúc đó tôi đã tới sát mạn tàu và nắm lấy một sợi dây thừng, tôi leo lên sàn tàu.
Nhưng vì không nói được nên tôi hết sức lúng túng. Tuy nhiên hiểm nguy lúc này làm sao mà so sánh được với khi tôi còn ở trong tay lão hung thần.
Những thương gia trên tàu vốn mê tín và thận trọng quá đáng cho là tôi sẽ mang tai hoạ đến cho họ nếu để tôi trên tàu. Vì thế nên một người bảo: “Tôi sẽ đập cho nó một vồ” Một người khác: “Tôi muốn bắn một mũi tên xuyên qua người nó”. Lại một người khác nữa: “Phải ném nó xuống biển thôi?” Chắc chắn là một người nào đó sẽ thực hiện điều y nói nếu tôi không vội nép vào bên cạnh thuyền trưởng, không quỳ xuống chân ông ta. Tôi nắm lấy áo ông với dáng điệu van xin làm ông ta có vẻ xúc động, lại thấy nước mắt tôi ròng ròng chảy, ông ôm lấy tôi che chở, vuốt ve và đe doạ kẻ nào cố ý hại tôi thì sẽ phải hối hận. Về phía mình, dù không nói được, tôi cố gắng làm mọi cử chỉ biểu hiện lòng biết ơn.
Sau đợt biển lặng, gió nổi lên tuy không mạnh nhưng kéo dài. Suốt năm chục ngày gió thổi một chiều và chúng tôi bình yên cặp bến một thành phố tráng lệ rất đông dân cư và buôn bán sầm uất. Chúng tôi thả neo ở đây.
Thành phố này càng thêm quan trọng vì đó là kinh đô của một quốc gia hùng mạnh.
Hạm tàu của chúng tôi mau chóng bị vô số những tàu nhỏ vây quanh, chở đầy người tới để hoặc là đón mừng bạn trở về, hoặc hỏi han xem có những gì hay lạ ở các xứ sở đã qua, hoặc chỉ đơn thuần là tò mò muốn tham quan một hạm tàu lớn từ xa tới.
Trong số những người đó, có vài vị quan của triều đình nhân danh nhà vua muốn trao đổi với các thương gia trên tàu. Các thương gia tới trình diện và một vị quan nói với họ: “Hoàng đế của chúng tôi giao cho chúng tôi nhiệm vụ hoan hỉ chào đón các vị tới vương quốc và có yêu cầu là mọi người viết cho vài dòng chữ vào cuộn giấy này.
Để các vị hiểu ý của hoàng thượng, tôi xin nói thêm là vị tể tướng của chúng tôi là một vị quan vừa có năng lực điều hành công việc vừa có chữ viết đẹp một cách hoàn hảo. Nhưng chẳng may ngài đã tạ thế cách đây ít hôm.
Hơàng đế rất mực buồn rầu và không sao có thể quên được những nét chữ của tể tướng. Người đã long trọng thề là sẽ chỉ trao quyền tể tướng cho người nào viết được chữ đẹp như tể tướng đã quá cố. Rất nhiều người đã tới để dâng chữ viết của mình nhưng cho đến nay chưa chọn được ai trong toàn quốc gia rộng lớn này xứng đáng giữ cương vị tể tướng”.
Các thương gia trên tàu, những người nào tự xét thấy lạ có thể nhòm ngó được địa vị cao sang đó, đều lần lượt viết lên cuộn giấy những gì họ muốn nói. Khi họ viết xong, tôi tiến đến, cầm lấy cuộn giấy trong tay người đang giữ.
Tất cả mọi người, đặc biệt là những thương gia vừa trình bày chữ viết của mình tưởng là tôi muốn xé hoặc ném cuộn giấy xuống biển, nên thét lên nhưng họ yên tâm ngay khi thấy tôi cầm cuộn giấy một cách thận trọng và tỏ ý đến lượt mình cũng muốn viết. Từ lo ngài họ chuyển sang khâm phục.
Tuy nhiên vì họ chưa bao giờ trông thấy một con khỉ biết viết và không tin là tôi có thể khéo léo hơn những con khỉ khác nên họ muốn giằng lại cuộn giấy trong tay tôi. Nhưng thuyền trưởng lại một lần nữa bênh vực. Ông bảo: “Để yên cho nó viết xem nào. Nếu nó chỉ biết bôi bẩn ra giấy thôi thì tôi hứa là sẽ trừng phạt nó ngay tức thì.
Nếu, trái lại, nó viết đẹp như tôi hằng tin tưởng vì trong đời tôi chưa từng thấy một chú khỉ nào thông minh và tháo vát cũng như am hiểu việc đời như nó, tôi tuyên bố là sẽ nhận nó làm con nuôi. Tôi cũng đã có một Đứa con trai nhưng nói thực không được thông minh bằng nó”.
Thấy không còn ai phản đối nữa, tôi cầm lấy bút và chỉ buông xuống sau khi đã viết đủ sáu loại chữ thông dụng của người Ả- rập. Mỗi loại chữ viết thử đó là một bài thơ hai câu hoặc bốn câu ngẫu hứng ca ngợi hoàng đế.
Chữ viết của tôi không những làm lu mờ chữ viết của tất cả các thương gia mà tôi còn có thể nói là đẹp nhất từ trước đến nay ở cái quốc gia này. Khi tôi viết xong, các vị quan cầm lấy cuộn giấy đem về dâng lên hoàng đế”.
Scheherazade kể đến đây chợt thấy trời đã rạng sáng, nàng nói với Schahriar: Nếu còn thời gian thì thiếp sẽ kể cho hoàng thượng nghe những chi tiết còn kỳ là hơn những gì vừa kể.
Hoàng đế, tự nhủ là sẽ phải nghe câu chuyện này đến đầu đến đũa nên đứng lên chẳng nói năng gì.
Đêm hôm sau, Dinarzade thức giấc trước lúc trời sáng gọi hoàng hậu dậy và nói:
- Chị của em, nếu chị không còn ngủ nữa thì chị cho em biết về số phận của chú khỉ ra sao. Em nghĩ là hoàng đế, lãnh chúa của chúng mình cũng muốn nghe tiếp chuyện đó như em.
- Lãnh chúa của chúng ta và em sẽ được thoả mãn ngay đây – Scheherazade nói – Và để vào ngay câu chuyện, người tu sĩ khổ hạnh đạo Hồi thứ hai tiếp tục câu chuyện của anh ta như sau:
“ Quốc vương chẳng để ý gì đến những chữ viết khác mà chỉ chăm chú ngắm nhìn chữ viết của tôi đã làm cho ông đặc biệt hài lòng. Ông bảo viên quan cận thần: “Hãy vào chuồng ngựa của ta, chọn một con đẹp nhất, thắng yên cương thật sang và lấy ra đây một chiếc áo gấm quý đem mặc cho người có sáu loại chữ viết này, bảo người đó lên ngựa và dẫn về đây cho ta”.
Nghe nhà vua ra lệnh như thế, các quan đều bật cười. Tức giận về sự táo gan mạn thượng của họ, nhà vua vừa định ra tay trừng phạt thì họ vội tâu:
- Xin hoàng thượng tha tội cho chúng thần. Những chữ viết này không phải là do một con người mà lại là của một chú khỉ.
- Các ngươi nói sao? – Quốc vương kêu lên – Những nét chữ như rồng bay phượng múa này lại không phải là từ bàn tay một con người ư?
- Tâu bệ hạ, không phảl là từ bàn tay của người. Một trong các vị quan nói – Thần xin khẳng định với bệ hạ đúng là từ tay một chú khỉ. Chính nó đã tự tay viết trước mặt chúng thần.
Vị quốc vương này thấy sự việc thật quá lạ lùng nên muốn được tự mình mục kích. Ông bảo các quan:
- Hãy làm theo lệnh ta. Đưa ngay chú khỉ hiếm có ấy về đây.
Các đại thần trở lại hạm tàu đưa lệnh của nhà vua tới thuyền trưởng. Ông này lập tức tuân lệnh. Thế là họ khoác vào người tôi chiếc áo gấm lộng lẫy, đắt tôi lên đất liền, đặt tôi lên mình ngựa.
Nhà vua cùng với cả triều thần đông đảo còn đang chờ tiếp đón tôi tại cung điện của Người.
Cuộc đi bắt đầu. Hải cảng, các đường phố, các công trường, các cửa sổ, các sân thượng lâu đài và nhà cửa đều chật ních người dù già trẻ trai gái… từ khắp mọi nơi trong thành phố kéo tới để nhìn xem tôi vì nghe được tin đồn bay đi rất nhanh là quốc vương vừa chọn một con khỉ làm tể tướng.
Sau khi hiến cho đám dân chúng hò hét vang trời này một cảnh tượng chưa từng thấy bao giờ, tôi đã tới hoàng cung.
Tôi thấy vị quốc vương này chễm chệ trên ngai giữa những ông quan đại thần của triều đình. Tôi vái dài ba lần, và lần thứ ba, tôi quỳ xuống hôn mặt đất trước mặt ông. Rồi sau đó tôi ngồi bệt xuống đất theo kiểu ngồi của loài khỉ. Cả cử toạ đều tỏ vẻ khâm phục không hiểu vì sao mà một chú khỉ lại am hiểu lễ tiết đối với một quốc vương như vậy và hoàng đế lại càng ngạc nhiên hơn ai hết. Cuộc triều kiến đáng lẽ sẽ được trọn vẹn hơn nếu kèm với cử chỉ tôi còn sử dụng được cả ngôn ngữ của mình nhưng loài khỉ thì có bao giờ nói được và ưu thế đã được làm con người của tôi cũng chẳng cho tôi được cái ơn huệ đó.
Hoàng đế truyền cho bãi triều và ở lại cùng ông chỉ còn viên tổng thái giám, một nô lệ nhỏ rất trẻ và tôi. Ông chuyển từ điện thiết triều sang hậu cung và truyền dọn ăn. Ngồi vào bàn, ông ra hiệu cho tôi tới gần và bảo cùng ngồi ăn với ông. Để tỏ lòng tôn kính, tôi hôn mặt đất, đứng dậy và ngồi vào bàn ăn.
Tôi ăn rất lễ phép, khiêm tốn và đè đặt.
Trước khi người ta thu dọn bàn ăn đi, tôi chợt trông thấy một cái bàn viết, tôi ra hiệu bảo mang lại và tôi cầm bút viết những câu thơ ca ngợi hoàng đế lên một quả đào to và đưa dâng Người. Ông đọc và càng ngạc nhiên vô cùng.
Bàn ăn dọn đi rồi, một thức uống đặc biệt được đưa tới, nhà vua đưa tôi một cốc. Tôi uống và lại viết lên thành chiếc cốc những vần thơ mới nói lên tình trạng tôi lúc đó vì đã trải qua biết bao nỗi khổ đau. Hoàng đế cũng lại đọc và nói: “Một con người có được khả năng tới mức này thì có thể vượt lên trên cả những vĩ nhân lớn nhất”.
Vị quốc vương này cho đem bàn cờ tới và ra hiệu hỏi tôi có biết chơi không và có muốn chơi với ông không. Tôi hôn mặt đất và đặt tay lên đầu để nói là tôi sẵn sàng nhận cái vinh dự đó.
Ông thắng tôi ván đầu, nhưng tôi thắng lại ván thứ hai và thắng luôn ván thứ ba.
Nhận thấy ông có vẻ khó chịu, tôi liền ứng tác một bài thơ tứ tuyệt đưa ông đọc để ông xuôi xuôi. Trong bài thơ đó, tôi tả hai đội quân hùng mạnh giao chiến rất hăng với nhau cả ngày, nhưng đến chiều tối thì giảng hoà và cùng nhau qua đêm một cách yên tĩnh ngay trên bãi chiến trường.
Quốc vương đi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác về trí thông minh và sự khéo léo của một con khỉ và ông chẳng muốn một mình chứng kiến tất cả sự kỳ diệu ấy. Ông có một cô con gái có tên Diễm Kiều, một công chúa sắc nước hương trời. Ông bảo tổng thái giám có mặt tại đó và là thầy học của công chúa: “Nhà ngươi về đưa học trò của ngươi tới đây, ta muốn nó chia sẻ cùng ta sự vui thích này”.
Viên Tổng thái giám tuân lệnh và chẳng mấy chốc đưa công chúa tôi. Nàng để hở mặt, nhưng mới bước vào phòng nàng vội vàng đưa tay kéo mạng che xuống, nói với nhà vua:
- Tâu phụ vương, Người đã quên rồi ư? Con vô cùng ngạc nhiên là Người lại để con xuất hiện trước mặt một người đàn ông.
- Con bảo sao – Hoàng đế đáp – Con không nghĩ là chính con đã nhầm rồi sao? Ở đây chỉ có một tiểu nô lệ, tổng thái giám thầy dạy con và cha. Chúng ta đều được tự do nhìn thấy mặt con kìa mà.
Thế mà con đã hạ mạng che xuống và kết tội cha là đã cho vời con tới đây.
- Tâu phụ vương – Công chúa nói – Rồi Người sẽ thấy con không nhầm. Con khỉ kia dù là mang hình dáng khỉ, nhưng đó lại là một hoàng tử trẻ, con trai một quốc vương hùng mạnh. Chàng bị phù phép yêu ma nên biến thành khỉ mà thôi.
Một hung thần, cháu ngoại nữ thần Eblis đã làm cho chàng như thế sau khi đã giết hại một cách dã man công chúa đảo Gỗ Mun, con gái quốc vương Epitimarus.
Hoàng đế nghe con gái nói, kinh ngạc ngoảnh về phía tôi, không ra hiệu nữa mà hỏi tôi là điều công chúa vừa nói có đúng như vậy không. Vì không nói được nên tôi đặt tay lên đầu để tỏ là công chúa đã nói thật.
- Con gái của cha – Hoàng đế hỏi con – Làm sao mà con biết được là vị hoàng tử này bị phép yêu làm cho biến thành khỉ?
- Tâu phụ vương – Công chúa Diễm Kiều nói – Người có nhớ rằng khi con trở thành thiếu nữ, thì có một bà già chăm sóc con. Đó là một pháp sư rất giỏi. Bà ấy đã truyền cho con sáu mươi phép biến hoá.
Vì thế chỉ một chớp mắt là con có thể chuyển dịch kinh đô của cha ra giữa đại dương, phía bên kia rặng Caucase. Với bản lĩnh đó con có thể biết tất cả những người bị phù phép mà chỉ cần thoáng trông thôi, con biết họ là ai và bị kẻ nào phù phép. Vì vậy xin phụ vương cũng đừng lấy làm lạ là con đã phát hiện ngay ra vị hoàng tử qua cái lốt khỉ mà không sao có thể trình diện phụ vương với con người thực của mình.
- Con gái của cha- Hoàng đế bảo- Thật không ngờ là con lại tài giỏi thế.
- Tâu phụ vương, đó là những điều bí hiểm cũng cần phải biết, nhưng hình như con đã quá khoe khoang rồi đấy.
- Nếu vậy – Hoàng đế nói – thì con cũng rất có thể gíảI bùa ma cho hoàng tử chứ?
- Dạ, thưa phụ vương, con có thể trả lại cho chàng hình hài trước đây.
- Con hãy trả lại cho anh ta hình hài ban đầu đi. Con không biết là cha sẽ vui thích tới mức nào, vì cha muốn phong cho anh ta làm tể tướng đầu triều và sẽ cưới con, làm con rể cha, phò mã của vương quốc.
- Tâu phụ vương, con xin tuân lệnh.
Scheherazade kể đến câu cuối này thì trời vừa sáng nên đành bỏ dở câu chuyện về người tu sĩ khổ hạnh đạo Hồi thứ hai. Schahriar, nhận định là đoạn tiếp theo có thể sẽ chẳng kém phần hấp dẫn như đoạn nghe nên quyết định sẽ nghe tiếp vào hôm sau.
Dinariade như thường lệ gọi hoàng hậu và bảo:
- Chị của em, nếu không còn ngủ nữa thì xin chị cho biết công chúa Diễm Kiều làm cách nào mà tu sĩ thứ hai trở về được hình thể cũ.
- Rồi em sẽ biết thôi mà – Scheherazade đáp – Tu sĩ khổ hạnh thứ hai tiếp tục câu chuyện về mình như sau:
“ Công chúa Diễm Kiều đi về phòng riêng lấy ra một thanh đao mà ở lưỡi đao có khắc những chữ Do Thái cổ.Nàng đưa chúng tôi: hoàng đế, viên tổng thái giám, chú nhỏ nô lệ và tôi tới một khoảnh sân kín trong hoàng cung và để chúng tôi đứng quanh sân, còn nàng thì tiến ra giữa sân vạch một vòng tròn to và vẽ vào đấy nhiều chữ Ả Rập cổ và những chữ khác mà người ta gọi là chữ của Cléopatre.
Khi đã làm xong việc chuẩn bị cho cái vòng tròn vừa ý mình rồi, nàng đứng dừng lại chính giữa vòng, niệm chú và đọc kinh Coran. Không gian dần dần tối sầm lại dường như bộ máy tạo hoá sắp đi đến chỗ tan tành.
Chúng tôi sợ hãi tột độ và càng hoảng hốt khi thấy hung thần, cháu ngoại Eblis xuất hiện, dưới hình dáng của một con sư tử khổng lồ.
Ngay lúc công chúa nhìn thấy con quái vật, nàng quát:
- Giống chó kia, đáng lẽ phải quỳ mọp trước mặt ta thì mi lại muốn hù doạ ta bằng cái lốt con vật gớm ghiếc ấy chăng!
- Thế còn mi – Con sư tử rống lên – Mi không sợ làm trái lời cam kết mà chúng ta đã long trọng thề là sẽ không ai làm hại ai sao?
- A! Quân chết tiệt – Công chúa phản bác – Chính ta, ta phải hỏi mi cái đó mới đúng chứ.
- Mi sẽ phải – Con sư tử đột ngột cắt ngang – trả giá cho việc đã làm phiền ta phải tới đây.
Nói xong, con sư tử há rộng mõm tiến lại phía công chúa như muốn nuốt sống nàng, nhưng đã đề phòng từ trước, nàng nhảy lùi về phía sau và kịp thời nhổ một sợi tóc, niệm chú biến thành một lưỡi gươm sắc bén và bằng một nhát chém vào giữa sống lưng chặt con sư tử ra làm hai.
Hai nửa con sư tử biến mất chỉ còn lại cái đầu biến thành một con bọ cạp. Ngay tức thì, công chúa hoá thành một con rắn xông vào đánh bọ cạp. Thấy yếu thế, bọ cạp biến thành con đại bàng bay đi.
Con rắn cuộn mình lại cũng biến thành một con đại bàng đen to khoẻ hơn bay đuổi theo.
Cả hai con chim đều bay khuất tầm mắt của chúng tôi.
Một lát sau, mặt đất bỗng nhiên nứt ra trước mặt chúng tôi và một con mèo đen đốm trắng chồi lên, lông lá dựng ngược và gào lên thật man rợ. Một con sói đen cũng xuất hiện xông vào con mèo.
Mèo vội vã biến thành một con sâu, thấy một quả lựu rụng bên cạnh một mương nước hẹp nhưng khá sâu bèn đục nhanh một lỗ và chui vào. Quả lựu tức thì to phình lên bằng một quả bí đỏ bay lên nóc hành lang lăn mấy vòng rồi rơi bịch xuống sàn vỡ tan tành.
Con sói lúc đó biến thành một con gà trống, nhảy vội đến mổ ăn những hạt lựu hết hạt này đến hạt kia. Khi không thấy còn hạt nào nữa, nó chạy đến chỗ chúng tôi, giương đôi cánh ra vỗ như vẻ hỏi chúng tôi xem còn hạt nào không.
Còn một hạt lăn lóc bên bờ mương, nó quay lại chạy đến chưa kịp mổ thì cái hạt đó lăn xuống mương nước và biến ngay thành một con cá nhỏ…” – Nhưng, tâu bệ hạ – Scheherazade nói – kìa trời đã sáng mất rồi.
Thiếp có thể đoán chắc là nếu ánh bình minh chưa lên thì Người sẽ rất vui thích khi nghe thiếp kể đoạn tiếp sau đó.- Nói xong, nàng im lặng. Hoàng đế đứng lên trong tâm trí tràn đầy những chi tiết thú vị của câu chuyện. Ông có một ý muốn mãnh liệt và nôn nóng cực kỳ là muốn nghe nốt câu chuyện kỳ thú này.
Dinarzade, hôm sau, không sợ làm gián đoạn giấc ngủ của hoàng hậu, bảo nàng:
- Chị ơi, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin chị tiếp tục câu chuyện vô cùng kỳ thú bỏ dở hôm qua đang đến cái đoạn biến hoá hết cái nọ đến cái kia rồi.
Scheherazade nhớ lại trong trí xem đã kể tới đâu rồi nói với hoàng đế.
- Tâu chúa thượng, người tu sĩ thứ hai đã kể tiếp câu chuyện của anh ta như thế này:
“Con gà trống nhảy xuống mương nước và biến thành một con cá chày bơi đuổi theo con cá nhỏ. Cả hai quần nhau ở dưới nước đến hai tiếng đồng hồ và tất cả chúng tôi đều không hiểu rõ kết cục ra sao thì bỗng nghe thấy những tiếng kêu khủng khiếp làm chúng tôi run bắn cả người. Một lát sau, chúng tôi nhìn thấy tên hung thần và cả công chúa lửa cháy đầy mình.
Họ nhả lửa từ miệng ra đất cháy lẫn nhau và khi cả hai sáp gần lại thì lửa cháy càng dữ dội. Từng bụm khói dày và lửa bốc lên rất cao. Chúng tôi sợ rất có thể lửa sẽ làm cháy rụi cả hoàng cung, nhưng chúng tôi rụng rời khi tên hung thần rời xa công chúa, tiến về phía chúng tôi và há miệng phun từng khối lửa vào cả bọn.
Nếu không có công chúa chạy đến kịp thời đánh đuổi hắn thì chúng tôi chắc hẳn chẳng còn ai sống sót. Thế nhưng, dù công chúa có đến cứu nhanh tới đâu thì hoàng đế cũng đã bị cháy râu và bỏng mặt, viên tổng thái giám bị chết ngạt và cháy thành than ngay tức thì. Còn tôi thì bị một tia lửa tạt ngay trúng mắt bên phải và thành chột.
Giữa lúc đó thì chúng tôi nghe thấy tiếng kêu to:
“Chiến thắng! Chiến thắng!” và nhìn thấy công chúa đã trở về nguyên dạng, còn tên hung thần thì chỉ còn là một đống tro dưới chân nàng.
Công chúa đi tới gần chúng tôi và không để mất thời gian bảo tên tiểu nô lệ vẫn nguyên lành đi lấy một chén nước trong sạch. Nàng cầm lấy, đưa lên gần miệng đọc vài câu thần chú rồi vừa rảy lên người tôi vừa nói:
- Nếu người bị phù phép mà hoá khỉ, thì hãy thay hình đổi dạng trở về thành người như cũ.
Nàng vừa dứt lời thì tôi trở lại nguyên hình như trước khi bị phù phép, duy chỉ thiếu một con mắt.
Tôi sửa sang tư thế để tạ ơn công chúa, nhưng nàng chẳng để tôi có thời gian làm việc đó nữa. Nàng quay lại nói với hoàng đế cha nàng:
- Tâu phụ vương, con đã thắng lão hung thần như Người đã thấy đó. Nhưng thắng bằng một giá đắt. Con chẳng còn sống được mấy chốc nữa đâu và cha cũng chẳng còn được thấy con vui duyên cùng chàng hoàng tử mà cha đã dự định.
Lửa đã thấu vào người con trong cuộc chiến đấu vừa rồi và từ từ đốt cháy cơ thể con. Tai hoạ này sẽ không xảy ra nếu con nhìn thấy ngay hạt lựu còn sót lại để mổ như những hạt khác khi con biến thành gà trống. Tên hung thần đã chui vào hạt này như một nơi trú ẩn cuối cùng để chống lại con.
Sai sót này làm cho con phải cầu cứu tới lửa mà cha đã thấy con chiến đấu như thế nào giữa trời và đất trước mặt cha. Mặc dầu tên hung thần bản lĩnh cũng thật cao cường nhưng con vẫn mạnh hơn đã thắng nó và thiêu nó thành than. Nhưng con cũng chẳng tránh khỏi được cái chết đang tới gần.”
Scheherazade kể tới đây thì dừng lại và nói với hoàng đế:
- Tâu hoàng thượng, trời đã rạng báo cho thiếp là hãy ngừng lời. Nếu Người còn vui lòng để thiếp được sống đến ngày mai thì Người sẽ nghe thiếp kể đoạn cuối câu chuyện này.
Schahriar bằng lòng và đứng lên như thường lệ để đi làm công việc của triều đình.
Trước khi trời sáng ít lâu, Dinarzade thức giấc gọi hoàng hậu năn nỉ:
- Chị thân yêu của em, nếu chị không còn muốn ngủ nữa thì xin chị hãy kể nốt cho em nghe chuyện của chàng tu sĩ thứ hai đi.
Scheherazade tức thì cất tiếng và kể tiếp câu chuyện như sau:
“ Tu sĩ khổ hạnh vẫn tiếp tục kể chuyện mình cho Zobéide nghe ông ta nói với nàng:
- Thưa bà, hoàng đế lặng nghe công chúa Diễm Kiều kể chuyện chiến đấu của nàng và khi nàng nói xong ông nói với con gái bằng một giọng đau đớn và xúc động:
- Con gái của ta, con thấy rõ tình cảnh của cha đây. Không hiểu vì sao mà ta lại còn sống! Tổng thái giám, thầy của con thì đã chết, hoàng tử mà con vừa giải thoát bùa phép cho thì đã mất một con mắt?
Ông không nói thêm được nữa vì nước mắt, những tiếng nức nở làm ông nghẹn ngào. Chúng tôi cực kỳ xúc động về nỗi buồn khổ của ông, công chúa và tôi cũng khóc ròng cùng hoàng đế.
Trong lúc mọi người đang vô cùng buồn khổ thì bỗng công chúa kêu to: “Tôi cháy đây này! Tôi cháy đây này!”. Nàng cảm thấy ngọn lửa âm ỉ trong người đã bùng lên toàn thân, làm nàng không ngừng kêu: “Tôi cháy đây” và cái chết cuối cùng đã chấm dứt sự đau đớn không sao chịu nổi của nàng.
Ngọn lửa thật kỳ lạ, chỉ một lát cả cơ thể nàng chỉ còn là một đống tro tàn như lão hung thần vậy.
Thưa bà, tôi không sao nói được trước cảnh tượng đó tôi đã xúc động tới mức nào. Thà là suốt đời tôi là kiếp khỉ hoặc kiếp chó còn hơn là thấy ân nhân của mình chết một cách thê thảm như vậy.
Về phía hoàng đế, đau khổ ngoài sức tưởng tượng, vừa kêu la thảm thiết vừa lấy tay đấm mạnh vào đầu vào ngực cho tới lúc suy xụp trong thất vọng, ông ngất xỉu làm tôi lo Người có thể thăng hà.
Nghe những tiếng than khóc kêu la của hoàng đế, những thái giám và các đại thần kéo tới và mất rất nhiều công sức để làm cho Người hồi tỉnh. Hoàng đế và tôi không phải mất công nhiều để giải thích cho họ hiểu nỗi đau lòng của mình. Hai đống tro của công chúa và của lão hung thần đã làm cho họ biết hết những gì xảy ra.
Hoàng đế không còn sức đứng lên nữa mà phải dựa vào các thái giám để trở về hậu cung.
Khi tiếng đồn về sự kiện vô cùng bi thảm đó được lan truyền trong hoàng cung và cả kinh thành, toàn thể thần dân đều thương tiếc cho công chúa Diễm Kiều gặp nỗi bất hạnh và thông cảm với nỗi đau buồn của quốc vương.
Cả nước để tang trong bảy ngày và tổ chức nhiều buổi tế lễ long trọng.
Tro của lão hung thần bị tung theo gió, còn tro của công chúa Diễm Kiều được thu vào một chiếc bình rất đẹp đặt trong một lăng nguy nga xây ngay tại nơi công chúa tử nạn.
Nỗi đau của hoàng đế bị mất con gái yêu đã làm cho Người ốm liệt giường suốt một tháng trời. Chưa được bình phục hẳn, Người đã cho gọi tôi tới và bảo:
- Hoàng tử, hãy nghe lệnh của ta đây. Nếu không tuân theo thì khó toàn tính mệnh đó.
Tôi hứa với Người là nhất nhất sẽ vâng lời. Và Người tiếp tục nói:
- Từ trước tới nay ta luôn sống trong hạnh phúc toàn vẹn, chưa bao giờ bị bất cứ một tai hoạ nào khuấy động. Nhưng nhà ngươi đến thì hạnh phúc mà ta vui hưởng bị tan vỡ: con gái ta chết, ông thầy của nó cũng không còn và chỉ nhờ có một phép mầu nào đó mà ta còn sống. Vậy đúng nhà ngươi là nguyên nhân của tất cả những bất hạnh đó mà ta không sao nguôi được.
Vì vậy nhà ngươi hãy nên lặng lẽ rời khỏi nơi này, và đi ngay cho khuất mắt ta. Nếu nhà ngươi còn ở lại đây lâu hơn thì ta sẽ không sống nổi vì chắc chắn là sự có mặt của nhà ngươi sẽ chỉ mang lại bất hạnh mà thôi. Đó là tất cả những gì ta muốn nói. Đi đi! Và chớ có bao giờ xuất hiện trên đất nước của ta. Không có một sự trọng thị nào có thể ngăn ta làm cho nhà ngươi phải hối tiếc.
Tôi muốn phân trần đôi câu, nhưng quốc vương đã chặn họng tôi lại bằng những lời lẽ chứa đầy căm giận nên tôi bắt buộc phải ra đi, đi xa vương quốc của Người.
Bị mọi người ghét bỏ, xua đuổi và bỏ rơi không rõ rồi đây mình sẽ ra sao. Trước khi rời khỏi thành phố, tôi vào một nhà tắm, thuê cạo râu, tóc và lông mày, mặc vào một bộ y phục tu sĩ khổ hạnh.
Tôi vừa bước đi vừa khóc, khóc cho sự khổ ải truân chuyên của tôi thì ít, nhưng khóc nhiều cho cái chết của những nàng công chúa kiều diễm mà tôi gây nên. Tôi đi qua nhiều xứ sở không để cho ai nhận được mặt, cuối cùng tôi quyết định tới thành phố Bagdad với hy vọng là được yết kiến đức thống lĩnh các tín đồ và gợi lên lòng thương cảm của Người đối với một câu chuyện quá đỗi lạ kỳ. Tôi mới tới đây chiều hôm nay và người đầu tiên tôi gặp là người tu sĩ đồng đạo vừa kể chuyện của mình trước tôi. Bà đã biết rõ đoạn còn lại, thưa bà, và vì sao tôi lại có vinh dự có mặt tại quý xá.
Khi tu sĩ khổ hạnh thứ hai kể xong chuyện mình, Zobéide bảo anh:
- Tốt lắm, anh hãy đi đi, rút khỏi đây và đi đâu tuỳ thích, tôi cho phép đấy.
Nhưng đáng lẽ phải đi ra khỏi nhà, anh nằn nì xin thiếu phụ cho được ở lại như tu sĩ thứ nhất, và anh ta đến ngồi cạnh anh này…”
- Nhưng, tâu hoàng thượng – Scheherazade nói – Kể đến đây thì trời sáng đã bắt thiếp phải ngừng. Thiếp mạo muội dám chắc là dù câu chuyện của tu sĩ thứ hai có hay tới đâu, thì câu chuyện của tu sĩ thứ ba cũng chẳng kém.
Rồi hoàng thượng sẽ so sánh nếu Người kiên nhẫn chờ nghe.
Hoàng đế tò mò muốn biết là câu chuyện sắp kể có thực sự hay như câu chuyện vừa kể không, nên ông đứng lên và quyết định kéo dài thêm sự sống của Scheherazade dù là thời hạn ông cho đã quá nhiều ngày rồi.
Tàn đêm sau, Dinarzade nói với hoàng hậu:
- Chị thân yêu của em, nếu chị không ngủ nữa thì em xin, để chờ trời sáng cũng chẳng còn mấy chốc nữa, kể cho em nghe một câu chuyện nào đó trong những chuyện hay mà chị biết.
- Ta rất muốn nghe – Schahriar cũng bảo – Chuyện của tu sĩ thứ ba.
- Tâu hoàng thượng – Scheherazade nói – thiếp xin tuân lệnh. Người tu sĩ thứ ba – Nàng nói thêm – thấy là đến lượt mình kể chuyện, bèn hướng về Zobéide bắt đầu câu chuyện của mình như sau:
Chương 11: Chuyện kể của tu sĩ khổ hạnh thứ ba, con vua
Thưa quý bà rất đáng kính, câu chuyện tôi kể đây hoàn toàn khác với những câu chuyện bà đã nghe.
“... Hai hoàng tử kể chuyện trước tôi đều mỗi người mất một con mắt đơn thuần do hậu quả của số mệnh, còn tôi bị chột thì lại do chính lỗi lầm của mình, tự mình gây nên tội, tự mình rước vạ vào thân như chuyện tôi kể hầu bà nghe sau đây:“Tôi tên là Agib, con một quốc vương tên là Cassib. Sau khi phụ vương băng hà, tôi lên nối ngôi và vẫn đóng đô tại nơi cha tôi đã trị vì. Kinh thành này toạ lạc trên bờ biển, có một hải cảng vào loại đẹp nhất và an toàn nhất. Nó còn có một công xưởng khá lớn đủ khả năng cung cấp thiết bị cho một trăm năm mươi chiến hạm luôn luôn sẵn sàng phục vụ khi cần thiết. Ngoài ra còn trang bị cho năm chục thương thuyền vận tải hàng hoá và cũng từng ấy những du thuyền nhỏ nhẹ để đi dạo và vui chơi trên mặt nước. Vương quốc tôi còn có nhiều thành phố tráng lệ với vô vàn hải đảo lớn, hầu hết đều nằm trong tầm nhìn của kinh đô.
Đầu tiên, tôi đi thăm các tỉnh. Sau đó tôi cho vũ trang hạm đội và đi tuần du các đảo để động viên các thần dân của mình hăng hái làm tròn trách nhlệm. Trở về một thời gian, tôi lại đi tuần du và những chuyến đi về ấy đã ho tôi hiểu biết về nghề hàng hải và thấy yêu thích nó. Vì vậy tôi quyết định làm một chuyến đi thám hiểm xa ngoài những hòn đảo của mình. Để thực hiện dự định đó tôi cho chuẩn bị mười chiếc tàu rồi giương buồm khởi hành.Bốn mươi ngày đầu thuận buồm xuôi gió nhưng đến đêm thứ bốn mươi mốt thì bị ngược gió dữ dội và một cơn bão mạnh tưởng chừng muốn nhận chìm cả đoàn thuyền chúng tôi. Tuy nhiên, lúc trời hửng sáng thì cũng là lúc gió cũng dịu dần, mây tan và trời đẹp. Chúng tôi ghé vào một hòn đảo, đừng lại hai ngày để nghỉ ngơi lấy lại sức. Rồi lại tiếp tục ra khơi. Sau mười hôm lênh đênh trên mặt biển, chúng tôi hy vọng nhìn thấy đất liền vì cơn bão vừa qua đã làm tôi thay đổi ý định ra lệnh cho quay trở về. Tôi chợt nhận thấy là người hoa tiêu bị lạc phương hướng không biết là tàu mình hiện đang ở đâu. Tôi ra lệnh cho một thuỷ thủ leo lên đỉnh cột buồm cao nhất để thăm đò thì gã báo cho biết là về phía phải và bên trái xa tít tận chân trời chỉ thấy mênh mông trời và biển. Nhưng về phía trước mặt, phía mũi con tàu thấy có một mảng đen lớn.Nghe thấy vậy, người hoa tiêu mặt biến sắc, một tay dứt khăn trên đầu ném xuống sàn tàu, tay kia tự tát vào mặt mình và kêu to:- Ôi! Bệ hạ, chúng ta nguy mất rồi! Không một ai trong chúng ta thoát khỏi hiểm nguy này. Với tất cả kinh nghiệm của mình, tôi không sao có thể bảo đảm cho chúng ta thoát hiểm được.Nói xong hắn nức nở khóc như một người biết chắc mình không sao tránh khỏi chết. Sự tuyệt vọng cả y gieo hoang mang cho toàn thể mọi người trên tàu. Tôi hỏi vì lý do gì mà y lại tuyệt vọng tới vậy.- Than ôi! Tâu bệ hạ - Hắn đáp- Cơn bão đã đánh lạc hướng chúng ta quá xa cho nên chỉ đến trưa ngày mal thôi là chúng ta sẽ tới gần cái mảng đen đó chẳng có gì khác là một quả núi màu đen, là một mỏ nam châm ngay lúc này đang hút đoàn tàu chúng ta vì những chiếc đinh và sắt thép cấu tạo con tàu. Ngày mai khi chúng ta tôi gần nữa thì sức hút nam châm càng mạnh, mạnh đến nỗi là tất cả nhũng chiếc đinh ở sườn tàu sẽ như bị rút ra bay đến dính vào quả núi. Các tàu của chúng ta sẽ bị vỡ tan và đắm ngay tại chỗ. Sườn phơi ra phía biển của quả núi này dính vô vàn nhũng chiếc đinh sắt của không biết bao nhiêu tàu bè mà nó làm cho đắm. Do đó mà lực hút của quả núi này mỗi ngày lại mạnh hơn lên. Núi này người hoa tiêu nói tiếp - vô cùng hiểm trở. Trên đỉnh núi có một cái vòm bằng đồng nguyên chất, những cột chơng cũng.bằng đồng. Trên đỉnh vòm nhô lên một con ngựa đúc đồng nguyên khối, cưỡi trên lưng ngựa là một kỵ sĩ, ngực che một tấm chì trên đó có khắc hình bùa phép. Theo truyền thuyết, tâu bệ hạ, thì bức tượng này là nguyên nhân chính của sự đắm chìm không biết bao nhiêu tàu bè và bao nhiêu con người đã tử nạn ở chốn này. Và tai hoạ vẫn còn cứ kéo dài cho tới khi nào lật đổ được pho tượng đó.Người hoa tiêu kể xong lại khóc và tất cả đoàn thuỷ thủ cũng sụt sùi khóc theo. Bản thân tôi, tôi không tin là mình tới ngày tận số. Tuy vậy, mỗi người đều cùng lo cho mình cách riêng để tự bảo vệ. Và trong cái tình thế chưa biết ngã ngũ ra sao họ đi chúc lẫn cho nhau, cho những ai may mắn sống sót.Sáng hôm sau chúng tôi nhìn thấy rõ quả núi đen và với những điều đã nghe biết, chúng tôi càng thấy nó thật rùng rợn. Đến buổi trưa, quả núi đã xích lại khá gần và đúng như lời người hoa tiêu đã báo trước, chúng tôi nhìn thấy những chiếc đinh và tất cả những thứ gì bằng sắt đều nhất loạt rời tàu, bay vèo vèo về phía quả núi. Lực hút của nam châm cực mạnh đã làm cho những thứ bằng sắt này đập mạnh vào sườn núi tạo thành một thứ âm thanh thật ghê rợn. Những con tàu toác ra và chìm nghỉm xuống đáy biển rất sâu. Tất cả đoàn tuỳ tùng của tôi đều chết đuối. Nhưng Thượng đế đã rủ lòng thương cho tôi bám được vào một tấm ván, và gió đẩy giạt tới chân quả núi đen. Tôi không bị thương và may mắn cho tôi là đã cập bờ vào một nơi có những bậc trèo lên đến tận đỉnh núi”.Scheherazađe muốn kể tiếp câu chuyện, nhưng trời sáng đã khiến nàng im lặng. Hoàng đế thấy quả là hoàng hậu không đánh lừa mình vì phần mở đầu thật là hấp dẫn. Vì vậy chúng ta cũng sẽ chắng ngạc nhiên chút nào là ông chưa ra lệnh đưa hoàng hậu ra hành quyết ngày hôm đó.***- Nhân danh Thượng đế - Gầ n sáng hôm sau Dinarzade kêu chị - Nếu chị của em không còn ngủ nữa thì xin chị kể tlếp chuyện tu si thứ ba đi?- Em thân yêu - Scheherazade đáp - Vị hoàng tử này đã kể tiếp chuyện của mình như sau:“Nhìn thấy những bậc đá đó, tôi đã tạ ơn Thượng đế hết lời và vừa trèo lên vừa niệm tên thánh của Người vì nhìn sang phải, sang trái đều không có chỗ nào đặt chân. Đường đi lên hẹp, dốc đứng và khúc khuỷu đến mức tôi nghĩ chỉ cần một cơn gió không mạnh lắm cũng đủ gạt tôi ngã lăn tòm xuống biển. Nhưng cuối cùng tôi đã an toàn trèo lên được tới đỉnh núi. Tôi đi vào đưới cái vòm bằng đồng và quì xuống hôn mặt đất tạ ơn Thượng đế đã ra tay phù trợ.Tôi qua đêm dưới cái vòm đó. Trong giấc ngủ, tôi chiêm bao thấy một lão trượng đáng kính hiện ra trước mắt bảo tôi:Con hãy nghe đây, Agib! Khi ngủ dậy, con hãy đào đất ngay chỗ chân con đó. Con sẽ thấy một cái cung bằng đồng và ba mũi tên bằng chì được chế tạo ra dưới những chòm sao tất để giải thoát cho loài người khỏi bao nhiêu tai ách luôn đe doạ họ. Con hãy lần lượt bắn ba mũi tên này vào pho tượng. Người kị sĩ sẽ ngã nhào xuống biển và con ngựa thì đổ về phía con. Con sẽ chôn con ngựa xuống chỗ con đã đào được cung tên. Làm xong việc này mặt biển sẽ dâng lên ngang với đỉnh núi, tới tận chân vòm. Khi nước dâng tới đó, con sẽ thấy một chiếc xuồng nhỏ chỉ có một người chèo tới bằng mỗi tay một bơi chèo. Người này cũng bằng đồng nhưng khác với người kị sĩ mà con đã bắn nhào. Con lên xuồng và để cho y chèo đi, nhớ không được đọc đến tên Thượng đế. Trong mười ngày y sẽ lái xuồng cho con đi sang một biển khác và từ chỗ này con có thể tìm được đường về vương quốc của con an toàn miễn là, như ta đã đặn, trong suốt cuộc hành trình, tuyệt đối không được nhắc đến tên Thượng đế.Đó là tất cả những điều ông cụ đó bảo và dặn dò tôi. Thức giấc, tôi thấy như nhẹ cả người, và ngay lập tức làm theo lời đã được dặn trong mộng. Tôi đào đất, lượm lên cây cung và ba mũi tên. Giương cung bắn vào tượng kị sĩ đồng, đến phát thứ ba thì nó nhào xuống biển, còn con rlgựa thì lăn kềnh xuống cạnh tôi. Tôi chôn nó vào cái hố cung tên và thấy mặt nước biển từ từ dâng lên. Khi mực nước ngang với chiều cao ngọn núi và tràn tới chân vòm thì tôi nhìn thấy phía xa một chiếc xuồng lao đến phía mình. Tôi cảm tạ Thượng đế thấy mọi cái đều xảy ra trình tự đúng như trong glấc mộng. Cuối cùng chiếc xuồng cập bờ và tôi nhìn thấy người lái bằng đồng như cụ già đã tả. Tôi trèo lên xuồng và nhớ đinh ninh là không được kêu tên Thượng đế, tôi cũng chẳng nói câu nào, im lặng ngồi xuống và người lái bằng đồng bắt đầu chèo đưa chiếc xuồng ra xa quả núi. Nó chèo liên tục đến ngày thứ chín thì tôi trông thấy những hòn đảo quen thuộc làm cho tôi vui mừng thấy sắp thoát hiểm nghèo. Mừng vui quá độ đã làm tôi quên phắt điều cấm kỵ. Tôi kêu lên: Tạ ơn Thượng đế? Vinh quang thuộc về Người!Chưa dứt lời thì chiếc xuồng chìm nghỉm luôn xuống sâu cùng với người lái bằng đồng, còn tôi thì chới với trên mặt nước.
Tôi bơi bơi cho tới cuối ngày, nhằm hướng đất liền mà tôi thấy gần nhất. Một đêm tối mù tối mịt nối tiếp và, tôi chẳng rõ lúc này ở vào chỗ nào mà cứ bơi bừa. Sức yếu dần, tôi bắt đầu thất vọng thấy mình khó thoát chết thì gió bỗng nổi mạnh, một làn sóng cao như một ngọn núi hất tôi lên một bãi cát rồi rút đi và để tôi nằm lại đó. Tôi vội vàng nhổm đậy chạy nhanh vào phía đất ìiền sợ một làn sóng khác lại chồm tới mang tôi đi. Việc làm đầu tiên là cởi áo quần ra, vắt khô nước rồi trải ra phơí trên mặt cát hãy còn hơi nóng của ban ngày.Ngày hôm sau, mặt trờĩ chẳng mấy chốc đã làm nốt việc hong khô kiệt tất cả áo quẩn của tôi. Tôi mặc vào và đi tìm hiểu xem hiện nay mình ở đâu. Mới đi được một quãng đùờng thì đã hiểu la mình đang ở trên một đảo hoang nhỏ rất trù phú, mọc rất nhều cây ăn quả. Nhưng đồng thời tôi cũng nhận thấy là nó ở rất xa đất liền, điều này ]àm giảm đi nhiều niềm vui là được thoát chết trôi trên biển. Dù sao tôi cũng phó mặc số mệnh mình cho - Thượng đế định đoạt tuỳ ý muốn của Người. Giữa lúc đó, tôi nhìn thấy một con tàu nhỏ từ đất liền đi ra, giương hết buồm và mũi tàu hướng về hòn đảo tôi đang đứng.Không còn nghi ngờ gì là nó sẽ cập vào hòn đảo này. Chưa rõ hành khách trên tàu là bạn hay thù, nên tôi thấy là chưa nên xuất đầu lộ diện. Trèo lên một cây cao, cành lá rậm rạp, ở đó tôi có thể quan sát thấy những gì trên tàu. Con tàu tới đỗ trong eo nhỏ và có độ mười tên nô lệ bước xuống mang theo một cái xẻng và những dụng cụ đào đất khác. Chúng đi tới giữa đảo và tôi nhìn thấy chúng dừng lại đào sới một lát. Nhìn hành động của chúng hình như chúng lật lên một cái cửa nắp. Rồi chúng quay lại nơi tàu đỗ khiêng xuống nhiều đồ đạc rồi thụt xuống. Tôi hiểu ra là ở chỗ đó có một hầm ngầm. Tôi nhìn thấy chúng đi một lần nữa về tàu và một lát sau xuống cùng với một ông già, ông này dắt theo một thiếu niên khoảng mười bốn, mười lăm tuổi rất đẹp trai. Tất cả đều thụt xuống hầm chỗ cái cửa nắp đã mở và khi lên họ hạ cửa nắp xuống, đắp đất lên rồi đi về phía cái eo nhỏ, nơi tàu thả neo, tôi nhận thấy là không có cậu thanh niên trong bọn họ. Từ đó tôi kết luận là chàng trai này đã ở lại dưới hầm ngầm, điều làm tôi hết sức kinh ngạc.Ông già và các nô lệ bước lên tàu và giương buồm đi theo hướng về đất liền. Khi con tàu đã đi khuất, tôi từ trên cây leo xuống và lập tức đi tới chỗ họ vừađào bới. Đến lượt tôi cũng vục tay bới đất cho tới lúc đụng vào một tấm đá vuông khoảng hai ba bộ, tôi lật lên và thấy nó che lấp lối xuống của một cầu thang cũng bằng đá. Tôi bước vào bậc thang đi xuống và thấy mình đang ở một gian phòng rộng trong đó có một thảm chùi chân và một chiếc sập trên trải một tấm thảm khác và những gối tựa bọc vải đẹp. Chàng trai ngồi trên sập tay cầm chiếc quạt. Tôi nhận thấy tất cả những thứ đó dưới ánh sáng của hai cây nến và bên cạnh chàng trai còn có nhiều trái cây và những bình hoa.Chàng trai giật mình hoảng hốt khi nhìn thấy tôi. Nhưng để cho chàng ta yên tâm, tôi vừa đi vào vừa nói:Dù cậu là ai chăng nữa thì cũng xin đừng sợ. Một ông vua và một hoàng tử như tôi đây không thể có bất cứ một sự xúc phạm nào đối với cậu. Trái lại, số phận may mắn của cậu đã khiến tôi có mặt tại đây để đưa cậu ra khỏi nấm mồ này vì hình như người ta đã đem chôn sống cậu vì những lý do gì tôi không rõ. Nhưng điều làm tôi băn khoăn và thấy khó lòng chấp nhận được (vì tôi đã được mục kích tất cả những gì xảy ra từ lúc có người tới đảo này) là dường như cậu đã để cho họ chôn sống cậu tại đây mà không có sự chống đối nào...”.Scheherazade kể tới đây thì ngừng lại và hoàng đế thì đứng lên băn khoăn không biết vì sao mà chàng thiếu niên này lại bị bỏ đưới hầm trên một hòn đảo hoang. Ông nhủ thầm sẽ nghe tiếp đêm sau cho rõ.***Dinarzade, khi thấy tới giờ, bèn gọi hoàng hậu:- Chị ơi, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin kể nốt chuyện người tu sĩ thứ ba đi.Scheherazade không để em phải nhắc lại, kể tiếp như sau:“Chàng thiếu niên - Tu sĩ thứ ba tiếp - nghe nói vậy thì yên tâm và tươi cười mời tôi ngồi xuống cạnh mình. Chàng ta nói ngay.- Thưa hoàng tử, tôi sẽ nói để ngài rõ, ngài sẽ phải lấy làm ngạc nhiên về sự đặc biệt khác thường của nó. Nguyên cha tôi là một nhà buôn vàng ngọc trở nên rất giàu có nhờ vào sức lao động và tháo vát khéo tay trong nghề nghiệp. Người có nhiều nô lệ, và những người giúp việc thường có những chuyến đi biển trên những chiếc tàu của cha tôi để giữ mối liên lạc với nhiều triều đình mà cha tôi cung cấp những đồ châu báu mà họ cần.Kết hôn đã lâu mà chưa có con, một lần trong giấc mộng người được biết là sẽ có một con trai nhưng người con này đoản mệnh nên khi thức giấc người vô cùng buồn bã. Ít ngày sau đó, mẹ tôi báo cho người biết là bà đã có mang vào thời gian mà cảm thấy cái thai đậu lại rơi đúng vào ngày ông nằm mộng. Sau chín tháng bà sinh ra tôi, cả nhà hết sức vui mừng hoan hỉ.Cha tôi có mặt trong ngày tôi ra đời, đã đi xem bói chiêm tinh. Các ông thầy bảo: “Con trai ông sống khoẻ mạnh đến tuổi mười lăm, nhưng tới lúc đó sẽ gặp tai hoạ khó lòng thoát khỏi. Qua được nạn này thì sẽ thọ lâu. Cũng vào lúc đó - Các thầy nói thêm - tượng kị sĩ bằng đồng trên đỉnh núi nam châm sẽ bị hoàng tử Agib, con quốc vương Cassib, bắn nhào xuống biển và các vì sao chỉ rõ là năm chục ngày sau đó, con trai ông bị hoàng tử Agib giết chết.Vì lời tiên đoán đó phù hợp với giấc mộng của cha tơi nên ông vô cùng buồn bã. Dù vậy ông vẫn không hề lơ là trong việc giáo dục tôi cho đến nay, năm tôi tròn mười lăm tuổi. Hôm qua người được biết là kị sĩ bằng đồng đã bị hoàng tử Agib bắn nhào xuống biển đã được mười ngày. Tin ấy làm người rơi không biết bao nhiêu nước mắt và hoảng hốt đến mức mọi người không còn ai nhận ra ông nữa.Dựa trên những lời tiên đoán của các thầy chiêm tinh ông tìm cách đánh lừa ngôi sao bản mệnh của tôi để giữ lấy mạng sống cho tôi. Ông đã đề phòng cho xây dựng nơi ở này rất lâu rồi để làm chỗ cho tôi ẩn nấp trong khoảng thời gian năm mươi ngày kể từ khi pho tượng trên núi nam châm bị lật đổ. Cũng vì vậy khl biết tin pho tượng đó bị lật đổ đã được mười ngày thì ông vội vàng mang tôi tôi đẩy cho xuống hầm kín ẩn náu và hẹn là trong bốn chục ngày nữa ông sẽ đến đón tôi về. Còn về phần tôi – Chàng trai nói thêm - tôi tràn đầy hy vọng và không tin là hoàng tử Agib lại tới cái đảo hoang này tìm tôi trong hầm kín. Đó, đó là tất cả câu chuyện tôi muốn nói cùng ngài.Trong khi người con trai nhà buôn châu ngọc kể chuyện về mình, tôi giễu thầm các nhà chiêm tinh đã có những lời tiên đoán vô cùng lạc lõng. Vì vậy nghe xong câu chuyện tôi sôi nôi bảo cậu ta: “chàng trai thân mến, hãy tin vào lượng khoan hồng của Thượng đế và chẳng nên sợ hãi gì hết. Hãy coi như đây là một món nợ phải trả và kể từ lúc này cậu đã trang trải xong. Tôi lấy làm hài lòng, là sau khi làm đắm xuồng đã tới đây để bảo vệ cậu chống lại những kẻ muốn làm hại tới cuộc sống của cậu. Tôi sẽ không bỏ cậu trong suốt thời gian bấn chục ngày còn lại mà những lời đoán bậy của các tay chiêm tinh làm cho cậu lo lắng. Trong thời gian đó tôi sẽ giúp cậu tất cả những việc gì tôi có thể làm. Sau đó, tôi sẽ lợi dụng thời cơ để trở về đất liền, cùng lên tàu với cậu với sự đồng ý của than phụ cậu và cậu. Và khi về ,tới vương quốc của tôi, tôi sẽ không quên ơn và sẽ cố gắng thể hiện sự biết ơn của tôi thật xứng đáng.Những lời nói của tôi làm cho cậu ta yên tâm và tin cậy. Tôi tránh không nói mình chính là Agib làm cho cậu ta sợ hãi và để cho cậu ta không nghi ngờ bất cứ một điều gì nên tôi còn rất thận trọng trong lời nói và cử chỉ. Chuyện trò với nhau về nhiều vấn đề mãi tới khuya, tôi nhận thấy chàng trai này thật thông minh. Chúng tôi cùng ăn với nhau những thức ăn đã được đự trữ trong hầm. Thức ăn nhiều không những đùng thừa trong suốt bốn chục ngày mà ngoài tôi là khách ra còn có thể ehu cấp cho nhiều người khác nữa. Sau bữa ăn, chúng tôi tiếp tục chuyện trò một lát nữa rồi mới đi ngủ.Sáng hôm sau, thức đậy, tới mang đến một chậu nước cho cậu ta rửa mặt rồi tôi sửa soạn nấu nướng và đến bữa thì dọn ra cùng ăn. Sau bữa ăn, tôi bày ra một trò chơi gì đấy không những để chơi trong ngày mà còn cả cho những ngày tiếp sau nữa. Bữa chiều tôi cũng làm như thế. Chúng tôi ăn, chuyện trò rồi đi ngủ cũng như ngày hôm trước.Thời gian đã làm cho chúng tôi mỗi lúc lại thân nhau hơn. Tôi nhận thấy là cậu ta rất quí mến tôi và về phía tôi, một tình cảm đặc biệt đã khiến tôi coi cậu ta như một người ruột thịt. Tôi thường nghĩ thầm trong bụng: bọn thầy bói bảo với cha cậu ta là con ông sẽ bị giết bởi bàn tay của tôi thì đúng là bọn lừa bịp. Không sao có thể xảy ra chuyện tôi lại phạm vào một hành động tội ác như vậy được. Cuối cùng, thưa bà, chúng tôi đã qua được ba mươi chín ngày êm đềm vui vẻ nhất thế gian ở cái hầm dưới mặt đất đó.Rồi đến ngày cuối cùng, ngày thứ bốn mươi. Buổi sáng, khi thức đậy, chàng trai trẻ dạt dào một niềm vui không ngăn lại được, nói với tôi: Hoàng tử ơi Ngày thứ bốn mươi tới đây rồi, thế mà tôi chẳng sao cả, tôi không chết. Vô cùng biết ơn Thượng đế và tình bạn tất của ngài. Cha tôi cũng sẽ chẳng bao giờ quên ơn ngài và người sẽ tạo đầy đủ các phương tiện và những tiện nghi cần thiết để giúp ngài trở về quê hương. Trong lúc chờ đợi - Cậu ta nói thêm - Xin ngài làm ơn đưa cho tôi một thùng nước nóng để tôi tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo đẹp để tiếp đón cha tôi cho thật đàng hoàng.Tôi đặt thùng nước trên lò lửa và khi đã đủ độ nóng ấm, tôi trút vào bồn tắm. Chàng trai bước vào, tôi kỳ cọ cho cậu ta. Bước ra khỏi bồn tắm, cậu ta tới nằm nghỉ trên giường mà tôi đã sửa soạn sẵn, tôi đắp mền cho cậu. Nằm và ngủ được một lát, cậu ta bảo tôi: “Hoàng tử ơi, xin làm ơn đem đến cho tôi một quả đưa cùng với đường để tôi ăn cho người tỉnh táo”.Trong rất nhiều quả đưa còn lại, tôi chọn quả ngon nhất để vào một cái đĩa. Vì nhìn quanh không thấy con dao nào để bổ đưa, tôi hỏi chàng trai là có biết đao để ở đâu không. “Có một con dao nhọn - Chàng ta bảo tôi - ở cái hố tường trên đầu tôi đây này!. Đúng vậy, tôi đã trông thấy con dao nhọn đó nhưng quá hấp tấp để với lấy và khi đã cầm trong tay rồi, chân tôi lại bị vướng trong cái chăn đắp nên đã ngã xuống người cậu ta và mũi dao nhọn đâm vào ngực trúng tim chàng trai làm cậu ta chết ngay.Trước cảnh tượng đó, tôi kêu rú lên. Tôi đấm mạnh vào đầu, vào mặt, vào ngực mình, tôi xé quần xé áo và lăn lộn dưới đất, đau khổ và hối tiếc không biết ngần nào.- Chao ôi! - Tôi kêu lên - Chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa thôi là thoát ra ngoài vòng nguy hiểm. Để chống lại, cậu ta đã tìm nơi ẩn lánh và trong lúc ta cũng nghĩ là tai nạn đã qua rồi thế mà... bây gịờ ta lạị trở thành kẻ sát nhân và làm cho lời tiên tri đó trở thành hiệu nghiệm. Nhưng, hỡi đấng tối cao - Tôi giơ hai tay và ngửa mặt lên trời nói thêm - Nếu tôi đúng là thủ phạm giết chàng trai này, thì xin đừng để cho tôi sống nữa.Scheherazade bắt buộc phải ngừng câu chuyện bi thảm này lại vì thấy trời đã hé sáng. Hoàng đế các xứ Ấn Độ rất xúc động và băn khoăn là sau những chuyện đó thì người tu sĩ ra sao. Ông chưa hạ lệnh cho hành quyết hoàng hậu Scheherazade ngày hôm đó vì chỉ duy có nàng mới giải được cho ông nỗi thắc mắc này.***Dinarzade, như thường lệ, đánh thức hoàng hậu:- Nếu chị không ngủ, em xin chị kể cho em nghe chuyện gì đã xảy ra sau cái chết của chàng thiếu niên ấy.Scheherazade tức thì kể tiếp như sau:“Thưa bà - Tu sĩ thứ ba nói với zobéide - Sau bất hạnh xảy ra, tôi sẵn sàng đợi cái chết đến không mảy may sợ hãi. Nhưng điều xấu cũng như điều tất không phải là chúng ta cứ cầu xin là được.Tuy vậy, lắng sâu suy nghĩ thấy là những giọt nước mắt cũng như nỗi đau lòng cũng không thể làm sống lại chàng trai này và rồi đây hết bốn chục ngày rất có thể tôi bị người cha bắt gặp thì cũng thật lôi thôi nên tôi đi ra khỏi hầm và trèo lên các bậc thang. Tôi hạ tấm đá to chặn lối vào và lấp đất.Vừa xong, tôi hướng tầm mắt về phía đất liền thì đã trông thấy con tàu đang đi tới để đón chàng trai trẻ. Suy nghĩ xem phải làm gì đây, tôi tự nhủ: “Nếu tôi ra mắt, ông già nhất định sẽ cho bắt giữ và rất có thể bọn nô lệ sẽ giết tôi khi ông trông thấy tình trạng của con trai do chính tôi gây ra. Dù tôi có ra sức biện bạch thế nào chăng nữa thì ông cũng sẽ không tin là tôi vô tội. Tốt hơn hết là mình nên tránh mặt đi còn hơn là đưa thân ra hứng chịu lấy cơn thịnh nộ của ông ta.Gần cái hầm đó có một cây to mà cành lá rậm rạp có thể che cho tôi được. Tôi trèo lên và chỉ vừa kịp tìm được một chỗ kín đáo thì tôi đã thấy con tàu đó cập vào chỗ đã neo đậu lần đầu.Ống già cùng đám nô lệ xuống ngay tàu và bước tới phía hầm ngầm với vẻ mặt đượm nhiều niềm hy vọng, nhưng khi thấy mặt đất vừa bị đào xới, họ biến sắc, nhất là ông già. Họ dựng tấm đá lên và bước xuống các bậc thang. Họ cất tiếng gọi tên chàng thiếu niên, không có tiếng đáp. Họ sợ hãi bội phần, họ tìm kiếm và cuối cùng thấy cậu ta nằm thẳng trên giường, với con dao nhọn cắm giữa tim vì tôi đã không có can đảm rút nó ra. Nhìn thấy vậy, họ rú lên đau đớn. Tiếng rú của họ cũng làm lòng tôi quặn thắt. Ông già ngã xuống ngất lịm. Bọn đầy tớ khiêng ông lên khỏi hầm cho thoáng khí và đặt ngay dưới gốc cây trên đó tôi đang nm thở cố thu mình lại. Nhưng dù được chăm sóc tận tình, người cha khốn khổ này vẫn bằn bặt mê man làm cho bọn đầy tớ tưởng ông khó lòng qua khỏi.Nhưng rồi cuối cùng ông cũng tỉnh lại sau cơn ngất lịm khá lâu. Rồi bọn nô lệ mang thi hài của con trai ông đã được mặc vào những tấm áo quần đẹp nhất. Và sau khi đào xong hố, họ đã từ từ trịnh trọng đặt cậu thiếu niên xuống đó. Ông già, được hai tên đầy tớ đỡ hai bên, mặt chan hoà nước mắt, là người đầu tiên ném một nắm đất xuống huyệt mộ, sau đó bọn đầy tớ đã san lấp đất đầy hố.Xong việc chôn cất, tất cả những đồ đạc, lương thực đưới hầm đều được lấy lên đưa tất cả lên tàu. Ông già không còn đủ sức bước đi nữa, được đặt nằm lên cáng rồi tất cả lên tàu kéo buồm rời đảo trở về đất liền. Chỉ một thoáng sau, con tàu đã xa khỏi tầm mắt tôi”.Ánh sáng ban ngày đã chiếu vào phòng ngự của Hoàng đế đất nước Ấn Độ buộc Scheherazade ngừng lời. Schahriar cũng đứng lên như mọi khi và cũng vẫn cùng một lý do như đêm trước, ông vẫn để hoàng hậu còn được sống và ở lại cùng với Dinarzade.***Hôm sau trước khi trời sáng, Dinarzade bảo chị:- Chị yêu quí của em, nếu chị không ngủ nữa thì xin chị cho em nghe nốt chuyện của tu sĩ khổ hạnh thứ ba đi .- Thế này em nhé - Scheherazade nói - Em vẫn phải nhớ là vị hoàng tử này vẫn đang kể cho Zobéide và cả các bạn của ành ta nghe chuyện mình. Anh ta kể tiếp như sau:“Sau khi con tàu mang ông già và bọn đầy tớ của ông đi khuất, còn một mình tôi trên hòn đảo. Đêm, tôi ngủ trong hầm vẫn để ngỏ và ban ngày tôi đi dạo quanh hòn đảo và khi mỏi chân thì tìm chỗ thuận tiện để nghỉ ngơi cho đỡ mệt.Tôi kéo dài cuộc sống buồn nản như thế khoảng một tháng trời. Vào những ngày cuối, tôi thấy là nước biển rút đi khá nhiều và hòn đảo thì lớn ra hơn trước, đường như đất liền tiến lại gần. Quả thật là mặt biển xuống thấp đến mức chỉ còn một quãng ngắn ngập nước ngăn cách giữa tôi và đất liền.Tôi lội qua, nước biển chỉ tới ngang bắp chân. Tôi bước đi thật lâu trên cát đến mệt lử người. Cuối cùng tôi đặt bước trên một vùng đất rắn chắc hơn và thấy mình đã rất xa biển. Bỗng nhìn thấy phía trước mặt một đám lửa lớn làm tôi hết sức vui mừng. Mình sẽ gặp một ai đó - tôi nhủ thầm - vì không thể là tự nhiên lại có đám lửa đó. Nhưng đi tới gần thì mới vỡ lẽ ra là cái đám màu đỏ mà tôi ngỡ là lửa thì lại là một toà lâu đài bằng đồng đỏ mà ánh sáng mặt trời chiếu vào làm cho ai từ đằng xa nhìn dễ bị nhầm là một đám cháy.Tôi dừng lại và ngồi xuống bên cạnh toà lâu đài đó chẳng phải là vì muốn ngắm nhìn một kiến trúc tuyệt vời mà chỉ vì muốn ngồi nghỉ để lấy lại sức vì đã quá mệt nhọc, rã rời cả chân tay. Chưa kịp suy nghĩ gì về toà lâu đài mỹ lệ này thì tôi chợt nhìn thấy mười thanh niên chững chạc đường như đi đạo về. Nhưng điều làm tôi vô cùng ngạc nhiên là tất cả đều chột bên mắt phảl. Họ đi theo một ông già cao to có dáng điệu đáng kính.“Tôi hết sức kinh ngạc sao lại gặp một lúc nhiều người chột đến thế mà lại cùng chột một bên mắt như nhau. Trong lúc tôi đoán già đoán non xem vì sao lại như vậy thì họ đi đến gần và tỏ ra mừng rỡ được thấy tôi. Sau những lời thăm hỏi chúc tụng đầu tiên, họ hỏi tôi vì sao lại đến đây. Tôi trả lời là câu chuyện của tôi khá dài và nếu họ chịu khó ngồi xuống thì sẽ kể cho nghe. Họ cùng ngồi xuống và tôi kể tất cả chuyện của tôi từ lúc tôi rời khỏi vương quốc cho tới lúc này. Câu chuyện làm họ ngạc nhiên hết sức.Sau khi câu chuyện kết thúc, những nhà quí phái trẻ này mời tôi cùng vào lâu đài với họ. Tôi nhận lời. Chúng tôi đi qua rất nhiều phòng: phòng ngoài, phòng đợi, phòng trong, văn phòng... tất cả đều được bầy biện những đồ đạc lịch sự và rất sạch sẽ. Cuối cùng chúng tôi đi vào một phòng khách lớn trong đó kê theo vòng tròn mười chiếc bệ nhỏ màu xanh vừa dùng để ngồi, để nằm nghỉ ngơi ban ngày vừa để ngủ vào ban đêm. Ở giữa cái vòng tròn đó là một chiếc bệ thứ mười một cùng màu nhưng kê thấp hơn trên đó ông già mà tôi đã nhắc đến ngồi chễm chệ, còn mười người trẻ tuổi llgồi trên mười chiếc bệ kia.Vì mỗi chiếc bệ chỉ đủ chỗ cho một người nên một chàng trẻ tuổi bảo tôi: - Bạn hãy ngồi vào tấm thảm ở giữa kia và không được hỏi han bất cứ điều gì liên quan tới chúng tôi, cả nguyên nhân vì sao chúng tôi đều bị chột bên mắt phải. Bạn hãy bằng lòng chỉ nhìn xem thôi và chớ nên để trí tò mò của mình đi quá xa.Ông già không ngồi lâu. Ông đứng đậy và đi ra ngoài. Một lát sau, trở vào mang theo bữa ăn tối cho mười chàng trẻ tuổi, mỗi người đều ăn riêng phần của mình. Tôi cũng được chia một phần và ăn một mình như những người khác. Và cuối bữa thì cũng ông già đó đưa cho mỗi người một chén rượu.Câu chuyện của tôi đối với họ kỳ lạ đến mức họ bắt tôi kể lại từ đầu bữa ăn và sau đó bàn luận rôm rả cho tới khuya. Một trong các chàng trai cho mọi người biết là đêm đã khuya và bảo ông già:- Ông thấy đó, đã đến giờ đi ngủ thế mà ông chẳng đưa cho chúng tôi những gì cần thiết để chúng tôi làm tròn nhiệm vụ.Nghe nói thế, ông già đứng lên và đi vào một căn buồng, đội trên đầu lần lượt mười chiếc chậu, cái nào cũng phủ vải xanh, mang ra đặt trước mặt mỗi chàng cùng một cây đuốc.Họ mở nắp chậu trong đó có tro, than bột và nhọ nồi. Họ trộn lẫn ba thứ đó với nhau rồi bắt đầu chà sát và bôi lên mặt trông lem luốc đến phát khiếp lên. Sau khi bôi đen mặt mũi như thế rồi, họ cất tiếng khóc dùng tay đấm vào đầu vào ngực và không ngừng kêu: “Đây là kết quả của sự lười nhác và truỵ lạc của chúng ta?”.Họ cứ làm như thế hầu như hết cả đêm. Rồi cuối cùng họ cũng dừng lại và ông già mang nước sạch đến cho họ rửa mặt mũi chân tay. Họ cũng cởi bỏ cả quần áo đã đen bẩn, mặc quần áo khác. Trông họ lúc này lại như trước chứ không phải là họ vừa làm những việc kỳ cục mà tôi đã được chứng kiến.Thưa bà, xin bà hãy xét xem sự bực bội của tôi suốt thời gian đó. Hàng ngàn lân tôi đã toan phá vỡ sự câm nín mà những chàng trai đã áp đặt cho mình để hởi cho ra lẽ. Và tôi không sao mà nhắm mắt được trong quãng đêm còn lại.Ngày hôm sau, mọi người thức dậy, ra ngoài hít thở không khí, tôi bảo họ:- Thưa các ngài, tôi xin nói với các ngài là tôi phản bác luật lệ mà các ngài đề ra cho tôi chiều hôm qua. Tôi không sao mà tuân theo được. Các ngài đều là người khôn ngoan và thông minh rất mực, tôi biết rõ như vậy. Thế nhưng tôi lại thấy các ngài có những hành động mà ngoài những kẻ mất trí ra thì không ai làm như vậy. Dù cho tai hoạ nào đến với tôi chăng nữa cũng không ngăn được tôi hỏi các ngài vì sao lại tự mình bôi lem mặt mũi bằng tro, than và nhọ nồi.Rồi vì sao mà tất cả các ngài đều chỉ còn một con mắt. Tất là phải có một nguyên nhân đặc biệt nào đó chứ. Vì vậy tôi xin các ngài hãy thoả mãn tính hiếu kỳ của tôi, cho tôi được rõ mọi sự.Trước những van nài khẩn thiết như thế, họ chẳng nói chẳng rằng, quá lắm họ chỉ bảo đó là những cái chẳng liên quan gì tới tôi cả, tôi có biết cũng chẳng có lợi ích gì vậy thì cứ nên ở yên thôi.Ban ngày chúng tôi trao đổi chuyện nọ chuyện kia chẳng đâu vào đâu cả nhưng khi tối đến, sau khi ăn uống riêng rẽ, ông già lại mang những chiếc chậu màu xanh ra, các chàng trai lại tự bôi lên mặt mũi mình cho đen đủi nhem nhuốc, rồi khóc lóc, rồi tự đấm vào mình rồi kêu lên: “Đây là kết quả của sự lười nhác và sự ăn chơi trác táng của chúng ta?”. Ngày hôm sau và những ngày tiếp theo họ cũng vẫn làm như thế.Cuối cùng không sao ngăn nổi trí tò mò, tôi nghiêm chỉnh đề nghị họ hoặc là nói rõ cho tôi biết hoặc là chỉ đường cho tôi trở về cố hương vì tôi không thể ở lâu hơn với họ nữa khi mà đêm nào cũng phải chứng kiến cái cảnh tượng hết sức kỳ lạ mà không hiểu rõ nguyên nhân vì sao lại thế.Một trong các chàng trai thay mặt cho cả bọn bảo tôi:- Xin đừng ngạc nhiên về thái độ của chúng tôi đối với ngài, nếu cho đến lúc này chúng tôi không chịu nhượng bộ với những lời cầu xin năn nỉ của ngài. Đó chẳng qua đơn thuần chỉ vì tình bạn đối với ngài mà thôi. Chúng tôi muốn tránh cho ngài cái tình trạng đáng buồn như chúng tôi mà ngài đã thấy. Nếu ngài thật muốn giống như số phận khốn khổ như chúng tôi thì cứ nói, chúng tôi sẽ đáp ứng yêu cầu của ngài.Tôi bảo họ là tôi sẵn sàng hứng chịu mọi hậu quả.- Một lần nữa - Vẫn chàng đó bảo - Chúng tôi khuyên ngài là nên kiềm chế bớt tính tò mò của ngài lại. Nó sẽ làm cho ngài mất đi con mắt phải đó. - Cũng chẳng sao – Tôi nói - Tôi xin tuyên bố với các ngài là nếu tai hoạ đó xảy ra cho tôi, các ngài sẽ hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm và đó là đo chính tôi gây nên.Chàng này còn cho tôi biết là khi tôi đã bị mất một mắt thì sẽ không còn được ở cùng với họ giả dụ là tôi có ý định đó vì số lượng đã đủ không thể thêm nữa. Tôi bảo họ là được ở cùng với họ đối với tôi là một điều mong ước, nhưng nếu cần thiết thì tôi cũng sẵn sàng phục tùng vì với bất cứ giá nào, tôi cũng mong họ đáp ứng cho điều tôi đòi hỏi.Mười chàng trai thấy quyết định của tôi là dứt khoát liền bắt một con cừu giết chết, lột da, đưa cho tôi con dao mà họ đã dùng và bảo tôi:Ngài hãy cầm lấy con đao này, nó sẽ giúp ích cho ngài trong trường hợp mà chúng tôi sẽ nói cho ngài biết sau. Bây giờ ngài hãy nằm vào trong tấm da cừu này để chúng tôi khâu kín lại. Rồi chúng tôi sẽ rút đi để lại mình ngài ở đây. Lúc đó một con chim to lớn khác thường mà người ta gọi là đại bàng sẽ xuất hiện trong không trung. Nó tưởng ngài là một con cừu sẽ đâm bổ xuống cắp lấy ngài và bay lên tận chín tầng mây. Nhưng xin chớ sợ, nó sẽ lại sà xuống mặt đất và đặt ngài xuống đỉnh một ngọn núi. Khi chạm đất, ngài hãy dùng con dao này rạch tấm da cừu mà chui ra. Con đại bàng trông thấy ngài sẽ hoảng sợ và bay đi mất, để ngài được tự do. Chớ có dừng lại đó mà phải đi, đi cho tới lúc đặt chân trước một lâu đài đồ sộ bao bọc bằng toàn những tấm vàng, những viên ngọc bích khổng lồ và nhiều thứ đá quí nguyên chất khác. Ngài tới cửa lâu đài và bước vào trong vì cửa luôn luôn để ngỏ. Tất cả chúng tôi ở đây cũng đều đã ở lâu đài đó. Tôi sẽ không nói với ngài là chúng tôi đã trông thấy gì và những gì đã xảy ra với chúng tôi tại đó. Ngài sẽ tự tìm hiểu lấy. Điều mà chúng tôi có thể nói với ngài là chúng tôi mỗi người đã phải trả giá bằng con mắt phải của mình, và cái hình phạt mà ngài đã chứng kiến là một việc bắt buộc phải làm vì chúng tôi đã ở cái lâu đài đó. Chuyện riêng của mỗi người chúng tôi chứa đầy những chi tiết phiêu lưu kỳ lạ mà người ta có thể viết nên một cuốn sách dày, nhưng lúc này chúng tôi không thể nói gì với ngài nhiều hơn”.Kể đến đây, Scheherazade ngừng lời và nói với Hoàng đế đất nước Ấn Độ:- Vì em gái thiếp hôm nay đánh thức thiếp dậy sớm hơn mọi khi, kể dài sợ phiền thánh thượng, nhưng kìa trời đã sáng đúng lúc buộc thiếp phải ngừng. Tính hiếu kỳ của hoàng đế Schahriar đã thắng lời thề độc của chính ông.***Dinarzade đêm nay không dậy sớm như đêm trước. Tuy vậy nàng vẫn gọi chị trước trời sáng:- Nếu chị không ngủ nữa thì chị kể nốt chuyện người tu sĩ thứ ba đi.Scheherazade kể tiếp như sau : vẫn là người tu sĩ khổ hạnh nói với Zobéide:- Thưa bà, một trong mười chàng trai chột mắt đã nói như thế với tôi mà tôi vừa kể bà nghe. Thế là tôi chui vào tấm da cừu, cầm theo con dao họ đã đưa. Và sau khi họ đã khâu kín tấm da có tôi ở bên trong, họ để tôi nằm lạĩ đó và rút về phòng khách. Con đại bàng lớn mà họ nói trước, chẳng lâu la gì đã bay tới, sà thẳng vào tôi, dùng móng quắp tội lên như quắp một con cừu và mang lên đỉnh một qua núi.Khi cảm thấy mình đã nảm trên mặt đất, tôi không quên dùng con dao rạch tấm đa, chui la trước mặt con đại bàng khi nhìn thấy tôi nó vội vàng vỗ cánh bay đi mất. Con đại bàng này là một con chim có bộ lông trắng to lớn khủng khiếp. Cứ sức ấy thì nó có thể tha như chơi một con voi ở dưới đồng bằng đưa lên núi cao để xả thịt.Nóng lòng muốn đi ngay tới lâu đài, không để mất thì giờ, tôi rảo bước và chỉ trong nửa ngày đã tới. Tôi có thể nói là dưới mắt tôi, toà lâu đài này còn lộng lẫy hơn nhiều như đã nghe tả.Cổng mở, tôi đi vào một cái sân vuông rất rộng xung quanh có chín mươi chín cửa ra vào bằng gỗ đàn hương và trầm hương và một cửa bằng vàng không kể những cửa dẫn vào các cầu thang tráng lệ đưa lên những căn buồng phía trên và còn nhiều cánh cửa khác nữa mà tôi không nhìn thấy. Một trăm cửa ra vào mà tôi nói ở trên mở thong ra các khu vườn hoặc những kho tàng chứa đầy của cải hoặc các nơi san sát những thứ đồ lạ mắt.Nhìn thấy trước mặt có một cánh cửa mở, tôi đi vào. Đó là một phòng khách rộng đã ngồi sẵn ở trong đó bốn lnươi thiếu phụ với sắc đẹp lộng lẫy mà ngay cả sự tưởng tượng cũng khó vượt qua. Họ ăn vận thật sang trọng. Vừa nhìn thấy tôi bước vào, họ đều nhất loạt đứng dậy và chẳng đợi tôi chào hỏi chúc tụng, họ tỏ về hất sức mừng rỡ, bảo tôi:- Chàng trai tôn quí, xin chúc mừng, xin chúc mừng! Và một thiếu phụ thay mặt cho tất cả nói:- Đã lâu rồi, chúng em chờ đợi một chàng trai hào hoa như chàng. Dáng điệu của chàng đã nói cho chúng em thấy là chàng có đầy đủ những đức tính mà chúng em mong ước và chúng em hy vọng rằng chàng không cho sự có mặt của chúng em là khó chịu và chẳng xứng với chàng.Sau rất nhiều lần thoái thác, tôi đành phải ngồi vào chỗ bị ép buộc, chỗ cao hơn một chút so với chỗ ngồi của họ. Khi tôi tỏ ra vẻ miễn cưỡng thì họ bảo:Đấy chính là chỗ của chàng, lúc này chàng là lãnh chúa, là ông chủ, là quan toà của chúng em. Và chúng em là nô lệ của chàng, sẵn sàng tuân theo những gì chàng ra lệnh.Không có gì trên đời này, thưa bà, làm cho tôi ngạc nhiên hơn là thái độ nhiệt tình và hăng hái của những thiếu phụ xinh đẹp này, sẵn sàng phục vụ, đáp ứng tất cả những gì tôi yêu cầu. Một nàng đem nước nóng đến rửa chân cho tôi. Một nàng khác đội nước thơm lên hai bàn tay tôi. Các nàng này đem tới cho tôi quần áo mới để tôi thay, các nàng kia cho tôi ăn lót dạ, và các nàng còn lại thì tiến đến cốc cầm tay sẵn sàng rót cho tôi một thứ rượu tuyệt ngon. Tất cả công việc này được tiến hành nhịp nhàng, với một trật tự phối hợp một cách khéo léo và với phong cách làm tôi say mê. Tôi uống, tôi ăn... Sau đó tất cả xúm quanh tôi, đòi tôi,thuật lại chuyến đi của mình. Tôi kể chi tiết tất cả những việc xảy ra cho họ nghe và câu chuyện kéo đài mãi tới chập tối”.Scheherazade ngừng lại ở đoạn này. Em nàng hỏi vì sao. Thế em không thấy trời sáng rồi ư, hoàng hậu đáp. Tại sao không gọi chị dậy sớm hơn? Hoàng đế đoán là người tu sĩ đến lâu đài có bốn chục thiếu phụ tuyệt đẹp như vậy chắc là hứa hẹn sẽ có nhiều chuyện xảy ra đáng được chú ý. Ông chẳng muốn tự tước cái thú được nghe tiếp của mình nên lại lui ngày xử hoàng hậu thêm nữa.***So với đêm trước thì đêm nay Dinarzade không được nhanh nhẩu bằng. Hầu như trời đã tờ mờ sáng khi nàng nói với hoàng hậu:- Chị thân yêu của em, nếu chị không còn ngủ thì xin chị nói cho em biết có gì đã xảy ra ở cái lâu đài tráng lệ mà chị đã dừng lại đêm qua đó.- Chị sẽ nói ngay cho em biết đây - Scheherazade đáp rồi quay sang nói với hoàng đế - Tâu hoàng thượng, thế rồi người tu sĩ tiếp tục kể như thế này:“Khi tôi đã kể câu chuyện của mình cho bốn mươi thiếu phụ nghe xong, một vài nàng ngồi gần tôi còn nán lại để cùng tôi trao đổi thêm, trong khi đó thì những người kia, thấy đêm đã xuống, bèn đứng lên đi tìm nến thắp. Họ mang tới rất nhiều nến, thắp lên sáng trưng chẳng kém ánh sáng ban ngày, nhưng các nàng đã sắp đặt bày biện thật cân xứng đẹp mắt.Những thiếu phụ khác bày lên bàn những trái cây khô, những loại mứt và các đồ uống. Các thứ rượu uống bày đầy trong tủ. Một số các nàng xuất hiện với các nhạc cụ trong tay. Khi tất cả đã chuẩn bị xong, các nàng mời tôi ngồi vào bàn và họ cũng cùng ngồi xuống. Chúng tôi ngồi cùng nhau khá lâu. Những nàng có nhiệm vụ chơi đàn và những nàng phải hoà giọng ca của mình theo nhạc đều đứng lên và hình thành một đàn đồng ca thật quyến rũ. Những nàng khác bắt đầu một điệu vũ từng đôi một cầm tay nhau nhảy, hết đôi nọ đến đôi kia, yểu điệu và duyên đáng vô cùng.Quá nửa đêm, cuộc vui ngừng lại. Một trong các thiếu phụ cất tiếng, bảo tôi:- Chàng đã mệt vì đoạn đường đi hôm nay, đã đến lúc chàng cần phải nghỉ ngơi. Buồng riêng của chàng đã được sửa soạn, nhưng trước khi về đó chàng hãy chọn cơ nào trong bọn thiếp mà chàng thấy thích hơn cả. Chàng hãy đưa cô ấy về ngủ cùng chàng.Tôi đáp là sẽ không làm việc chọn lựa đó theo lời đề nghị vì tôi thấy tất cả các nàng đều đẹp, đều thông minh, đều xứng đáng với sự tôn trọng và ý thức phục vụ của tôi. Tôi không muốn mắc vào khuyết điểm bất lịch sự nếu bảo thích người nọ hơn người kia.Cũng thiếu phụ đã nói với tôi lại bảo:- Chúng em rất tin ở sự thẳng thắn của chàng và chúng em thấy rõ là chàng sợ chúng em sẽ sinh lòng ghen tuông với nhau nên giữ ý. Nhưng xin chàng đừng ngại: chúng em đã cùng nhau thoả thuận là hạnh phúc của cô nào được chàng chọn không làm cho chúng em ghen tuông chút nào, vì hằng đêm lần lượt chúng em đều được hưởng hạnh phúc đó. Cứ bốn chục ngày là đến lượt và lại bắt đầu lượt mới. Vậy chàng hãy cứ tự do lựa chọn đi, chớ nên để mất thời gian cần cho sự nghỉ ngơi của chàng.Tôi đành phải nhượng bộ và giơ tay ra cho nàng đã thay mặt tất cả chị em trao đổi với tôi, nàng cũng đưa tay cho tôi và chúng tôi được dẫn tới một căn phòng lộng lẫy. Người ta để chúng tôi chỉ còn hai người với nhau, còn các thiếu phụ khác đều về phòng riêng của mình...”.- Nhưng trời lại đã sáng mất rồi, tâu bệ hạ - Scheherazade nói với hoàng đế - và xin Người hãy cho phép thiếp để lại tu sĩ vôi nàng thiếu phụ cửa chàng ở trong căn phòng riêng của họ.Schahriar lặng thinh nhưng ông đứng lên tự nhủ: phải công nhận là câu chuyện tuyệt hay, ta sẽ mắc sai lầm to nhất trong thiên hạ nếu không để chút thì giờ nghe nốt cho đến cuối.***Dinarzade, tàn đêm hôm sau, không quên bảo chị:- Chị ơi? Nếu chị không muốn ngủ nữa, thì em xin chị kể nốt câu chuyện kỳ thú về người tu sĩ thứ ba cho em nghe đi?- Chị xin vui lòng - Scheherazade đáp - Và đây là lời của vị hoàng tử đó kể tiếp chuyện mình:“Sáng hồm sau, chỉ vừa mới mặc xong quần áo thì ba mươi chín thiếu phụ kia đã kéo đến phòng tôi, tất cả đều trang điểm khác hẳn ngày hôm trước. Các nàng chúc tội một ngày tốt đẹp và hỏi han tôi về sức khoẻ. Rồi các nàng đưa tôi vào buồng tắm, tự tay kỳ cọ cho tôi và mặc dù ngoài ý muốn của tôi, các nàng vẫn giúp tôi mọi việc cần thiết. Các nàng mặc cho tôi một bộ quần áo khác còn đẹp hơn cả bộ hôm qua.Suốt ngày hầu như chúng tôi chỉ ngồi ở bàn ăn và khi tới giờ đi ngủ, các nàng lại bảo tôi chọn người để qua đêm. Thưa bà, để bà khỏi nhàm chán vì cứ phải nghe nhắc đi nhắc lại cùng một việc đó, tôi xin nói tóm tắt là suốt một năm tròn tôi sống với bốn mươi thiếu phụ và lần lượt mỗi đêm tôi ngủ với một người. Và suốt cả thời gian đó, cuộc sống đầy hoan lạc đó không hề bị bất cứ một sự buồn phiền nhỏ nhặt nào làm cho gián đoạn.Cuối năm đó (không gì làm tôi bất ngờ hơn), bốn mươi thiếu phụ đó đáng lẽ đến với tôi vui vẻ như thường ngày, hỏi thăm sức khoẻ... thì một buổi sáng vào phòng tôi, nước mắt chan hoà. Họ lần lượt đến ôm hôn tôi và nói: Vĩnh biệt hoàng tử yêu quí, vĩnh biệt? Chúng em buộc phải xa chàng thôi”.Nước mắt của các nàng làm tôi xốn xang. Tôi yêu cầu họ cho biết căn nguyên nỗi buồn của họ và sự ly biệt mà họ vừa nói. Tôi nói thêm:- Nhân danh Thượng đế, các cô em xinh đẹp của tôỉ, hãy cho tôi biết là có thể làm gì để có thể an ủi và giúp ích được các cô em bây giờ?Đáng lẽ trả lời rõ ràng thì các nàng lại nói:- Thượng đế chứng giám! Thà là chúng em. chưa hề quen biết chàng! Nhiều người trước chàng cũng đã có dịp tới thăm hỏi chúng em nhưng không một ai có được sự duyên dáng, dịu dàng, trẻ trung vui vẻ và tư cách như chàng. Chúng em chẳng biết rồi đây sẽ phải sống ra sao khi thiếu chàng.Nói xong câu đó, các nàng lại khóc thảm thiết:- Các cô nàng đáng yêu của tôi - Tôi nói - Tôi xin các nàng đừng làm cho tôi sầu não hơn nữa, hãy nói ngay cho tôi biết nguyên nhân nỗi đau lòng của các nàng.- Than ôi! - Các nàng bảo - Còn có điều gì khác làm cho chúng em đau lòng là phải xa chàng nữa đâu? Có thể chúng em chẳng còn bao giờ được thấy chàng nữa? Tuy vậy nếu chàng muốn và vì chuyện này mà tự chủ được bản thân thì không phải là không thể lại gặp được nhau.- Các nàng? - Tôi lại nói - Tôi chẳng hiểu các nàng muốn nói gì. Xin hãy nói rõ ra xem nào.- Vậy thì - Một nàng nói - Để làm vừa lòng chàng, em nói cho chàng biết chúng em đều là công chúa, con gái vua. Chúng em cùng nhau sống chung ở đây trong cảnh lạc thú mà chàng thấy đó, nhưng cứ mỗi năm là chúng em phải bắt buộc vắng mặt bốn mươi ngày cho những bổn phận cần thiết không thể nói ra được. Sau đó chúng em sẽ lại trở về đây. Hôm qua là ngày hết năm, hôm nay chúng em phải từ biệt chàng. Vì vậy đó là nguyên nhân nỗi đau buồn của chúng em. Trước khi ra đi, chúng em sẽ để lại cho chàng tất cả những chìa khoá? đặc biệt là chìa khoá cửa của trăm gian phòng mà chàng sẽ thấy trong đó tất cả những thứ hay, lạ khả dĩ có thể thoả mãn óc hiếu kỳ và làm dịu đi nỗi buồn cô đơn của chàng trong thời gian chúng em vắng mặt. Nhưng vì điều tất cho chàng và vì lợi ích riêng của chúng em, xin chàng chớ có đụng tới và mở cái cánh cửa bằng vàng của một phòng đặc biệt trong số một trăm phòng kia. Nếu chàng mà mở ra thì chẳng. bao giờ chúng ta cò thấy lại nhau nữa và chính nỗi lo đó lại càng làm chúng em đau khổ. Chúng em mong là chàng sẽ làm theo lời chúng em căn dặn. Nó quan hệ tới sự an bình, đến hạnh phúc của cuộc sống, chàng hãy thận trọng, nếu chàng để cho tính tò mò thóc mách lấn át thì đó là chàng đã mắc một sai lầm lớn. Chúng em khuyên chàng chớ mắc vào sai lầm đó và để cho chúng em nuôi hy vọàg là sẽ được thấy lại chàng tại đây trong vòng bơn mươi ngày nữa. Chúng em có thể mang theo chìa khoá của cái cửa bằng vàng đó, nhưng sẽ là một sự xúc phạm đối với một hoàng tử đàng hoàng như chàng, là đã nghi ngờ tính kín đáo và sự kiềm chế bản thân của chàng”.Scheherazade muốn kể tiếp, nhưng nhìn thấy trời đã sáng. Hoàng đế, tò mò muốn biết là người tu sĩ đó làm gì khi chỉ còn một mình trong lâu đài sau khi bốn mươi thiếu phụ đã ra đi nên tự hẹn đến đêm sau chắc sẽ được làm sáng tỏ.***
Cô gái hảo tâm Dinarzade thức giấc dậy khá lâu trước khi trời sáng, gọi hoàng hậu:- Chị ơi, nếu chị không ngủ nứa thì chị nên kể tiếp cho hoàng đế, lãnh chúa của chúng ta nghe câu chuyện mà chị đã bắt đầu đi!Scheherazade ngoảnh về phía Schahrlar nói:- Tâu hoàng thượng, Người đã biết là người tu sĩ vẫn kể chuyện mình cho Zobéide nghe. Anh ta kể tiếp như thế này:“Thưa bà, lời dặn dò của những nàng công chúa xinh đẹp này thực sự làm tôi đâu lòng. Tôi bày tỏ với các nàng là sự vắng mặt của các nàng làm tôi buồn nhớ vô hạn. Tôi hết sức cảm ớn về những lời dặn dò chu đáo. Tôi hứa với họ là sẽ nghe theo và hết sức cố gắng làm những việc khó khăn hơn để có hạnh phúc được sống những ngày còn lại cùng những người đàn bà hiếm có như các nàng. Cuộc chia tay diễn ra đầy lưu luyến. Tôi lần lượt ôm hôn họ. Rồi các nàng ra đi, còn một mình tôi ở lại lâu đài.Niềm lạc thú trong cuộc sống chung, những bữa tiệc thịnh soạn, các buổi hoà nhạc, những trò vui chơi làm tôi bận rộn suốt cả năm khiến tôi chẳng còn thời gian cũng như chẳng có một chút ý muốn nào xem những kỳ quan có thể đầy đẫy trong cái lâu đài huyền ảo này. Tôi cũng chẳng mảy may chú ý gì đến tất cả những đồ vật đẹp tuyệt vời dưới mắt tôi hàng ngày vì còn mải mê say đắm trước nhan sắc của các thiếu phụ, được nhìn thấy họ chỉ duy nhất quan tâm tới việc làm cho tôi vui thích. Tôi buồn đến nẫu ruột khi họ ra đi và, tuy sự vắng mặt của họ chỉ trong vòng bốn chục ngày, mà tôi tháy như mình phải sống không có các nàng hàng thế kỷ.Tôi tự hứa với mình là sẽ không quên lời dặn dò quan trọng của họ là không bao giờ được mở cái cánh cửa bằng vàng. Và dường như chỉ cần thế, tôi được phép thoả mãn trí tò mò ở những cánh cửa kia. Tôi cầm lấy chiếc chìa khoá thứ nhất đã được sắp xếp thứ tự.Tôi mở cánh cửa thứ nhất và đi vào một khu vườn cây ăn quả mà tôi tưởng là trong toàn vũ trụ không có một vườn quả nào so sánh nổi. Tôi cũng không nghĩ là vườn thiên đàng mà đạo giáo chúng ta hứa hẹn với những tín đồ sau khi chết liệu có hơn được thế này không. Tính đối xứng, vẻ sạch sẽ, cách bố trí tuyệt vờl các cây trồng, sự phong phú và sự đa dạng của hàng ngàn loại quả lạ, tươi tốt, đẹp đẽ tất cả làm tôi ngợp mắt. Tôi cũng chẳng được phép bỏ qua để lưu ý với bà, thưa bà, là khu vườn tuyệt diệu này được tưới tắm một cách rất khác thường. Những rãnh nước đứợc đào khéo léo và cân đoí đem nước thật đầy đủ tới rễ các cây đang cần trổ lá non và trổ hoa; những rãnh nước khác thì đưa lượng nước vừa đủ tới gốc những cây đang bắt đầu ra quả; những rãnh khác thì đưa ít nước hơn tới những gốc cây mà quả đã lớn; những rãnh khác chỉ tưới vừa đủ cho những cây mà quả chỉ còn chờ hái xuống thôi. Và những trái cây này cũng to hơn rất nhiều lần so với những quả thường có trong các khu vườn của chúng ta. Còn những mương nước khác dẫn nước cho những cây mà quả đã chín thì chỉ cần vừa đủ độ ẩm để giữ nguyên chất lượng cho quả chưa kịp hái xuống mà thôi.Tôi ngắm nhìn không biết chán một nơi có phong cảnh đẹp tuyệt vời như thế và không còn muốn rời đi nữa nếu không thấy thoáng qua trong đầu là còn rất nhiều điều kỳ thú mà mình chưa được nhìn thấy. Đi ra khỏi vườn, trong đầu óc đầy những điều kỳ diệu, tôi đóng cửa thứ nhất lại và mở cánh cửa tiếp theo.Thay cho một vườn cây ăn quả là một vườn trồng hoa, cũng chẳng kém phần đặc biệt về loại vườn này. Vườn gồm có một khoảnh đất rộng được tướí nước không phải theo cách như bên vườn cây ăn quả nhưng công phu hơn nhiều để mỗi loại hoa nhận được nước vừa đủ cho sự sinh trưởng của mình. Hoa hồng, hoa nhài, hoa tím, hoa thuỷ tiên, hoa dạ lài, hoa mẫu đơn, hoa uất kim cương, hoa mao hương, hoa cẩm chướng, hoa huệ và vô vàn những thứ hoa khác mà nếu ở nơi khác thì chỉ nở theo mùa, nhưng ở đây lại cùng lúc nở rộ muôn hồng nghìn tía.
Thật không ở đâu sảng khoái bằng ở khu vườn mà không khí thấm đẫm hương thơm này.Tôi mở cánh cửa thứ ba, đó là một nhà nuôi chim rất rộng. Nền nhà lát đá hoa cẩm thạch đủ các màu sắc, vào loại đá quý nhất và hiếm nhất. Lồng chim bằng gỗ đàn hương và trầm hương. Những chiếc lồng rộng lớn đó chứa vô số những chim hoạ mi, chim kim oanh, chim bạch yến, chim sơa ca và các loại chim khác có tiếng hót thật du dương mà tôi chưa từng thấy người nào nói trong đời. Những chiếc bình đựng hạt và nước uống cho chim đều được làm bằng đá hoa vân và mã não vào loại quí nhất.Nhà nuôi chim này vô cùng sạch sẽ. Cứ nhìn vào qui mô của nó, tôi ước lượng là phải có không dưới một trăm con ngườì thì mới bảo quản giữ gìn được tinh tươm như vậy. Thế nhưng chẳng thấy có một bóng người nào xuất hiện, cũng như trong các khu vườn mà tôi đã vào thăm không hề có một ngọn cỏ dại, một sự thừa thãi nhỏ nào làm chướng mắt.Mặt trời đã lặn, tôi trở ra, tai còn vang vang những tiếng hót của muôn loài chim lúc này đang tìm chỡ đỗ thuận tiện nhất để nghỉ đêm. Tôi về phòng riêng và định bụng là sẽ lần lượt mở những cánh cửa khác vào những ngày sau trừ cánh cửa bằng vàng thứ một trăm.Ngày hôm sau, tôi không quên đi đến mở cánh cửa thứ tư. Nếu những gì mà tôi nhìn thấy ngày hôm trước đã gây cho tôi bao sự ngạc nhiên, thì những gì tôi thấy luc này làm tôi mê mẩn. Tôi đặt chân trong một cái sân rộng, quây xung quanh là một toà nhà với kiến trúc tuyết diệu mà tôi chẳng tả ra đây làm gì để tránh sự dài dòng.Toà nhà này có bốn chục cửa, mỗi cửa mở đi vào một kho tàng và trong số kho tàng đó có những kho giá trị hơn cả sự giàu có của những vương quốc lớn nhất. Kho thứ nhất chứa hàng núi ngọc trai những viên ngọc quí nhất ngoài mọi sức tưởng tượng, đều to bằng những quả trứng chim bồ câu. Trong kho thứ haí là những viên kim cương, ngọc hồng và ngọc tía. Trong kho thứ ba gồm toàn ngọc bích. Kho thứ tư: vàng thỏi; kho thứ năm: tiền đồng; kho thứ sáu: bạc nén. Hai kho tiếp theo: tiền các loại. Các kho khác chứa ngọc tía, ngọc xanh, ngọc vàng, ngọc mắt mèo, ngọc lam, ngọc vân và tất cả nhũng loại đá quí khác mà ta không biết, rồi mã não, vân thạch và san hô: San hô ở đây có cả một kho đầy không chỉ là cành san hô mà là những cây san hô nguyên vẹn.Đầy kinh ngạc và khâm phục, sau khi xem tất cả những của cải quý báu đó, tôi thất lên:- Chà, tất cả các kho tàng của tất cả các quốc gia trên trái đất này nếu được tập họp lại một nơi cũng không thể bằng được những của cải này.
Chương 12
Hai thiếu phụ ở cùng với tôi và hiện đang có mặt tại đây cũng là chị em của tôi nhưng cùng cha khác mẹ. Cô em mà ngực đầy vết sẹo tên là Amine, cô kia có tên là Safie, còn tôi là ZobéiDe.
- Nàng nói - Chuyện tôi kể hầu Người sau đây là một trong các chuyện kỳ lạ nhất chưa ai từng nghe nói. Hai con chó mực cái và tôi vốn là ba chị em cùng một cha mẹ sinh ra. Tôi sẽ kể Người nghe vì cơn cớ gì mà họ lại hoá thành chó.
Hai thiếu phụ ở cùng với tôi và hiện đang có mặt tại đây cũng là chị em của tôi nhưng cùng cha khác mẹ. Cô em mà ngực đầy vết sẹo tên là Amine, cô kia có tên là Safie, còn tôi là ZobéiDe.
Sau khi cha chúng tôi tạ thế, của cải ngườI để lại được chia đều cho mọi người chúng tôi. Sau khi nhận phần của mình, hai cô em này chIa tay nhau và mỗi cô đều về sóng với mẹ đẻ của mình. Hai người chị và tôi ở lại sống với mẹ. Sau đó mẹ chúng tôi qua đời để lại cho chúng tôi mỗi người một nghìn đồng sequins.
Khi mọi người chúng tôi đã nhận đủ phần tài sản của mình thì hai chị tôi (tôI là em út) thành gia thất đi theo chồng và để tôI ở LạI một mình. Sau hôn nhân một thời gian ngắn thì người chồng của chị cả tôi bán đi tất cả gia sản, đồ đạc nhà cửa rồi cả haI vợ chồng sang sinh sống bên châu Phi. Tại đây, người chồng tiêu xài hoang phí, rượu chè trai gái nên chẳng bao lâu mà vốn liếng của anh ta và vốn riêng của chị tôi hết sạch. Cuối Cùng, thấy mình hoàn toàn khánh kiệt, anh ta kiếm cớ ruồng rẫy vợ và đuổi chị đi. Chị tôi trở về Bagdad, trải bao gian nan khổ ải trong một chuyến đi dài, chị về trú ngụ tại nhà tôi trong tình trạng vô cùng đáng thương, làm xót xa đến cả những tấm lòng cứng rắn. Tôi đón nhận chị với tất cả sự yêu thương mà chị có thể chờ đợi ở tôi. Tôi hỏi chị nguyên nhân của hoàn cảnh khốn khổ này. Chị khóc kể cho tôi nghe hạnh kiểm xấu xa của chồng và sự đối xử tàn tệ của hắn đối với chị. Tôi rất xúc động về nỗi bất hạnh của chị và cũng không sao cầm được dòng nước mắt thương cảm. Tôi bảo chị đi tắm rửa, đưa cho chị quần áo của tôi để chị thay và bảo chị: “Chị của em, chị là chị cả, em coi chị như mẹ. Khi chị rời đây đi theo chồng thì với phần tài sản được chia, nhờ ơn Thượng đế, em đã dùng số vốn ít ỏi đó chăn nuôi tằm và đã ăn nên làm ra. Xin chị hãy coi tất cả những gì em có đây như là của chị, chị muốn sử dụng ra sao tuỳ ý.
Trong nhiều tháng liền, chúng tôi sống với nhau thật hoà thuận. Chúng tôi thường luôn luôn trao đổi chuyện trò về người chị thứ hai và rất lấy làm ngạc nhiên là tuyệt nhiên không có một tin tức nào. Thì ra chị ấy cũng lâm vào hoàn cảnh đáng phàn nàn chẳng khác gì chị cả. Chồng của chị cũng đối xử với chị tàn tệ như thế. Và tôi lại đón nhận chị cũng đầy tình thân ái như thế.
Một thời gian sau hai bà chị của tôi, dưới cớ không muốn là gánh nặng cho tôi mãi, tỏ ý muốn tái giá. Tôi trả lời hai chị là nếu họ không có lý do gì ngoài ý cho mình là gánh nặng cho tôi thì xin cứ yên tâm sống cùng tôi, là vốn liếng của tôi cũng đủ chu cấp cho cả ba một cuộc sống chẳng đến nỗi thiếu thốn. Nhưng - tôi nói thêm - em sợ là các chị có ý muốn đi bước nữa. Nếu thực là như thế, thì thú thật là em vô cùng ngạc nhiên. Sau kinh nghiệm mà các chị vừa trải qua trong cuộc hôn nhân chẳng tất đẹp gì, chẳng lẽ các chị còn muốn sa vào lần thứ hai? Các chị cũng chẳng còn lạ gì là tìm được một người đàn ông chân chính bây giờ thật vô cùng khó khăn. Hãy tin em đi, chúng ta hãy tiếp tục cuộc sống chung với nhau như thế này, há chẳng phải là ấm cúng dễ chịu sao!
Tất cả những lời chân tình tôi nói với họ đều hoàn toàn vô ích. Họ đã quyết định lại đi lấy chồng và họ thực hiện quyết định đó. Nhưng, chỉ vài tháng sau họ lại quay về thiết tha xin lỗi là đã không nghe theo lời khuyên của tôi.
- Em là em út của các chị - Họ bảo tôi - Nhưng em khôn ngoan hơn các chị nhiều. Nếu em lại vui lòng đón nhận các chị và coi các chị như những nô lệ của em thì các chị sẽ chẳng bao giờ mắc sai lầm như thế nữa.
- Các chị yêu quý! - Tôi đáp - Kể từ ngày các chị chia tay mới đây, em vẫn một lòng thương yêu, chẳng có gì thay đổi đối với các chị cả. Các chị hãy trở về đây và cùng chung hưởng với nhau những gì mà em sở hữu.
Tôi ôm hôn họ và chúng tôi lại cùng chung sống với nhau như trước đây.
Được một năm, chúng tôi sống trong tình đoàn kết và được Thượng đế phù hộ cho cái vốn liếng nhỏ nhoi của mình phát triển. Tôi nảy ra ý định làm một chuyến đi biển và thử vận may trong buôn bán. Vì vậy tôi và hai chị chuyển đến Balsora mua một con tàu đầy đủ trang thiết bị, chất đầy hàng mà tôi cho chở tới từ Bagdad. Giương buồm và được thuận gió, chẳng mấy chốc, chúng tôi đã qua Vịnh Persique. Ra khơi, chiếu thẳng sang Ấn Độ và sau hai chục ngày lênh đênh trên mặt biển, chúng tôi đã nhìn thấy đất liền. Đó là một ngọn núi rất cao, dưới chân núi một thành phố có vẻ ngoài thật trù phú.
Vì đang thuận gió nên chúng tôi cặp bến sớm và thả neo.
Không đủ kiên nhẫn đợi các chị trang điểm và sửa soạn đi theo, tôi xuống tàu một mình và đi thẳng vào thành phố. Tôi thấy một đám đông, người thì ngồi, người thì đứng, mỗi người trong tay đều cầm một cái gậy, tất cả đều có vẻ mặt xấu xí khủng khiếp khiến tôi hoảng sợ. Nhưng nhận thấy tất cả đều im lìm bất động và ngay cả đồng tử mắt cũng không động đậy, tôi vững dạ tiến đến gần hơn và thấy đó là những con người đã hoá đá.
Tôi đi vào trong thành, qua nhiều đường phố mà từng quãng từng quãng lại có những người trong đủ các tư thế nhưng đều bất động vì đã hoá đá. Ở khu vực buôn bán, phần lớn các quán hàng đều đóng cửa, còn trong số ít những quán cửa mở thì những người ở đó cũng đều đã hoá đá. Ngước mắt lên nhìn những ống khói các bếp, không nhìn thấy khói toả, tôi đoán là tất cả những ai ở trong nhà cũng như những người ở bên ngoài đều hoá đá rồi.
Đến trước một công trường lớn ở giữa thành phố, tôi phát hiện ra một cái cổng lớn hai cánh để mở dát những tấm vàng ròng. Phía trước có một tấm rèm lụa rủ xuống và một cái đèn treo ngay phía trên cổng. Sau khi ngắm kỹ toà nhà, tôi không chút nghi ngờ đó là cung điện của một vị quốc vương trị vì xứ sở này. Nhưng vô cùng kinh ngạc là không gặp một sinh vật nào mà tôi thì hy vọng là tại đây có thể thấy một người nào đó. Tôi nâng bức rèm lên và lại càng kinh ngạc khi chỉ nhìn thấy dưới tiền đình một vài người gác cổng hoặc tuần canh đều đã hoá đá, người đứng, kẻ ngồi hoặc nửa nằm nửa ngồi.
Tôi đi qua một cái sân lớn có rất đông người. Những người này thì hình như đang đi, những người kia đang đến và chẳng ai nhúc nhích vì họ đều hoá đá như tất cả những người đã gặp. Tôi đi qua một cái sân thứ hai rồi đến cái sân thứ ba, mọi chỗ đều cô quạnh, im lặng đến rùng rợn.
Tiến tới một cái sân thứ tư, tôi nhìn thấy ngay trước mặt mình một đinh thự lộng lẫy mà các cửa sổ đều đóng các tấm lưới bằng vàng khối. Đoán đó là nơi ở của hoàng hậu, tôi đi vào. Trong một căn phòng thấy rất nhiều hoạn nô da đen đã hoá đá. Bước tiếp đến một căn phòng bài trí lộng lẫy, tôi thấy một bà mệnh phụ cũng đã hoá đá. Tôi biết đó là hoàng hậu vì trên đầu có vương miện bằng vàng và một chuỗi ngọc trai rất tròn và lớn hơn hạt dẻ. Tôi ngắm nghía thật gần và thấy chưa từng nhìn được một thứ nào đẹp hơn.
Tôi ngắm nhìn một lát tất cả những sự giàu có và sang trọng trong căn phòng này nhất là chiếc thảm chùi chân, những tấm gối dựa và chiếc sập trải tấm vải Ấn Độ thêu chỉ vàng với những hình người và vật thêu sợi bạc vô cùng tinh xảo.”
Scheherazade đáng lẽ còn tiếp tục kể nếu không thấy tia sáng bình minh đã len lỏi vào phòng ngủ. Hoàng đế say sưa nghe chuyện. Ông đứng lên tự bảo: ta cần phải biết cái chuyện những con người hoá đá lạ lùng này rồi sẽ đi tới đâu.
Dinarzade rất thích thú về đoạn đầu chuyện nàng Zobéide nên đã không quên kêu hoàng hậu trước khi trời sáng:
- Chị ơi? Nếu chị đã thức thì hãy kể tiếp cho em biết là Zobéide còn nhìn thấy những gì trong cái cung điện kỳ lạ mà bà ta đã đi vào.
- Người thiếu phụ này - Scheherazade nói - đã kể tiếp chuyện của mình với hoàng đế như sau:
- Tâu bệ hạ - Nàng kể - Từ phòng hoàng hậu hoá đá, tôi đã qua rất nhiều buồng và các phòng trong cung điện. Các nơi này đều rất sạch sẽ và tráng lệ. Cuối cùng tôi đến một căn phòng to rộng khác thường, ở đó có một bệ bằng vàng khối cao mấy bậc và có đính những viên ngọc bích rất to. Trên bệ đặt một chiếc giường trải gấm viền ngọc trai. Điều làm ngạc nhiên và khâm phục hơn cả là thấy có một luồng sáng chói ngời phóng ra từ phía chiếc giường đó. Tò mò muốn biết rõ sự tình, tôi trèo lên, nghển đầu nhìn thấy trên chiếc ghế đẩu một viên kim cương to bằng trứng đà điểu hoàn mỹ đến mức không thấy một vệt nhỏ nào trên mình nó. Viên kim cương phát sáng làm mắt tôi bị chói loà.
Hai bên đầu giường có hai cây đuốc thắp không rõ để làm.gì. Dù sao trong hoàn cảnh như vậy cũng khiến tôi đoán là có một ai đó sống trong cái cung điện nguy nga tráng lệ này vì những cây đuốc không thể tự nó thắp sang được. Rất nhiều những cái khác thường đã giữ tôi dừng lại ở căn phòng này, chỉ riêng viên kim cương mà tôi vừa nói cũng đã là vô giá.
Cũng vì tất cả các cửa đều để ngỏ hoặc chỉ khép hờ nên tôi đã đi vào những phòng khác cũng đẹp và sang trọng như những phòng tôi đã qua. Tôi đi đến tận các nhà bếp và các kho chứa đồ đầy ắp những của cải và mải chú ý tới tất cả những kỳ quan đó mà quên khuấy cả bản thân mình. Tôi chẳng còn nghĩ gì đến con tàu cũng như các chị mình mà chỉ nghĩ tới làm sao cho thoả trí tò mò. Nhưng đêm đang tới nhắc tôi là đã đến giờ rút ra về. Tôi muốn quay lại con đường qua các khoảng sân mà từ đó tôi đã đi nhưng chẳng phải dễ dàng gì mà tìm lại được. Tôi đi lạc trong các phòng và thấy mình lại vào căn phòng to rộng ở đó có cái bệ cao, cái giường, viên kim cương khổng lồ và những cây đuốc thắp sáng. Tôi quyết định qua đêm ở đây và sáng sớm mai sẽ tìm đường về con tàu của mình. Tôi đặt mình xuống glường không khỏi rùng mình sợ hãi thấy trơ trọi một mình ở một nơi hoang phế như thế này và chắc là vì sự sợ hãl đã làm tôi không sao mà ngủ được.
Vào khoảng nửa đêm bỗng tôi nghe thấy như tiếng một người đàn ông đọc kinh Coran, cũng giống kiểu cách và giọng đọc như chúng ta thường đọc trong đền thờ đạo Hồi của chúng ta. Điều này làm tôi vui mừng hết sức. Tôi lập tức bật dậy cầm lấy một cây đuốc để soi đường. Tôi đi từ phòng này sang phòng khác về phía nghe thấy tiếng nói đó vọng lại. Dừng lại trước cửa một phòng mà tôi thấy không thể nhầm được là tiếng nói phát ra từ trong đó. Tôi đặt cây đuốc xuống đất nhìn qua khe cửa thấy căn phòng như một nơl rao giảng. Đúng vậy, cũng như trong đền thờ của chúng ta, có một cái khám để các tín đồ quay vào cầu nguyện, những ngọn đèn treo thắp sáng và hai chân đèn với những cây nến trắng to cũng đang cháy sáng.
Tôi cũng nhìn thấy một cái thảm nhỏ trải sẵn theo cách như ở chúng ta để đặt mình lên trên và cầu kinh. Một người trẻ tuổi vẻ mặt hiền từ đang ngồi trên tấm thảm, chăm chú đọc quyển kinh Coran đặt trên một chiếc giá nhỏ trước mặt. Nhìn thấy vậy, lòng tràn đầy ngưỡng mộ, tôi tự hỏi trong đầu làm sao lại có thể chỉ còn một mình anh ta sống trong một thành phố mà tất cả mọi người đều đã hoá đá và chẳng còn nghi ngờ gì nữa là trong chuyện này có một cái gì đó kỳ quặc khác thường.
Vì cửa chỉ khép hờ nên tôi đẩy ra, bước vào và đứng thẳng người trước khám, xướng to lời cầu nguyện: “Ngợi ca Thượng đế đã phù hộ cho chúng con được thuận buồm xuôi gió. Xin Người hãy ban phúc lành và che chở cho chúng con như thế cho đến lúc về lại nước nhà. Xin hãy nghe và chấp nhận lời cầu xin của chúng con”.
Chàng thanh niên đưa mắt nhìn tôi nói:
- Thưa quý bà, xin cho biết quý bà là ai và việc gì đã đưa bà tới cái thành phố ảm đạm này. Để đáp lại, tôi sẽ cho bà biết tôi là ai, có gì đã xảy ra với tôi và vì lý do gì mà toàn bộ dân cư thành phố này lại lâm tới tình trạng mà bà đã thấy và vì sao chỉ có riêng một mình tôi đã được an toàn vô sự trong cái cảnh tàn phá khủng khiếp này.
Tôi kể tóm tắt cho chàng ta nghe tôi từ đâu tới, điều gì đã khiến tôi làm cuộc hành trình này và đã may mắn cập bến sau hai chục ngày lênh đênh trên sóng nước như thế nào. Khi kể xong, tôi yêu cầu chàng ta thực hiện lời đâ hứa và cũng nói lên sự xúc động của mình vì cảnh tượng bi thảm của tất cả những nơi tôi đã đi qua.
- Thưa quý bà - Chàng trẻ tuổi nói - Xin hãy kiên nhẫn một chút.
Nói xong, chàng khép cuốn kinh Coran lại, cho vào một cál túi quí và đặt vào trong khám. Tôi lợi dụng khoảnh khắc này để ngắm kỹ chàng trai trẻ và thấy chàng thật đẹp và duyên dáng khiến tôi thấy lòng mình rung động, một tình cảm trước đây chưa từng có. Chàng bảo tôi ngồi bên cạnh mình, và trước khi chàng bắt đầu câu chuyện, tôi không ngăn được để nói với chàng tình cảm mà chàng đã gợi lên cho tôi:
- Hơi chàng trai quý mến và thân thương! Không ai có thể nôn nóng hơn tôi lúc này là đang chờ đợi một lời làm sáng tỏ về biết bao nhiêu sự kiện kỳ lạ đập vào mắt tôi ngay từ bước đầu tiên tôi đi vào thành phố của chàng mà óc hiếu kỳ của tôi chưa được thoả mản. Xin chàng hãy nói đi; hãy cho tôi biết nhờ có phép màu nào mà chỉ duy nhất có chàng còn sống giữa bao nhiêu con người đã chết một cách dị thường”.
Scheherazade đến đoạn này thì ngừng lại và nói với Schahriar:
- Tâu bệ hạ, chắc là Người chưa nhận thấy là trời vừa sáng. Nếu thiếp tiếp tục kể e là mang tiếng lợi dụng sự quá tập trung chú ý của Người.
Hoàng đế đứng lên, quyết định đêm sau sẽ nghe nốt câu chuyện đặc biệt kỳ lạ này.
- Chị ơi, nếu chị đã thức giấc - Dinarzade gọi chị trước khi trời sáng ngày hôm sau - thì em xin chị kể tiếp những gì đã xảy ra giữa nàng Zobélde và chàng trai trẻ nàng gặp trong toà cung điện mà chị tả lại là rất đẹp đó.
- Chị sẽ làm vui lòng em ngay đây - Hoàng hậu nói.
“ Zobéide kể tiếp câu chuyện của nàng như sau:
- Thưa bà - Chàng trẻ tuổi đó bảo tôi - Tôi thấy là bà biết rõ đấng Thượng đế chán chính qua lời cầu nguyện vừa rồi. Bà sẽ nghe một chuyện sau đây nó làm rõ sự vĩ đại và quyền lực của Người. Tôi xin nói thành phố này là kinh đô của một quốc gia hùng mạnh mà quốc vương cha tôi mang tên. Vị quốc vương này, cả triều đình của ông, dân cư trong thành phố và tất cả các bầy tôi của ông đều là các đạo sĩ pháp sư, thờ thần lửa và thần Nardoun, cựu vương của những người khổng lồ chống lại Thượng đế.
Mặc dù sinh ra từ cha mẹ theo tà giáo, tôi đã có may mắn là trong thời thơ ấu có gia sư bảo mẫu là một phụ nữ hiền hậu theo đạo Hồi thuộc lòng kinh Coran và thuyết giảng thật là hoàn hảo. Bà thường luôn luôn bảo tôi: “Hoàng tử thân yêu? Chỉ có một đấng Thượng đế chân chính mà thôi. Nhớ là không được thừa nhận và tôn thờ các vị khác”. Bà dạy tôi đọc chữ A-rập và tôi tập đọc ngay ở quyển kinh Coran mà bà đưa cho. Khi tôi bắt đầu hiểu biết, bà giảng giải cho tôi tất cả những điểm hay về mọi mặt trong quyển sách hoàn hảo đó và làm cho tôi thấm nhuần tinh thần đạo Hồi giấu vụng cha tôi và tất cả mọi người. Bà tạ thế, nhưng cũng đã kịp trao cho tôi những kiến thức cần thiết để hoàn toàn tin tưởng vào chân lý của đạo Hồi. Từ khi bà mất, tôi vẫn ghi nhớ được những điều dạy bảo của bà và ghê sợ tà thần Narđoun và các tín đồ tôn thờ thần lửa.
Cách đây ba năm ba tháng, một giọng nói bất thần vang lên khắp thành phố mọi người nghe rõ từng lời: “Hỡi nhân dân, hãy từ bỏ sự phụng thờ Nardoun và thần lửa. Hãy tôn thờ Thượng đế duy nhất bác ái nhân từ”.
Cũng giọng nói đó vang lên suốt ba năm liền, nhưng không một ai cải đạo. Ngày cuối cùng của năm thứ ba vào khoảng ba, bốn giờ sáng, toàn thể dân cư đều hoá đá trong chốc lát, môi người ở một tư thế đúng như lúc đó. Quốc vương cha tôi cùng chung một số phận: ông biến thành đá đen như đã thấy ở một chỗ trong hoàng cung, và hoàng hậu mẹ tôi cũng thế.
Tôi là người duy nhất mà Thượng đế không giáng đòn trừng phạt khủng khiếp. Từ ngày đó tôi tiếp tục phụng sự . Người với tấm lòng nhiệt thành chưa từng thấy, và thưa quý bà xinh đẹp, tôi tin là Người đã phái bà tới đây để an ủi tôi. Tôi xin tỏ lòng vô cùng biết ơn Người vì, xin thú thực với bà là cuộc sống cô đơn này đã làm cho tôi vô cùng buồn nản”
Tất cả câu chuyện và nhất là những lời nói về cuối này làm tình cảm của tôi đối với chàng càng thêm nồng đậm.
Thưa hoàng tử - Tôi nói với chàng - Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, chính đấng Tối cao đã run rủi tôi đến đây để được gặp chàng và để đưa chàng ra khỏi cái chốn đầy tang tóc này. Con tàu đã đưa tôi đến đây cũng đủ để làm cho chàng tin là tôi cũng có chút tiếng tăm ở Bagdad mà tại đó tôi còn có một tài sản khá lớn. Tôi mạo muội xin hiến chàng một chỗ trú chân cho tới khi đức Thống lĩnh các tín đồ, đại diện của đấng tiên tri vĩ đại mà chàng đã biết, nhận ra chàng và ban cho mọi vinh dự mà chàng xứng đáng. Vị quốc vương danh tiếng này ngự ở Bagdad, chẳng mấy chốc sẽ biết chàng tới kinh đô của Người, sẽ cho chàng biết là sẽ chẳng uơng công khi cầu xin sự ủng hộ của Người. Không thể nào mà chàng còn ở lại lâu hơn nữa trong một thành phố mà mọi vật đều làm cho chàng không chịu nổi. Con tàu của tôi sẵn sàng phục vụ chàng và chàng có thể sử dụng nó một cách tự do tuyệt đối.
Hoàng tử nhận lời và chúng tôi bàn bạc với nhau về việc rời đi qua nốt phần đêm còn lại.
Tảng sáng hôm sau, chúng tôi rời cung điện đi ra bến cảng. Các chị tôi, người thuyền trưởng và các nô lệ của tôi đều đang rất lo lắng về tôi. Sau khi giới thiệu các chị tôi với hoàng tử, tôi kể cho các chị lý do vì sao không về được tàu ngày hôm trước, cuộc gặp gỡ hoàng tử trẻ, câu chuyện của chàng và nguyên nhân của tai hoạ cho một thành phố tráng lệ như vậy.
Các thuỷ thủ phải mất nhiều thì giờ để dỡ hàng mà tôi đã mang theo và thay thế bằng hàng chất lên là những thứ quí nhất trong cung điện bằng đá quí, bằng vàng và bằng bạc. Chúng tôi phải để lại những đồ gỗ và vô số những đồ đạc bằng vàng bạc vì không mang đi xuể. Có lẽ cần phải rất nhiều tàu mới chở hết các tài sản có trước mắt.
Sau khi xếp lên tàu những thứ muốn mang theo, chúng tôi lấy thêm thực phẩm và nước ngọt. Về lương thực, thì hãy còn nhiều vì đã tiếp tế ở Balsora. Cuối cùng, chúng tôi giương buồm trong chiều gió thuận đúng như mong ước”.
Kể đến đây, trời vừa hửng sáng. Scheherazade ngừng lại, còn hoàng đế chẳng nói gì, đứng lên. Nhưng ông tự hứa với mình là sẽ nghe đến cuối câu chuyện của Zobéide và chàng hoàng tử trẻ tuổi đó đã được sống sót thật thần kỳ.
Vào lúc tàn đêm hôm sau, Dinarzade nóng lòng muốn biết chuyến tàu trở về ra sao, gọi hoàng hậu:
Tôi bắt buộc phải hứa với bà là sẽ chấp hành lệnh của bà. Và từ đó, tôi đã xử sự, mỗi đêm với bao sự miễn cưỡng bằng cách mà bệ hạ đã chứng kiến. Với những giọt nước mắt tôi khóc sau mỗi trận đánh đòn, tôi muốn tỏ ra với các chị là tôi biết bao đau đớn và bất nhẫn phải làm tròn một bổn phận thật là nghiệt ngã, như vậy tôi đáng được phàn nàn hơn là đáng bị trách móc. Nếu còn có điều gì đó lien quan tới tôi mà bệ hạ còn muốn được biết rõ thì cô em Amine của tôi sẽ hầu bệ hạ bằng chính câu chuyện của cô ấy.
Sau khi nghe hết chuyện của Zobéide, với tấm long mến phục, hoàng đế truyền tể tướng lệnh cho nàng Amine dịu dàng tới để trình bày cho hoàng đế rõ vì sao mà người nàng lại đầy vết sẹo...”
Nhưng, tâu bệ hạ - Tới đây Scheherazade nói - Trời vừa sáng, thiếp chẳng đám giữ Người lại lâu hơn nữa. Schahriar đinh ninh là chuyện mà Scheherazade còn kể tiếp sẽ là chuyện kết thúc cho tất cả những gì đã kể trước - Ông tự nhủ - ta cần phải có được cái thú trọn vẹn. Ông đứng lên và quyết định còn để cho hoàng hậu sống thêm ngày hôm đó.
Dinarzade mong muốn một cách say mê được nghe chuyện về Amine. Vì thế, đã thức dậy trước khi trời sáng rất lâu rồi mới đánh thức hoàng hậu.
- Chị đồng ý - Scheherazade đáp- Và để không mất thì giờ, em sẽ thấy là Amine, hướng về hoàng đế, bắt đầu câu chuyện của nàng ta như sau:
Chương 13
- Nàng bắt đầu kể - Để không phải lặp lại những điều mà Người đã biết qua câu chuyện của bà chị tôi, tôi xin nói ngay là mẹ tôi sau khi đã mua một căn nhà để ở riêng trong cảnh goá bụa, thì gả tôi, cùng với của hồi môn cha tôi để lại, cho một trong những người thừa kế giàu có nhất thành phố này.
Thành hôn chưa được một năm thì chồng tôi qua đời để lại cho tôi thừa hưởng khoản tài sản, lên tới chín mươi nghìn equins. Riêng lợi tức của khoản tiền này cũng đủ cho tôi chi dùng suốt đời một cách lương thiện. Nhưng qua sáu tháng đầu chịu tang, tôi cho may mười bộ áo quần khác nhau và cùng vào loại sang trọng lộng lẫy, giá mỗi bộ tới một ngàn sequins. Tôi bắt đầu trưng diện các bộ quần áo ấy vào dịp đầu năm.
Một hôm, tôi ở nhà một mình lo các việc trong nhà thì được báo là có một bà nào đó muốn gặp. Tôi ra lệnh cho đưa vào. Đó là một bà rất già. Bà ta hôn đất chào tôi và nói với tôi ở tư thế quỳ:
- Thưa quý bà, xin bà thứ lỗi cho là đã dám mạo muội tới làm phiền bà. Niềm tin vào lòng nhân hậu của bà đã làm cho tôi mạnh dạn. Thưa bà đáng kính, tôi xin nói là tôi có một đứa con gái mồ côi cha phải lấy chồng ngày hôm nay, mà con gái tôi và tôi đều là người xa lạ không một chút quen biết với ai trong thành phố này. Điều đó làm chúng tôi bối rối vì chúng tôi muốn cho bên gia đình rất đông người sẽ là thông gia của mình thấy chúng tôi không phải là những người bần hàn mà cũng có vốn liếng. Vì vậy nên, thưa quý bà nhân hậu, nếu bà có thể tới tham dự lễ cưới của con gái tôi thì chúng tôi sẽ vô cùng đội ơn. Các bà quê tôi sẽ không còn coi chúng tôi là những kẻ cùng khổ khi thấy một con người cao sang như bà đã hạ cố cho chúng tôi một vinh hạnh lớn lao. Nhưng nếu bà khước từ lời cầu xin của tôi, thì than ôi! Chúng tôi sẽ vô cùng tủi khổ, vì chẳng còn biết nhờ cậy vào ai nữa.
Bà già tội nghiệp vừa nói vừa khóc làm tôi cầm long chẳng được, bảo bà:
- Bà má ơi, bà chớ nên quá buồn tủi. Tôi sẵn sàng vui lòng làm theo lời yêu cầu của bà. Bà hãy nói xem tôi phải đi đâu, tôi chỉ cần thời gian để ăn mặc cho gọn gàng một chút.
Bà già nghe vậy tỏ vẻ mừng rỡ, bất ngờ nhanh nhẹn ôm hôn bàn chân tôi làm tôi không kịp ngăn.
- Thưa quý bà nhân hậu - Bà già đứng lên nói - Thượng đế sẽ ban thưởng cho bà vì lòng tốt đối vớí các tôi tớ và sẽ làm cho tám lòng của bà được mãn nguyện cũng như bà đã làm mãn nguyện tấm lòng của chúng tôi. Bây giờ chưa phải phiền đến bà phải vất vả mà bà chỉ cần đến với tôi chiều hôm nay là đủ rồi, và vào giờ nào thì tôi sẽ xin đến rước bà sau. Xin tạm biệt bà, thưa bà - bà già nói them. Hân hạnh sẽ được gặp lại bà.
Bà già vừa đi khỏi, tôi chọn mặc bộ trang phục mình ưng nhất với một chuỗi hạt ngọc trai làm vòng cổ, với nhẫn và hoa tai kim cương đẹp nhất bóng nhất. Tôi có linh cảm cái gì đó sẽ xảy ra với tôi.
Chập tối, bà già trở lại với vẻ hớn hở vui mừng khôn tả. Bà hôn tay tôi và bảo:
- Thưa bà kính yêu, họ hàng con rể tôi là những quý bà tai to mặt lớn ở thành phố này đã tề tựu đông đủ. Bà tới lúc nào cũng được, tôi lúc nào cũng sẵn sàng làm người hướng đạo hầu bà.
Chúng tôi lên đường ngay. Bà ta đi trước, tôi theo sau, cùng với một số đông những nô tì ăn vận sạch sẽ tháp tùng. Chúng tôi dừng lại trong một đường phố rộng rãi, vừa được quét tước và phun nước tưới, trước một cổng lớn có một chiếc đèn lồng chiếu sáng. Trên cổng, tôi đọc được một dòng chữ vàng sau: Đây là nơi trú ngụ vĩnh viễn của nhữug lạc thú và sự hân hoan bất tận. Bà già giơ tay gõ cửa và cửa mở tức thì.
Tôi được dẫn tới cuối sân vào một gian phòng lớn và được một thiếu phụ trẻ đẹp chưa từng thấy ra đón mời. Nàng ta tiến đến trước mặt tôi và sau khi ôm hôn và mời tôi ngồi cạnh nàng trên một chiếc sập có đặt chiếc ngai bằng gỗ quý khảm kim cương, nàng bèn nói với tôi:
- Thưa bà, bà được mời tới đây để dự lễ cưới, nhưng tôi mong bà sẽ thấy đám cưới nay khác hẳn những đám cưới mà bà hình dung. Tôi có một ông anh khôi ngô tuấn tú và hoàn hảo về các mặt hơn tất cả mọi đấng nam nhi. Anh ấy quá say mê cái chân dung được nghe người ta tả về sắc đẹp của bà đến mức thấy số phận của mình hoàn toàn bị phụ thuộc vào bà. Anh ấy sẽ vô cùng đau khổ nếu không được bà đoái thương. Anh ấy biết địa vị của bà trong xã hội và tôi có thể đoan chắc với bà là địa vị của anh ấy cũng chẳng đến nỗi không xứng trong sự kết hợp này. Thưa bà, nếu những lời cầu xln của tôi có một chút nào tác dụng thì tôi xin góp thêm vào lời của anh tôi và mong bà chẳng nỡ khước từ mà chấp nhận lời cầu hôn của anh ấy được đón rước bà làm vợ.
Từ ngày chồng mất, tôi chưa từng có ý nghĩ tái giá, nhưng không đủ sức để khước từ một chuyện tốt đẹp như vậy. Tôi chỉ biết ngầm tỏ vẻ ưng thuận bằng sự im lặng kèm theo sắc ửng hồng hiện trên mặt. Thiếu phụ trẻ vỗ tay: cánh cửa một căn phòng bật mở và từ đó bước ra một thanh niên phong thái chững chạc và thật duyên dáng làm cho tôi thấy mình thực là may mắn đã chinh phục được một chàng traỉ quá điều mong ước. Chàng ngồi xuống cạnh tôi và qua câu chuyện trao đổi tôi càng thấy giá trị của chàng còn vượt hơn cả những lời giới thiệu của thiếu phụ với tôi.
Khi nhận thấy là chúng tôi đã cùng ưng nhau, nàng vỗ tay lần nữa. Một pháp quan bước vào, lập tờ hôn thú, ký vào đó và bắt cả bốn người làm chứng mà ông ta đem theo cùng ký vào. Điều cam kết duy nhất mà chú rể đòi hỏi ở tôi là ngoài anh ta ra thì tôi không được gặp gỡ, chuyện trò với bất cứ một người đàn ông nào. Anh ta hứa với tôi lả ngoài điều kiện đó ra thì tôi hoàn toàn có thể hài lòng anh tạ về mọi mặt. Cuộc hôn nhân của chúng tôi được ký kết và kết thúc theo cách đó. Như vậy tôi hoá ra là vai trò chính trong lễ cưới mà tôi lại là người khách duy nhất được mời.
Một tháng sau kể từ ngày hôn lễ, cần một thứ vải may mặc, tôi xin phép chồng tôi ra phố để mua sắm. Chàng đồng ý, tôi đem theo bà già mà tôi đã nói đến ở trên là người trong nhà cùng với hai nô tì của tôi nữa.
Khi chúng tôi đến phố của những người buôn bán, bà già bảo tôi: “Bà chủ tốt bụng của tôi ơi! Vì bà muốn mua một mảnh vải lụa, tôi sẽ dẫn bà tới một ngưởi bán hàng trẻ tuổi mà tôi quen biết. Anh ta có đủ các mặt hàng, bà sẽ thấy ở đó thứ bà cần mà chẳng ở đâu có cả. Chẳng phải đi hết cửa hàng nọ đến cửa hàng kia cho mệt”. Tôi để cho bà già dẫn đi và vào một cửa hàng của một người trẻ tuổi khá điển trai. Tôi ngồi xuống và bảo bà gìa nói với anh ta cho xem những tấm lụa đẹp nhất trong cửa hàng. Bà già cứ muốn tôi tự đặt ra yêu cầu đó nhưng tôi bảo bà là một trong những điều cam kết trong hôn nhân của tôi là ngoài chồng tôi ra thì không được nói năng gì với bất cứ người đàn ông nào. Vì vậy nên tôi không được làm trái điều đó.
Người chủ cửa hàng đưa ra cho tôi xem nhiều tấm vải có một tấm tôi thích hơn tất cả và cho hỏi giá tiền bao nhiêu. Hắn nói với bà già: “Dù bằng vàng bằng bạc tôi cũng không bán nhưng tôi sẽ biếu không nếu nàng ấy cho tôi hôn mọt cái vào má”. Tôi bảo bà già trả lời hắn thật là quá táo bạo mà dám đề nghị như vậy. Nhưng đáng lẽ phải tuân lệnh tôi thì bà già lại bảo là đề xuất của người bán hàng cũng có gì là to tát và quan trọng lắm đâu: không phải nói năng gì mà chỉ có việc giơ má ra thôi, thế là xong. Tôi rất muốn có mảnh lụa đó mà đã nhẹ dạ nghe theo lời khuyên của bà già. Bà ta cùng những nô tì của tôi đứng che phía trước để không ai nhìn thấy và tôi lật mạng che mặt lên nhưng thay cho cái hôn thì tên bán hàng lại cắn má tôi tới chảy máu.
Bị đau và quá kinh ngạc, tôi ngã lăn xuống bất tỉnh. Khá lâu ở trong tình trạng bất tỉnh đủ thời gian để cho tên chủ đóng cửa hàng và chạy trốn. Khi tỉnh lại, tôi thấy má mình đẫm máu. Bà già và các nô tì của tôi đã cẩn thận che mạng kín cả khuôn mặt cho tôi để mọi người chạy tới không nhận biết được gì và cho là tôi chỉ bị một cơn suy nhược thôi.”
Scheherazade kể đến đây, thấy trời hửng sáng nên ngừng lại. Hoàng đế thấy chuyện vừa nghe quả là kỳ lạ, đứng lên và tự hứa sẽ phải nghe tiếp cho thoả trí tò mò.
Tàn đêm hôm sau, Dinarzade thức giấc, gọi hoàng hậu:
- Chị ơi? Nếu chị không còn ngủ nữa thì xin chị kể nốt cho em nghe chuyện nàng Amine đi!
- Thiếu phụ đó kể tiếp như thế này – Scheherazade nói:
“Bà già đi theo tôi - Nàng kể tiếp - hết sức lo lắng về chuyện vừa xảy ra, cố gắng trấn an tôi:
- Thưa bà chủ tốt bụng, già này xin bà tha lỗi cho vì đã gây nên tai hoạ này. Già đưa bà chủ tới cửa hàng này vì người bán hàng là người đồng hương và không ngờ hắn ta lại làm nên chuyện động trời như thế. Xin bà chớ nên quá lo buồn, không nên để mất thời gian nữa, hãy cùng nhau về nhà, già sẽ đưa cho bà chủ thuốc sẽ chữa bà khỏi trong vòng ba ngày không còn để lại dấu vết gì.
Đợt ngất đi đã làm tôi yếu sức đến mức không đi được. Tuy vẫn về được tới nhà, nhưng tôi lại ngất đi vì quá suy nhược khi bước vào buồng ngủ. Nhưng bà già đã mang thuốc đến cho tôi, tôi tỉnh lại và lên giường nằm.
Đêm xuống, chồng tôi về. Chàng nhận thấy đầu tô; trùm kín, hỏi tôi làm sao. Tôi trả lời chàng là bị đau đầu và hy vọng là chàng chỉ hỏi thế thôi. Nhưng chàng đã đưa ngọn nến đến gần xem và nhìn thấy vết thương ở má tôi.
- Vì sao có vết thương này?- Chàng hỏi tôi.
Mặc dù tội của tôi chẳng lấy gì làm nặng nề cho lắm, tôi cũng không dám nói lên sự thật. Tôi cho là thú nhận sự việc đó với một người chồng có vẻ như là một cái gì đó thiếu phần tế nhị. Tôi bảo chàng là lúc đi mua mảnh lụa để dùng và đã được chàng cho phép, một người gánh củi đi quá gần trong một đường phố hẹp, đã vô ý để một cành củi chạm vào làm sầy da mặt, có việc nhỏ thế thôi
Chồng tôi đùng đùng nổi giận:
- Hành động đó - Chàng nói - cần phải bị trừng phạt. Ta sẽ ra lệnh pháp quan ngày mai bắt giữ lại tất cả bọn kiếm củi đem xử giảo hết. Lo sợ mình là nguyên nhân cái chết của bao nhiêu người vô tội, tôi bảo chàng:
- Chàng ạ, em sẽ rất chạnh lòng khi để sự bất công to lớn đó xảy ra. Em xin chàng đừng phạm phải. Em sẽ không bao gịờ đáng được tha thứ nếu gây ra sự bất hạnh này.
- Vậy thì nàng hãy thành thật nói cho ta rõ – Chàng bảo - Ta phải nghĩ như thế nào về vết thương của nàng?
Tôi lại bảo chàng là do sự vô ý của một anh bán chổi cưỡi trên lưng lừa đi phía sau tôi. Anh này ngoảnh mặt sang phía khác nên con lừa không được điều khiển đã hích vào tôi làm tôi ngã, má đập vào mảnh kính.
- Nếu đúng như vậy - Chồng tôi nói ngay - thì ngày mai ngay lúc mặt trời chưa mọc thì tể tướng Glafar sẽ được biết sự hỗn xược này. Ông ta sẽ cho tất cả những người bán chổi xuống suối vàng...
- Ôi, nhân danh Thượng đế - Tôi ngắt lời chàng – Em xin chàng hãy khoan thứ cho họ. Họ không phải là thủ phạm.
- Thế là thế nào, thưa bà - Chàng nói - Ta phải tin sao đây? Bà hãy nói đi. Ta muốn chính miệng bà phải nói ra sự thật.
- Chàng ạ - Tôi đáp - Em bị chóng mặt quay cuồng và bị ngã. Có thế thôi mà.
Nghe đến đây, chồng tôi không còn kiên nhẫn được nữa, chàng thét lên:
- A, mất bao nhiêu là thời gian để nghe những lời quanh co dối trá!
Nói đoạn, chàng vỗ tay, ba tên nô lệ đi vào.
- Hãy lôi nó ra khỏi giường - Chàng bảo chúng - Nọc nó ra giữa phòng cho ta.
Lũ nô lệ tuân lệnh chàng, một đứa giữ đầu, một đứa giữ hai chân tôi. Chàng ra lệnh cho tên thứ ba đi lấy kiếm. Và khi tên này mang kiếm tới, chàng bảo nó: “Mày chém đi. Chặt nó ra làm hai và ném xuống sông Tigre để làm mồi cho cá rỉa. Đó là hình phạt ta dành cho những người mà ta đã hết lòng thương yêu nhưng lại phản bội ta.
Thấy tên nô lệ còn lưỡng lự, chàng bảo:
- Chém đi, cái gì làm cho mày do dự, mày còn chờ cái gì nữa?
- Thưa bà - Tên nô lệ lúc bấy giờ bảo tôi - Bà đang chạm vào giây phút cuối cùng của- cuộc sống, bà thử xem xem còn muốn trối trăng điều gì trước khi chết không.
Tôi xin được nói một điều. Được chấp nhận, tôi ngửng đầu lên, nhìn chồng tôi âu yếm:
- Than ôi? - Tôi bảo chàng - Sao em lại phải đến nỗi này! Sao em lại phải chết giữa những ngày hạnh phúc nhất đời này...
Tôi muốn nói tiếp nhưng nghẹn lời, nước mắt rơi tầm tã. Chồng tôi chẳng chút mủi lòng, ngược lại còn cất lời trách mắng thậm tệ. Biết nói thêm cũng chỉ là vô ích, tôi chuyển sang cầu khẩn nhưng chàng vẫn khăng khăng một mực và lệnh cho tên nô lệ thi hành nhiệm vụ. Giữa lúc đó, bà già vốn là bà vú nuôi chồng tôi đi vào, gieo thình cạnh chân chàng và cố làm cho chàng nguôi cơn giận dữ:
- Con trai ơi - Bà nói - Để trả công ơn ta nuôi dưỡng, ta xin con hãy tha thứ cho nàng. Con hãy nhớ câu “sát nhân giả tử”, kẻ giết người sẽ bị người giết lại còn sẽ làm bại hoại danh tiếng của mình và sự mến mộ của mọi người đối với mình. Trách sao mà người ta chẳng sẽ đồn đại về một cơn gíận dữ tới mức đổ máu này.
Bà nói những câu trên đầy vẻ xúc động kèm theo những giọt nước mắt nóng hổi gây nên một ấn tượng mạnh mẽ đối với chồng tôi.
Vậy thì - Chàng nói với bà vú nuôi mình - Vì nể vú, ta cho nó sống nhưng ta muốn nó phải mang theo dấu tích trên người làm nó luôn nhớ lại tội lỗi của mình.
Nói xong, một tên nô lệ, theo lệnh chàng, dang thẳng cánh quất vào hai bên sườn và trên ngực tôi bằng một cái roi có nhiều đoạn gấp khúc làm tôi nứt da toác thịt. Tôi ngất lịm không còn biết gì nữa. Sau đấy, chàng bắt bọn nô lệ, tay sai cho sự điên giận của chàng, quẳng tôi vào một ngôi nhà, ở đó bà già vú nuôi chàng đã chăm sóc tôi thật chu đáo. Tôi nằm liệt giường suốt bốn tháng trời. Cuối cùng tôi khỏi, nhưng những vết sẹo mà bệ hạ nhìn thấy hôm qua do sự sơ ý của tôi, thì vẫn còn lại tới giờ. Khi tôi đã bước đi được và ra bên ngoài được, tôi muốn trở lại nhà chồng trước, nhưng thấy chỉ còn một bãi đất trống không. Người chồng thứ hai của tôi, trong cơn thịnh nộ quá đáng không những đã phá đổ mà còn san bằng cả dãy phố mà trên đó có ngôi nhà của tôi. Bạo lực đó quả thật là chưa từng có, nhưng tôi biết thưa kiện ai? Kẻ gây ra chuyện này đã tìm cách giấu mặt giấu tên, tôi làm sáo biết được rõ. Mà cho dù tôi có biết hắn là ai chăng nữa thì há tôi cũng đã chẳng thừa biết là cách xử sự với tôi như vậy được bắt nguồn từ một quyền uy tuyệt đối đó hay sao? Vậy thì tôi còn có dám thưa kiện nữa không?
Hoang mang, khốn đốn, mất trắng tay tất cả, tôi tới xin nương nhờ chị Zobéide thân yêu của tôi mà bệ hạ vừa nghe chị ấy kể về mình hầu Người đó.
Và tôi đã kể hết cho chị nghe về hoạn nạn của tôi. Chị vui vẻ đón nhận tôi với tấm lòng nhân hậu vơn có của mình và động viên tôi hãy kiên nhẫn chịu đựng
- Đời là thế đó - Chị Zobéide bảo - Thông thường nó tước đoạt của ta của cải hoặc bạn bè hoặc những người ta yêu quý và luôn luôn là tất cả cùng một lúc, và để chứng minh cho điều chị vừa nói, chị kể cho tôi nghe cái chết của vị hoàng tử trẻ do sự ghen tuông của hai người chị ruột của chị. Chị còn cho tôi biết vì sao mà hai người chị này lại hoá thành chó. Cuối cùng, sau khi tỏ rõ tình thân mật đậm đà với tôi, chị giới thiệu cô em út cũng đã đến với chị sau khi mẹ chúng tôi tạ thế.
Thế là, tạ ơn Thượng đế, cả ba chị em chúng tôi được đoàn tụ, cùng nhau quyết định là sẽ chẳng bao giờ sống xa nhau nữa. Chúng tôi cùng sống với nhau một cuộc sống êm đềm từ rất lâu rồi. Và vì là người chịu trách nhiệm việc chi tiêu trong nhà, nên tôi thường lấy làm thích thú được tự mình đi mua sắm các thứ. Hôm qua đi mua hàng, tôi đã thuê một người khuân vác để vận chuyển các thứ mua. Thấy anh là một người thông minh, vui tính nên chúng tôi đã đồng ý giữ lại để cùng nhau vui chơi giải trí. Ba tu sĩ khổ hạnh cũng bất ngờ tới vào lúc màn đêm vừa buông và xin chúng tôi cho trọ tới sáng. Chúng tôi tiếp nhận họ với một điều kiện mà họ chấp nhận và sau khi mời họ ngồi vào bàn ăn, họ vui vẻ hiến cho chúng tôi một bản hoà ca theo kiểu của họ thì giữa lúc đó lại có tlếng gõ cửa. Đó là ba thương nhân ở Mossoul vớl dáng vẻ thật hiền lành cũng xin chúng tôi được tạm tá túc như ba chàng tu sĩ. Chúng tôi cũng đồng ý tiếp nhận họ với cùng một điều kiện. Nhưng rồi họ đều như nhau, chẳng ai muốn tôn trọng điều kiện đó cả. Tuy nhiên mặc đù chúng tôi có đủ tư cách và có toàn quyền để trừng trị họ, nhưng chỉ giới hạn ở việc bắt họ lần lượt kể chuyện của mình, và chỉ trả thù họ một cách nhẹ nhàng là mời họ ra khỏi nhà, không cho trọ lại qua đêm như họ đã yêu cầu.
Hoàng đế Haroun Alraschid rất hài lòng được hiểu rõ những gì muốn biết và công khai tỏ lòng khâm phục thích thú đối với những chuyện vừa được nghe kể...”
- Nhưng, tâu bệ hạ - đến đây Scheherazade nói - Mặt trời đã bắt đầu nhô lên không còn cho phép thiếp được kể tiếp vì sao mà giải phép được cho hai con chó mực cái để trở lại thành người.
schahriar, đoán là tối hôm sau hoàng hậu sẽ kết thúc chuyện năm thiếu phụ với ba tu sĩ khổ hạnh. Ông đứng lên và lại để cho Scheherazade sống đến ngày mai.
Trước trời sáng, Dinarzade gọi chị:
- Chị ơi! Nhân danh Thượng đế, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin hãy kể cho em nghe làm thế nào mà hai con chó mực lại có thể trở về hình hài cũ và còn ba người tu sĩ khổ hạnh thì ra sao.
- Cứ yên tâm - Scheherazade nói- ,Chị sẽ thoả mãn trí tò mò của em ngay bây giờ đây.
Rồi ngoảnh về Schahriar, nàng kể tiếp như sau:
“ Tâu bệ hạ, sau khi đã được thoả mãn óc hiếu kỳ, hoàng đế muốn tỏ rõ quyền uy và lòng độ lượng đối với các hoàng tử tu sĩ và sự hào hiệp đối với ba thiếu phụ. Không cần qua sự trung gian của tể tướng, ông tự mình nói với Zobéide:
- Thưa bà, vị tiên nữ lúc đầu dưới dạng con rắn và áp đặt cho bà một luật lệ rất hà khắc, có cho bà biết chỗ ở của mình không và có hứa sẽ gặp lại bà và giải phép cho hai con chớ để trở lại làm người không?
- Thưa đáng Thơng lĩnh các tín đồ - Zobéide đáp – Tôi đã quên không nói lại vớì hoàng thượng là tiên nữ có đặt vào tay tôi một bọc tóc nhỏ, nói là sẽ có ngày tôi phải cần tới lúc ấy, chỉ cần lấy ra hai sợi tóc, dùng lửa đất cháy thì bà ấy sẽ lập tức có mặt dù đang ở phía bên kia rặng núi Caucase.
- Thế cái bọc tóc đó - Hoàng đế hỏi - Hiện giờ ở đâu?
Zobéide bèn móc từ chiếc túi luôn đeo bên người, lấy cái bọc có mớ tóc ra, khẽ hé rèm che đưa Người xem.
- Vậy thì - Hoàng đế bảo - Chúng ta hãy triệu bà tiên tới đây. Không lúc nào hợp hơn lúc này vì ta muốn thế.
Zobéide nhất trí, lửa được mang tới và Zobéide đặt lên trên cả bọc tóc. Tức thì cả cung điện rung chuyển, bà tiên hiện lên trước mặt Hoàng đế dướI dạng một người đàn bà ăn vận rất đẹp.
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đố - Bà nói với nhà vua - Người thấy đó, tôi đang sẵn sàng nhận lệnh của Người. Người thiếu phụ vừa gọi tôi theo lệnh của bệ hạ đã từng cứu mạng tôi. Để trả ơn đó tôi đã trả thù hộ nàng về tội bất nhân bất nghĩa của hai người chị nàng và biến họ thành chó. Nhưng nếu hoàng thượng muốn thì tôi sẽ trả lại cho chúng cái hình dạng tự nhiên như trước đây.
- Hỡi tiên nữ xinh đẹp - Hoàng đế nói - Ta thật không có gì vui hơn, hãy cho chúng cái ơn đó đi, sau đó ta sẽ tìm cách an ủi chúng là đã phải chịu đựng một cuộc sống thật khổ nhục. Nhưng trước hết ta cũng xin bà hãy ra tay cứu giúp người thiếu phụ đã bị người chồng hành hạ một cách thật dũ dằn. Vì bà không hiểu mọi sự nên chắc bà không thể không biết việc này: bà hãy vui lòng cho biết rõ cái tên man rợ không những đã đối xử với vợ tàn bạo như vậy mà lại còn tước đoạt một cách hết sức bất công tất cả tài sản của nàng. Ta lấy làm ngạc nhiên là một hành động tối vô nhân đạo, tối bất công như vậy nó xúc phạm tới uy danh ta mà ta lại không hề hay biết.
- Để bệ hạ được mãn ý - Tiên nữ nói - Tôi sẽ cho hai con chó này trở lại nguyên hình, sẽ chữa cho người thiếu phụ này khỏi hẳn các vết sẹo coi như nàng chưa bao giờ bị đánh đập và cuối cùng tôi sẽ cho bệ hạ rõ kẻ nào đã hành hạ nàng như vậy.
Hoàng đế sai người đi dắt hai con chó ở nhà Zobéide tới Tiên nữ bảo lấy cho bà một chén nước đầy. Bà lầm bầm khấn khứa trên chén nước những câu gì đó chẳng ai nghe được rồi rẩy nước trong chén lên người Amine và hai con chó. Tất cả các vết sẹo trên người Amine mất hết, và hai con chó cái biến thành hai thiếu phụ đẹp lộng lẫy. Rồi bà tiên nói với hoàng đế.
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, bây giờ xin tiết lộ với bệ hạ cái người chồng đã man giấu tên kia mà bệ hạ muốn biết: người đó rất thân cận với bệ hạ vì đó là hoàng tử Amin, con trai cả của Người, anh ruột của hoàng tử Mamoun, con trai thứ của Người. Nghe tiếng đồn về sắc đẹp hiếm có của người thiếu phụ, hoàng tử Amin phải lòng mê mệt đã tìm mọi cách lôi kéo nàng về nhà và cưới nàng. Về trận đòn chàng ta sai đánh nàng, về phương diện nào đó, có thể được phần nào tha thứ. Người đàn bà vợ chàng có phần quá đễ đãi và những lời đưa ra biện bạch có thể làm người ta cho là nàng đã phạm tội nặng hơn là thực tế. Đó là tất cả những gì tôi có thể tâu trình để bệ hạ được giải toả mọi thắc mắc.
Nói xong, tiên nữ cúi chào hoàng đế và biến mất:
Hoàng đế vô cùng khâm phục và hài lòng về tất cả những biến đổi vừa qua nhờ có sự can thiệp của mình, liền có những hành động mà người ta còn nhắc đến mãi. Đầu tiên, ông cho gọi hoàng tử Amin, con trai cả của ông tới, bảo cho chàng rõ là ông đã biết cuộc hôn nhân bí mật của chàng và nói cho con trai biết nguyên nhân thực về vết thương ở má nàng. Hoàng tử không đợi vua cha phán bảo, chàng đón nhận nàng ngay.
Hoàng đế tuyên bố tiếp là sẽ cưới Zobéide làm vợ và gợi ý cho ba chị em kia của nàng lấy ba chàng tu sĩ làm chồng, được các chàng ưng thuận ngay với sự biết ơn sâu sắc. Hoàng đế ban cho mỗi người một lâu đài tráng lệ ở thành phố Bagdad, cất nhắc họ lên các chức vị cao sang trong nước và cho họ được tham dự vào các công việc triều chính. Đệ nhất pháp quan thành Bagdad được triệu tới cùng với những người làm chứng lập các giấy giá thú, và vị hoàng đế danh tiếng Haroun Alraschid mang lại hạnh phúc cho bao nhiêu người từng trải qua nhiều khổ ải, được mọi người ca ngợi và chúc tụng.
Trời chưa sáng thì Scheherazade kết thúc câu chuyện đã biết bao lần phải bỏ đở giữa chừng. Vậy là lúc này có thể bắt đầu một chuyện khác. Nàng hướng về hoàng đế và nói:
Chương 14
Tâu hoàng đế, thiếp đã có vinh dự một lần được kể với Người chuyến vi hành của hoàng đế Haroun Alraschid ra khỏi kinh thành vào một đêm trước. Thiếp xin kể hầu hoàng đế một chuyến vi hành khác của vị hoàng đế này.
Một hôm, nhà vua báo cho tể tướng Giafar phải có mặt ở cung điện vào tối hôm sau:
- Tể tướng à - Nhà vua bảo - Ta muốn đi một vòng xung quanh thành phố để nghe ngóng xem dư luận nhân dân ra sao và nhất là để biết xem họ có điều gì không được hài lòng với những pháp quan của ta không. Nếu thấy có những lời kêu ca phàn nàn, thì lập tức ta sẽ cách chức chúng và thay thế bằng những người khác có đầy đủ tài đức để làm tròn trách nhiệm. Ngược lại nếu có những pháp quan được dân chúng ca ngợi thì ta sẽ có những sự nhìn nhận xứng đáng.
Tể tướng tới cung điện đúng giờ quy định cùng với Mesrour, tổng thái giàm. Cả ba người cải trang để không ai nhận biết và cùng ra khỏi cung điện.
Họ đi qua nhiều công trường ,nhiều chợ và khi đi vào một đường phố nhỏ, họ nhìn thấy dưới ánh trăng một ông lão có bộ râu trắng bạc, thân hình cao, trên đầu đội một tấm lưới đánh cá, một tay cắp bên sườn chiếc rổ bằng lá dừa, một tay chống gậy.
Trông bề ngoài thì lão già này chẳng phải là ngườI giàu có - Hoàng đế nói - Chúng ta hãy tiếp cận lão và hỏI lão tình hình làm ăn ra sao.
- Này ông già - Tể tướng hỏi - Nhà ngươi là ai vậy?
- Thưa các ngài - Ông già đáp - Tôì là người đánh cá nhưng là người nghèo khổ nhất trong cái nghề này. Tôi từ nhà ra đi từ sớm, nhưng cho đến giờ vẫn chưa được một con cá nhỏ nào. Tôi có vợ và các con nhỏ, không biết lấy gì mà nuôi cả nhà đây!
Hoàng đế, động lòng thương hại bảo lão:
- Liệu nhà ngươi có can đảm quay lại chỗ cũ quăng lưới một lần nữa không? Chúng ta sẽ cho nhà ngươi một trăm đồng sequins đổi lấy bất cứ cái gì nhà ngươi kéo lên được .
Nghe vậy, lão đánh cá quên hết mệt nhọc trong ngày, cùng vớI hoàng đế, tể tướng Giafar và Mesrour quay lạI sông Tigre, lòng thầm nhủ: “Các ngài này có vẻ là những người lương thiện, đứng đắn chẳng lẽ lại nuốt lời. Chỉ cần một phần trăm của số tiền đó đối với ta cũng đã là quá nhiều rồi”.
Họ đến bờ sông Tigre. Lão đánh cá buông lưới rồi kéo lên được một chiếc hòm đóng kín khá nặng. Hoàng đế tức thì bảo tể tướng đếm đưa cho lão đủ một trăm đồng sequins và cho lão về. Mesrour theo lệnh hoàng đế vác chiếc hòm lên vai. Hoàng đế nôn nóng muốn biết xem trong hòm chứa gì, vội vã quay về hoàng cung. Hòm được mở ra, người ta thấy một cái túi to đan bằng lá dừa, miệng túi được khâu lại bằng một sợi len đỏ. Để hoàng đế khỏi sốt ruột, chẳng ai muốn tỉ mỉ gỡ dần sợi len đó mà dùng dao sắc cắt đi cho mau. Họ lôi ra khỏi túi một cái bọc bằng vải thô buộc dây thừng. Cởi sợi thừng và mở cái bọc, họ kinh hãi trông thấy thân thể bị chặt ra làm nhiều mảnh của một phụ nữ trẻ da trắng như tuyết đọng.”
Scheherazade tới đây, nhận thấy trời đã sáng nên ngừng lời. Đêm hôm sau nàng kể tiếp:
- Ta cho ngươi ba ngày - Hoàng đế bảo - Ngươi hãy suy nghĩ kỹ.
Tể tướng Giafar lui về, lòng hết sức hoang mang: “Chao ôi! - Ông thầm than - Trong một thành phố rộng mông mênh và dân cư đông đúc như Bagdad này, làm sao mà ta khui lên được một tên giết người, có thể nó phạm tội ác này không người chứng kiến, và có thể nó đã cao chạy xa bay rồi cũng nên. Một kẻ nào khác ta thì có thể vào trong nhà giam lôi một tên tội phạm khốn khổ nào đó ra và xử tội chết để làm hài lòng hoàng đế, nhưng ta thì không thể làm cái điều trái lương tâm ấy được. Ta thà chết còn hơn là cứu sống mình bằng cách đó!'.
Ông lệnh cho các quan hành pháp và toà án dưới quyền làm một cuộc săn lùng hung thủ. Họ tung người của họ và cả chính họ vào cuộc săn lùng này. Nhưng rồi tất cả những nỗ lực của họ đều vô ích. Dù khẩn trương và mẫn cán tới đâu chăng nữa thì họ cũng không sao phát hiện được kẻ gây ra vụ án mạng: Tể tướng thấy là nếu không có sự giúp dập của trời thì mạng ông thật khó toàn.
Quả nhiên, ngày thứ ba đã tới, một lính cặn vệ tớI nhà viên đại thần đáng thương này bắt đi theo y. Tể tướng cúi đầu chịu lệnh. Hoàng đế hỏi thủ phạm đâu.
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ - Ông tâu vua giọng đầy nước mắt - Không tìm thấy một người nào cung cấp cho thần bất cứ một tin tức gì cả.
Hoàng đế nổi giận lôi đình, nặng lời quở mắng rồi ra lệnh treo cổ tể tướng cùng với bốn chục người họ hàng thân thích của ông trước cổng hoàng cung.
Trong khi những người thừa hành bận rộn trong việc dựng các giá treo cổ và cho người đi bắt bốn chục người trong họ tể tướng thì viên quan truyền tin theo lệnh hoàng đế đi rao tin này trong khắp các khu vực trong thành phố. Những ai muốn chứng kiến hình phạt xử giảo tể tướng Giafar cùng với bốn chục thân nhân tể tướng thì tới ngay công trường ngay phía trước hoàng cung!”.
Khi mọi việc đã sẵn sàng, viên quan thi hành án cùng với đám rất đông lính cận vệ điều tể tướng cùng với bốn chục thân nhân của ông ra đặt mỗi người đứng dưới một cái giá gỗ dành cho họ, quàng vào cổ mỗi người vòng dây thừng dùng để kéo họ lên lửng lơ khỏi mặt đất. Dân chúng kéo tới kín đặc cả công trường, nhìn cảnh đau lòng không sao cầm được nước mắt vì tể tướng Giafar và những thân nhân của vị quan thanh liêm, trung thực này đối với họ vô cùng thân thiết và đáng kính.
Không có gì có thể ngăn cản được việc thi hành lệnh bất di bất dịch của vị hoàng đế nghiệt ngã này. Mạng sống của những con người nhân hậu nhất kinh thành này đang như treo trên sợi tóc thì một chàng trai rất khôi ngô tuấn tú và ăn vận lịch sự rẽ đám đông, đi tới tận chỗ tể tướng đầu triều đang đứng chờ treo cổ, và sau khi kính trọng hôn tay ông, chàng nói:
- Thưa ngài tể tướng tôn quý, người đứng đầu các đại thần trong triều, nơi nương tựa của dân nghèo, ngài không phải là thủ phạm mà cần phải có mặt tại đây. Xin ngài hãy lui bước và để cho tôi đền mạng cho người thiếu phụ đã bị ném xuống sông Tigre. Chính tôi là kẻ đã giết nàng và xứng đáng phải bị trừng phạt.
Mặc dù những lời thú tội trên đây đã làm cho tể tướng hết sức vui mừng, nhưng ông không khỏi cảm thấy thương hại chàng trai mà khuôn mặt đáng ra phải có vẻ hung hãn thì lại là một cái gì đó dịu dàng quyến rũ. Ông đang sắp sửa trả lời chàng trai thì lại có một người to lớn đã đứng tuổi cũng rẽ đám đông bước tới và nói với tể tướng:
- Xin ngài đừng tin những gì chàng trai này nói. Không có ai ngoài tôi ra là người đã giết người thiếu phụ đã tìm thấy ở trong hòm ấy. Sự trừng phạt phải giáng xuống chỉ một mình tôi thôi. Nhân danh Thượng đế, tôi tha thiết xin chớ trừng phạt kẻ vô tội.
- Thưa ngài - Chàng thanh niên nói với tể tướng - Tôi xin thề là chính tôi đã có hành động độc ác đó và không có một người nào đồng loã.
- Con trai của ta ạ - Ông già cắt ngang - Chẳng qua là vì tuyệt vọng bất mãn với số phận mà anh tới đây để nói thế. Còn ta, ta đã sống trên đời này quá lâu rồi, cần phảI rời bỏ thôi. Hãy để ta chết thay anh. Thưa ngài - Ông nói tiếp với tể tướng- Tôi xin nhắc lại là chính tôi mới là kẻ giết người. Hãy xử tôi, chớ nên chần chừ nữa.
Lơi thú nhận của ông già và chàng trai buộc tể tướng Giafar phải đưa cả hai tới trước hoàng đế dưới sự cho phép rất dễ dàng vui vẻ của viên chỉ huy pháp trường.
Khi đã tới trước hoàng đế, tể tướng hôn mặt đất bảy lần và tấu trình:
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, thần đưa ông già và chàng trai này tới bệ kiến hoàng thượng. Cả hai người đều nhận mình là thủ phạm đã sát hại người phụ nữ đó.
Thế là hoàng đế hỏI các bị can ai trong hai người đã tàn sát người thiếu phụ quá dã man và ném xác xuống sông Tigre như vậy. Chàng trai một mực nhận chính là mình, nhưng ông già thì nói ngược lại. Hoàng đế bảo tể tướng:
- Đưa cả hai đi xử giảo.
- Tâu bệ hạ - Tể tướng nói - Nhưng chỉ có một sát nhân. Thật bất công nếu bắt cả hai cùng chết.
Nghe vậy, chàng trai lại nói:
- Thề có Thượng đế đã nâng trời lên cao như hiện nay, chính tôi là người đã giết người phụ nữ đó, chính tôi đã chặt bà ta ra nhiều khúc và ném xuống sông Tigre cách đây bốn hôm . Tôi sẽ không được ở bên phía những người quang minh chính đại trong ngày phán xử cuối cùng, nếu điều tôi nói đây là giả dối. Tôi mới đúng là ngườI đáng chịu hình phạt.
Hoàng đế ngạc nhiên về lời thề đó và ông tin, hơn nữa ông già cũng không phản bác. Vì vậy, ngoảnh về chàng trai, ông bảo:
- Quân khốn kiếp! Vì cớ gì mà mi lại phạm vào một tội ác kinh khủng như vậy? Và nguyên nhân nào đã thúc đẩy mi tới đây nộp mình?
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ - Chàng trai đáp - Nếu có thể ghi chép lại những gì xảy ra giữa người đàn bà này và tôi thì thiết nghĩ đó cũng là một chuyện giúp ích rất nhiều cho những người đàn ông trên đời này.
- Vậy mi hãy kể cho ta nghe đi - Hoàng đế bảo - Ta ra lệnh cho mi đó. Chàng trai tuân theo và bắt đầu kể chuyện mình bằng lời lẽ như sau...”
Scheherazade muốn kể tiếp, nhưng buộc phải để lại đêm hôm sau.
“- Tâu hoàng đế, hẳn là Người cũng đã hình dung là vị hoàng đế đã kinh ngạc như thế nào trước cái cảnh tượng ghê rợn đó: Nhưng từ kính ngạc ông chuyển sang gỉận dữ, ném cho tể tướng một cái nhìn toé lửa: “A, quân khốn kiếp - Ông kêu lên - Phải chăng đó là cách nhà ngươi cai trị và nắm được mọi hành động của dân chúng? Người ta đã ngang nhiên phạm tội sát nhân ngay tại kinh đô của ta, người ta đã ném những thần dân của ta xuống sông Tigre để họ đòi trả hận ta trong ngày phán xử cuối cùng? Nếu nhà ngươi không mau tìm ra được kẻ sát nhân để trả thù cho người phụ nữ này thì ta thề có Thượng đế với tên thánh của Người là ta sẽ treo cổ ngươi, ngươi và cả bốn chục người họ hàng thân tộc nhà ngươi.
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ - Tể tướng tâu -Xin hoàng đế cho thần thời gian để tiến hành cuộc điều tra.
Schahriar nhắc nhở hoàng hậu và hỏi nàng là chàng trai đó kể gì với hoàng đế Haroun Alraschid.
Chương 15
Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, xin bệ hạ biết cho rằng người thiếu phụ bị sát hại đó chính là vợ tôi, con gái ông già mà Người đã biết đó lại là chú ruột tôi
Khi nàng mới có mười hai tuổi thì ông đã gả cho tôi làm vợ và đến nay là mười một năm đã qua. Tôi có với nàng ba con trai hiện nay còn sống cả. Và cứ công bằng mà nói thì nàng chưa từng bao giờ làm cho tôi phải bực mình cáu giận. Nàng khôn ngoan, có đức hạnh và luôn chú ý chiều chuộng tôi. Về phía mình, tôi yêu nàng thực lòng, chiều theo tất cả các ý muốn của nàng, chưa bao giờ cấm đoán một điều gì.
Cách đây khoảng hai tháng, nàng ngã bệnh. Tôi hết lòng chăm sóc, không ngần ngại bất cứ việc gì cố sao để làm cho nàng mau lành bệnh. Được một tháng bệnh thuyên giảm, sửc khoẻ khá lên dần nàng muốn đi ra nhà tắm. Trước khi ra khỏi nhà, nàng bảo tôi: “Anh họ của em ơi! (nàng thường thân mật gọi tôi thế) Em muốn ăn táo quá đi mất, em sẽ cực kỳ vui thích nếu anh tìm được cho em vài quả. Em đã thèm ăn táo lắm rồi, thú thật với anh là em thèm tới mức là nếu không sớm được ăn thì em sợ là sức khoẻ em súy sụp mất. “ Rất vui lòng thôi - Tôi trả lời nàng - Anh sẽ cố gắng hết sức để chiều em.”
Ngay tức thì, tôi đi lùng tìm khắp các chợ, khắp các cửa hàng để mua ít quả táo, nhưng không thấy dù chỉ một quả, dù tôi đã sẵn sàng trả tiền cho mỗi quả một đồng sequin. Tôi trở về nhà rất buồn vì mất công toi. Về phần vợ tôi, khi đi tắm về không thấy có táo, nàng buồn rầu trằn trọc suốt đêm không ngủ. Sáng hôm sau tôi dậy sớm đi thăm khắp các vườn cây nhưng kết quả cũng chẳng hơn gì hôm trước. Tôi chỉ gặp được một người làm vườn có tuổi bảo tôi là dù có mất bao nhiêu công sức đi tìm thì cũng chẳng đâu có táo lúc này trừ trường hợp ở vườn ngự uyển của đức vua ở Balsora.
Tôi vốn rất yêu vợ và chiều chuộng nàng hết mức, không muốn để nàng phải phật ý vì bất cứ một điều gì nên tôi đã mặc vào mình bộ y phục đi đường và sau khi nói cho nàng biết ý định của mình, tôi lên đường đi Balsora. Tôi đi rất khẩn trương nên chỉ trong vòng nửa tháng đã có mặt tại nhà. Tôi mang về ba quả táo giá mỗi quả là một đồng sequin. Trong vườn chỉ có ngần ấy quả và ông làm vườn nhất định không để cho tôi rẻ hơn. Vợ tôi rất hài lòng nhận ba quả táo và đặt chúng ngay bên cạnh mình. Tuy nhiên nàng vẫn còn ốm và tôi chẳng biết dùng thuốc gì để chữa khỏi bệnh cho nàng.
Sau cuộc đi của tôi ít ngày, một hôm ngồi trong cửa hàng ở nơi công cộng bán đủ các loại vải lụa đẹp, tôi nhìn thấy một nô lệ da đen cao to mặt mũi dữ dằn, tay cầm một quả táo mà tôi nhận đích xác đó là quả táo mà tôi mang về từ Balsora. Không thể nhầm được vì tôi biết là ở Balsora cũng như ở các vườn quả các vùng lân cận không có một quả táo nào. Tôi gọi người nô lệ:
- Này anh bạn, làm ơn cho tôi biết, anh đã lấy được quả táo này ở đâu vậy?
- Đó là Anh ta cười đáp - tặng vật của tình nhân tôi. Hôm nay đến thăm, tôi thấy nàng hơi ốm: Có ba quả táo để bên cạnh, tôi hỏi nàng mua được ở đâu, nàng trả lời tôi đó là của người chồng tốt bụng của nàng kiếm được mang về cho nàng sau một chuyến đi tới nửa tháng trời. Chúng tôi cùng nhau ăn một bữa nhẹ, và khi chia tay, tôi đã cầm một quả mang theo.
Những lời trên đây của người nô lệ da đen làm tôi điên tiết. Tôi rời khỏi chỗ ngồi, đóng cửa hàng lại và chạy về nhà, vào trong buồng vợ. Đầu tiên tôi nhìn chỗ để những quả táo, chỉ thấy hai quả, tôi hỏi quả thứ ba đâu. Lúc này vợ tôi mới nguảnh đầu nhìn vào chỗ để táo, thấy còn có hai quả, lạnh lùng bảo tôi:
- Anh họ ơi? Em chẳng biết ra sao cả.
Nghe nàng đáp thế, tôi cho ngay là người nô lệ kìa đã nói đúng. Một cơn ghen tuông như bão tố nổi lên, tôi rút dao vẫn cài ở thắt lưng, đâm một nhát trúng tim con khốn nạn. Rồi tôi cắt đầu, chặt ngườI nàng ra mấy khúc, cho vào cái túi gấp và sau khi khâu miệng túi bằng một sợi len đỏ, tôi nhét cái túi vào một chiếc hòm gỗ, đợi trời tối, vác lên vai và quẳng xuống sông Tigre.
Hai đứa con của tôi đều đã đi ngủ, đứa con lớn đã đi đâu ra khỏi nhà. Khi tôi về thì thấy nó đang ngồi tựa cửa và khóc nức nở. Tôi hỏi vì sao nó khóc. Nó nói:
- Cha ơi, sáng nay con lấy trộm của mẹ một quả táo mà cha đã mang về đó. Con vẫn chưa ăn vì mải chơi với một lũ bạn thì giữa lúc đó một người nô lệ cao lớn đi qua đã giật mất quả táo trong tay con rồi bước rảo đi. Con đuổi theo đòi lại và nói với hắn là mẹ ốm, cha đã phải đi lùng tìm suốt nửa tháng mới mua về cho mẹ được ba quả táo. Nhưng vô ích, hắn vẫn không chịu trả và vì con vẫn đi theo để lớn tiếng đòi, hắn quay lại đánh con rồi gié chân chạy, luồn qua các ngõ hẻm mất hút. Từ lúc đó con đi lang thang ra ngoài thành phố chờ cha về để xin cha đừng nói gì với mẹ kẻo mẹ lại ốm thêm thì khổ.
Nói xong, con tôi lại ôm mặt khóc nức nở.
Những lời kể của con làm tôi bàng hoàng đau đớn không sao tả xiết. Tôi đã phạm tội ghê gớm, hối hận nhưng đã quá muộn. Tôi đã mù quáng tin vào những lời bịa đặt của tên nô lệ khốn kiếp, nó đã dựa vào lời con tôi để dựng lên một câu chuyện hoang đường tai hại mà tôi đã cho là thật. Chú tôi, có mặt tại đây khi đến thăm con gái đã biết được chuyện đau lòng này. Tôi không giấu ông tí gì và không đợi ông lên án, tôi đã tự kết tội mình là một tên sát nhân tồi tệ nhất trong thiên hạ.
Thế nhưng, đáng lẽ phải đánh mắng xỉ vả tôi đến nơi đến chốn, một việc tất nhiên và hợp lý, thì ông lại cùng tôi chia sẻ nỗi đau, suốt ba ngày tôi và ông cùng khóc ròng. Ông, vì mất người con gái mà ông yêu thương nhất mực; tôi vì mất một người vợ yêu quí mà tôi đã tự tay mình sát hại một cách vô cùng hung ác chỉ vì nhẹ dạ cả tin vào một tên nô lệ dối trá khốn kiếp.
Bẩm đấng Thống lĩnh các tín đồ, đó là tất cả sự thật mà Người đòi hỏi tôi phải thổ lộ. Lúc này, Người đã rõ nhũng hoàn cảnh đã đẩy tôi tới chỗ phạm tội ác, xin Người hãy ra lệnh trừng phạt. Dù cho hình phạt kia có nặng nề khắc nghiệp tới đâu, tôi cũng chẳng dám kêu ca nửa tiếng và còn thấy là hãy còn quá nhẹ.
Nghe lọt tất cả câu chuyện, hoàng đế vô cùng sửng sốt”
Scheherazade, kể tới đây thấy trời đã hửng sáng bèn ngừng lời. Nhưng đêm sau, nàng lại kể tiếp:
Tâu bệ hạ - Nàng nói - Vị hoàng đế này cực kỳ kinh ngạc về những điều chàng trai vừa kể. Nhưng ông là một vị vua công minh nên thấy chàng đáng được thương xót hơn là phải đối xử như một tội phạm nên phán rằng:
- Hành động của chàng trai này đáng được khoan dung trước Thượng đế và đáng được đại xá trước loài người. Tên nô lệ độc ác kia là nguyên nhân chính của vụ án sát nhân này. Nó là tên duy nhất cần phải trừng phạt. Vì vậy Ông ngoảnh về phía tể tướng nói - Ta cho nhà ngươi ba ngày để tìm ra nó. Nếu nhà ngươi, trong thời hạn đó mà không lôi được cổ nó về đây thì ta sẽ treo cổ ngươi thay nó.
Viên tể tướng khốn khổ tưởng là đã thoát nạn, nào ngờ lại phải nhận cái lệnh mớI oái oăm này của hoàng đế. Nhưng vì không dám cãi lại một ông vua mà ông đã biết rõ tính tình, nên chỉ còn cách là lảng đi và trở về nhà nước mắt rơi lã chã, chắc mẩm là còn sống được ba ngày nữa thôi. Tin chắc là không sao có thể tìm thấy được tên nô lệ đó nên ông chẳng mảy may nghĩ tới việc lùng tìm. Ông nghĩ bụng: “Làm sao mà phân biệt nổi trong thành Bagdad này có đến hàng ngàn vạn nô lệ da đen, để chỉ được đích danh một tên là thủ phạm. Trừ phi có Thượng đế ra tay giúp đỡ như Người đã giúp cho khám phá ra kẻ sát nhân vừa rồi, còn thì chẳng gì có thể cứu được ta lúc này”.
Hai ngày đầu ông cùng với gia đình thở than khóc lóc, rên rỉ về sự hà khắc của hoàng đế. Ngày thứ ba tới, ông chuẩn bị sẵn sàng chết một cách cứng cỏi như một ông quan công minh, liêm khiết chẳng hề có một điều gì đáng trách dù hết sức nhỏ nhặt. Ông cho vời các pháp quan và nhân chứng tới đông ký vào di chúc trước mặt họ. Sau đó ông ôm hôn vợ và các con nói lời vĩnh biệt. Toàn thể gia đình ông than khóc om sòm. Thật không có một cảnh tượng nào đáng xúc động hơn.
Cuối cùng, một viên quan cảnh vệ hoàng cung đi tới cho biết là hoàng đế sốt ruội vì chẳng có tin tức gì về ông cũng chẳng có tin tức gì về tên nô lệ da đen mà Người đã lệnh cho ông truy tìm. Viên quan đó nói thêm:
- Tôi được lệnh tới mờI ngài vào cung bệ kiến.
Ngài tể tướng đau khổ sửa soạn mũ áo để đi theo viên quan. Nhưng vừa định bước ra cửa thì người nhà đưa tới cô con gái út của ông chừng năm, sáu tuổi, để ông được nhìn thấy lần cuối cùng.
Vì rất mực yêu thương cô con gái út bé bỏng này nên ông xin viên quan cảnh vệ được nán lại một lát. Rồi ông tới gần con gái, ôm lấy cô bé và hôn đi hôn lại. Khi ôm hôn, ông cảm thấy con gái có cái gì cồm cộm ở ngực, lại toả ra mùi thơm, ông hỏi:
Con gái yêu quí của cha, con có cái gì ở ngực thế?
- Cha yêu quí của con - Cô bé đáp - Đó là một quả táo trên đó có viết tên hoàng đế, lãnh chúa và là ông chủ của chúng ta. Rihan, nô lệ của nhà ta đã bán cho con hai đồng equin đấy.
Nghe nói đến quả táo và nô lệ, tể tướng Giafar kêu lên ngạc nhiên pha lẫn vui mừng, lập tức thò tay vào ngực áo con lôi ra một quả táo. Ông cho gọi người nô lệ, không ở xa đó mấy, và khi tên này đã đứng trước mặt, ông hỏi:
- Marand, mày lấy quả táo này ở đâu?
- Thưa ngài - Tên nô lệ đáp - Tôi thề là không lấy trộm quả táo này ở nhà ngài cũng như ở trong vườn của đấng Thống lĩnh các tín đồ. Ngày hôm nọ, khi tôi đl qua một đường phố có ba bốn đứa trẻ đang chơi đùa, thấy trong tay một đứa có quả táo tôi đã giật lấy mang đi. Đứa bé chạy theo tôi nói quả táo không phải của nó nhưng là của mẹ nó đang ốm, là cha nó phải đi rất xa mới mua được ba quả mang về cho mẹ nó đỡ cơn thẻm. Đây là một quả nó lày vụng mẹ. Nó van xin tôi trả lại cho nó, nhưng tôi không nghe, mang về nhà và bán cho bé tiểu thư nhà ngài lấy hai đồng equin. Đó là tất cả sự thật tôi xin trình ngài rõ.
Tể tướng Giafar không sao có thể tưởng tượng được là sự dối trá của một tên nô lệ lại là nguyên nhân của cái chết thảm khốc của một người đàn bà vô tội và gần hầu như cả là nguyên nhân cái chết của chính mình nữa. Ông dẫn tên nô lệ theo và khi đứng trước hoàng đế ông kể lại cho nhà vua nghe chi tiết tất cả những gì tên nô lệ đã trình bày và do tình cờ ra sao mà ông khám phá ra tội phạm.
Không có gì có thể đánh giá được sự ngạc nhiên của hoàng đế. Ông không sao ngăn được một tràng cười ròn rã. Cuối cùng, lấy lại vẻ nghiêm trang, ông bảo tể tướng là vì nô lệ của tể tướng đã gây nên một vụ lộn xộn thật là kỳ cục vậy nó xứng đáng phải chịu một hình phạt để làm gương.
- Tâu bệ hạ - Tể tướng nói - Thần chẳng dám phủ nhận. Nhưng tội ác của nó không phải là không thể dung xá. Thần biết một chuyện còn kỳ thú hơn về một tể tướng xứ Caue tên là Noureddin Ali và Bedreddin Hassan ở Balsora. Vì bệ hạ cũng rất muốn nghe những chuyện tương tự, thần xin sẵn sàng kể hầu Người với điều kiện là nếu Người thấy hay lạ hơn câu chuyện này thì xin Người gia ân tha cho tên nô lệ của thần.
- Ta cũng muốn vậy - Hoàng đế nói - Nhưng sợ nhà ngươi phiêu lưu, ta không tin là sẽ cứu được tên nô lệ của ngươi vì câu chuyện về những quả táo thật vô cùng kỳ lạ.
Tể tướng Giafar hắng giọng bắt đầu câu chuyện như sau:
- Tâu hoàng thượng - Scheherazade đáp - Chàng ta cất tiếng và kể như thế này:
Chương 16: Noureddin Ali và Bedreddin Hassan
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ, ngày xưa ở đất nước Ai-cập có một vị hoàng đế chí công, chí đức và rất hùng mạnh khiến cho các lân bang đều nể vì sợ hãi. Ông yêu thương dân nghèo và chở che cho các nhà thông thái mà ông đưa lên giữ những trọng trách trong triều đình. Tể tướng của hoàng đế là một người sắc sảo, khôn ngoan, thận trọng, thông thạo thư pháp và tất cả các môn khoa học. Vị trọng thần này có hai con trai khôi ngô tuấn tú và đều có nhiều nét giống cha. Người anh tên là Schemseddin Mohammed và người em là Noureddin Ali. Đặc biệt người, em có nhiều đức tính mà bao người thèm muốn. Tể tướng, cha của hai chàng đã mất, nhà vua mời cả hai anh em về triều và phong cho cả hai chức vị tể tướng thường.
- Ta vô cùng thương cảm - Người bảo hai người - Về sự mất mát mà các con đang phải chịu đựng. Ta cũng thương tiếc cha con không kém gì các con. Để thể hiện tình cảm đó, và ta biết là các con luôn sống bên nhau đoàn kết yêu thương nhau nên ta phong cho các con cũng một tước vị. Các con hãy noi theo gương sáng của cha các con.Hai tể tướng mới cảm tạ tấm lòng nhân ái 1của hoàng đế, trở về nhà, chăm nom phần mộ của cha. Một tháng sau, họ xuất hành lần đầu, và tham dự triều chính lần thứ nhất, và từ đó trở đi họ đều đều có mặt trong những buổi thiết triều. Mỗi lần hoàng đế đi săn, một trong hai anh em được đi hộ giá, và lần lượt thay phiên nhau để hưởng vinh dự đó.Một hôm, sau bữa cơm chiều, hai anh em trò chuyện bàn bạc với nhau nhiều vấn đề linh tinh. Đó là trước cái buổi mà người anh được cùng hoàng đế đi săn.
Chàng trai trẻ bảo em:Em này, cả hai chúng ta đều chưa thành hôn và chúng ta sống cùng nhau thật là hoà thuận, anh chợt có một ý: chúng ta hãy cùng cưới một ngày, lấy hai chị em mà chúng ta sẽ chọn lựa trong một gia đình nào đó phù hợp với chúng ta.
Em nghĩ sao về cái ý tưởng đó?
- Em thấy - Noureddin Ali đáp - Thật rất xứng vớI tình thân đã gắn bó chúng ta. Anh ạ, không gì hay hơn ý tưởng đó. Về phần em, em sẵn sàng tuân theo anh.
- Ồ, chưa phải là tất cả đâu – Schemseđdin Mohammed nói tiếp - Trí tưởng tượng còn đi xa hơn kla: giả dụ là những người vợ của chúng ta đều mang thai ngay trong đêm đầu tiên của ngày cưới và sau đó các nàng cùng lâm bồn một ngày, vợ em sinh con trai và vợ anh sinh con gái thì khi chúng đến tuổi trưởng thành, chúng ta sẽ cho chúng thành vợ thành chồng.- Ôl? Cái đó thì - Noureddin Ali kêu lên - Phải thú thực là dự kiến đó thật tuyệt vời? Cuộc hôn nhân đó làm anh em ta càng thêm gắn bó mật thiết, em hết sức tán thành. Nhưng, anh ơi - Chàng nói thêm - Nếu trường hợp có cuộc hôn nhân đó, thì anh có định là con trai em phải có một khoản hồi môn cho con gái anh không?- Cái đó là tất nhiên rồi - Người anh nói - Anh chắc chắn là, ngoài những thủ tục thường tình của việc lập giá thú thì chú chắc là không quên trao cho đúng tên nó ít nhất là ba nghìn đồng sequin, ba mảnh đất màu mỡ kèm với ba nô lệ.- Em làm sao mà đồng ý như vậy được . Người em phản bác - Phải chăng chúng ta chẳng phải là anh em ruột thịt và là bạn đồng liêu, cùng một chức sắc như nhau? Vả lại cả anh và em, phải chăng chúng ta không biết thế nào là sai, thế nào là đúng? Con trai bao giờ cũng phải quý hơn con gái chứ? Chính anh phải chi một khoản hồi môn lớn cho con gái mình mới đúng chứ? Cứ như em thấy thì anh là một con người chuyên lợi dụng trên lưng vốn người khác.Dù là Noureddin Ali vừa nói vừa cười, nhưng ngườI anh, có tính cố chấp, coi như bị xúc phạm:- Thật bất hạnh cho con trai chú - Người anh giận dữ nói. Chú lại dám đánh giá nó cao hơn con gái tôi ư? Tôi thật ngạc nhiên là chú dám bạo gan cho là con trai chú xứng với con gái tôi đấy. Phải nói là chú mất trí mới dám sánh ngang với tôi mà nói chúng ta là đồng liêu. Hãy nghe đây, quân bạo phổi, sau lời lẽ hỗn xược đó, tôi chẳng bao giờ gả con gái tôi cho con trai chú, dù chú có cho nó bao nhiêu của cải đi nữa.Cuộc cãi vã đáng buồn cười này xảy ra giữa hai anh em về cuộc hôn nhân của hai đứa con chưa sinh đã đưa sự việc đi xa hơn. Schemseddin Mohammed tức giận đến mức đe doạ:- Nếu ngày mai không phải đi theo hộ giá hoàng đế thì tôi đã cho chú biết tay. Nhưng khi trở về tôi sẽ cho chú biết một người em mà ăn nói láo xược vớI anh mình như chú đó thì sẽ phải ra sao.Nói xong, anh ta rút về phòng riêng, và người em cũng về phòng mình.Schemseddin Mohammed sáng hôm sau dậy sớm vào hoàng cung và từ đó đi ra cùng hoàng đế theo đường phía trên thành Caire, hướng Kim tự tháp. Còn Nouređdin Ali trằn trọc cả đêm không ngủ và sau khi cân nhắc kỹ thấy khó có thể sống lâu dài cùng người anh đã đối xử với mình quá hách dịch, cao ngạo. Chàng phác trong đầu một quyết định, cho sửa soạn một con la khoẻ mạnh, mang theo tiền, đồ châu ngọc quý và một ít lương thực và sau khi bảo người nhà là đi du lich khoảng vài ba ngày và muốn đi một mình thôi. Thế là chàng lên đường.Khi đã ở bên ngoài thành Caire, chàng đi xuyên qua sa mạc tới vùng Arabie. Nhưng con la của chàng đã gục chết giũa đường, chàng bắt buộc phải đi bộ. May thay, có một người làm nhiệm vụ giao thông liên lạc đi Balsora cho đi cùng, được ngồi trên ngựa phía sau anh ta. Tới Balsora, cám ơn người bạn tốt bụng, Noureddin Ali xuống ngựa rồl đi dọc theo các phố tìm chỗ nghỉ chân. Giữa lúc đó, chàng trông thấy một quan chức cùng với đoàn tuỳ tùng rất đông đi tới. Dân chúng hai bên đường đều tỏ vẻ cung kính, dạt ra hai bên cho đoàn người đi qua. Noureddin cũng dừng lại như mọi người và biết đó là tể tướng của quốc vương Balsora đi thị sát trong thành phố để, với sự có mặt của mình, động viên dân chúng giữ gìn trật tự an ninh.Vị đại thần này, vô tình liếc mắt nhìn chàng trai thấy khuôn mặt chàng thật dễ coi, ông ta nhìn chàng đầy thiện cảm. Và vì ông đi thị sát gần chàng, thấy là người vận y phục đi đường nên dừng lại hỏi chàng là ai và từ đâu đến.- Thứa ngài - Noureddin Ali đáp- Tôi là người đất nước Ai-cập, sinh tại Caire, xa rời xứ sở vì có chuyện xích mích với một người trong dòng họ. Tôi đã quyết định là sẽ đi chu du khắp thiên hạ và thà chết ở đâu đó còn hơn là phải trở về.Tể tướng là một ông già đáng kính, nghe chàng thanh niên nói thế, bảo chàng:Con trai của ta ạ. Con hãy nên gạt bỏ cái ý định đó đi. Ở thế gian này chỉ toàn là khổ ải mà thôi và con có biết là sẽ có bao nhiêu nỗi nhọc nhằn mà con sẽ phải hứng chịu khi đi lang thang như thế không? Thôi, con hãy đi theo ta, có thể ta sẽ làm cho con quên di cái nguyên nhân đã buộc eon phải rời bỏ quê hương.Noureddin Ali đi theo tể tướng Balsora, ông này, qua chuyện trò thấy chàng trai có nhiều đức tính thật tốt đẹp nên đã đem lòng yêu mến. Một hôm, trong đàm đạo riêng, ông bảo chàng:Con trai ơi, như con thấy đấy, ta đã quá già rồi, chắc chả còn sống được bao lâu nữa. Trời cho ta một người con gái duy nhất mà sắc đẹp của nó cũng chẳng kém vẻ khôi ngô của con. Con ta lúc này đang ở tuổi gả chồng. Rất nhiều các đại thần trong triều này đã ngấp nghé hỏi cho con trai họ, nhung ta chưa đồng ý nhận lờI với ai cả. Còn với con, ta yêu quý con và thật xứng đáng để kết thân hơn tất cả bao đám khác, nên ta sẵn sàng nhận con là con rể của ta. Nếu con vui vẻ nhận lời thì ta sẽ tâu với hoàng đế để Người biết rõ và ta sẽ xin vớI Người cho con được nối nghiệp ta làm tể tướng ở vương quốc Balsora này. Đồng thời, vì tuổi già của ta cần có sự nghỉ ngơi an dưỡng, nên không những ta để lại cho con toàn bộ tài sản mà cả quyền hạn trong việc cai trị và xử lý các công vụ của vương quốc.Vị tể tướng Balsora đầy lòng khoan dung nhân hậu chưa dứt lời thì Noureddin Ali đã vội sụp quỳ xuống bên chân ông, tỏ vẻ mừng vui và hàm ân sâu sắc, sẵn sàng làm tất cả những gì để làm cho vị tể tướng già nua tuổi tác này đặc biệt hài lòng. Thế là ông cho triệu tập tất cả những quan chức chủ yếu trong dinh tể tướng lại, ra lệnh cho họ trang hoàng gian đại sảnh và làm đại tiệc. Rồi ông đưa giấy mời tới tất cả các đại thần trong triều và các thân hào trong thành phố hạ cố tới dinh. Khi đã tề tựu đông đủ và vì ông đã biết rõ nhân thân của Noureddin Ali nên thấy tới lúc này là phù hợp để cho mọi người rõ sự việc, để khỏi có sự phật lòng của những người trước đây ông đã từ chối việc kết thân. Ông nói với tất cả:- Thưa các ngài, tôi lấy làm sung sướng và hài lòng được nói với các ngài một việc mà tôi đã giữ kín đến tận hôm nay. Tôi có một người em trai là tể tướng của đất nước Ai-cập cũng như tôi có vinh hạnh được làm tể tướng vương quốc này. Chú em của tôi chỉ có một con trai và không muốn thành hôn tại triều đình Ai-cập và chú ấy gửi cháu đến chỗ tôi cưới con gái tôi để hai ngành họ càng thêm mật thiết. Người con trai, con của chú em, cháu của tôi mà tôi nhận làm con rể là chàng trai mà các ngài thấy đây, tôi xin trân trọng giới thiệu với các quý ngài. Tôi mong là các ngài rủ lòng thương cháu và vui lòng dự tiệc cưới của các cháu mà tôi đã quyết định tổ chức hôm nay.Không một ai trong số các quan chức thấy việc chọn cháu ruột của mình làm con rể so với các đám khác muốn dạm hỏi là không chính đáng nên tất cả đều đồng thanh chúc mừng cuộc hôn nhân này. Họ đều vui lòng đứng ra làm chứng cho hôn lễ và chúc cho tể tướng được Thượng đế phù hộ cho trường thọ để được nhìn thấy kết quả của cuộc hôn phối đẹp đẽ và hạnh phúc này ''.Đến đây, Scheherazade thấy trời hửng sáng nên ngừng lại và kể tiếp vào đêm sau:***- Tâu bệ hạ - Nàng nói - Tể tướng Giafar kể tiếp câu chuyện đang bỏ dở cho hoàng đế nghe:“ Các quan chức tập hợp tại dinh tể tướng Balsora tỏ vẻ hết sức vui mừng về cuộc hôn nhân của con gái ông với Noureddin Ali. Tất cả, sau đó, ngồi vào bàn, ăn uống, chuyện trò rất lâu. Xong bữa, họ dùng đến các thứ mứt và hoa quả mà theo tục lệ mỗi người đều được lấy phần ít nhiều tuỳ thích để mang về nhà. Các pháp quan đi vào với giấy tờ giá thú trong tay. Các nhà chức trách chính yếu lần lượt ký vào rồi sau đó tất cả đều bái biệt ra về.Khi chỉ còn người trong nhà, tể tướng trao trách nhiệm cho những gia nhân đã được chỉ định, đưa chú rể đi tắm rửa, ở đó Noureddin Ali được thay toàn bộ áo quần mới sạch đẹp cùng với nhiều thứ cần dùng khác. Chàng trở lại gặp tể tướng trong bộ y phục sang trọng thơm tho làm cho ông bố vợ hết sức vui vẻ khi nhìn thấy khuôn mặt khôi ngô tuấn tú của chàng rể mới. Ông bảo chàng ngồi xuống cạnh mình rồi bảo:- Con đã cho ta biết con là ai, địa vị của con ở triều đình Ai Cập; con cũng đã nói cho ta biết vì mâu thuẫn vớI anh ruột mình mà con phải rời xa đất nước, ta xin con hãy tâm sự với ta trọn vẹn cho ta biết nguyên nhân mà anh em con cãi lộn. Bây giờ con hãy hoàn toàn tin tưởng và đừng nên giấu ta điều gì hết.Noureddin Ali kể lại cho ông nghe tất cả chi tiết của sự bất đồng giữa hai anh em. Ngài tể tướng không sao nhịn được cười khi nghe xong câu chuyện.- Đó thật là - Ông nói - một chuyện kỳ lạ nhất trên đời này! Có thể thế được không hả con, là cuộc tranh cãi đi đến quyết liệt chỉ vì một cuộc hôn nhân tưởng tượng? Ta thấy bất bình là con bất hoà với anh con chỉ vì một chuyện ba láp không đâu vào đâu cả. Tuy nhiên ta cũng thấy là anh con có chỗ sai là đã quá tự ái không cho là con chỉ nói đùa vui mà gán cho con tội hỗn xược. Mặt khác ta cũng phải cảm tạ ông trời là cũng vì có sự bất đồng giữa hai anh em mà ta được một người con rể như con. Nhưng mà - Ông già nói tiếp - đêm đã khuya rồI đấy con nên đi nghỉ thôi. Đi đi, con trai ta, vợ con đang chờ con đấy. Ngày mai ta sẽ đưa con đến bệ kiến hoàng đế Ta tin rằng Người sẽ tiếp con một cách mà cả hai ta đều thấy hài lòng.Noureddin Ali tạm biệt bố vợ để về phòng riêng với vợ. Có một điều đặc biệt - Tể tướng Giafar nói tiếp - là , cũng vào ngày cuộc hôn lễ của Noureddin Ali diễn ra ở Balsora thì Schemseddin Mohammed, người anh đang đi săn với hoàng đế Ai Cập và chỉ trở về sau một tháng vì nhà vua quá say mê với cuộc săn nên cũng vắng mặt trong triều suốt thời gian đó. Khi trở về chàng đến ngay nhà Noureddin Ali và rất ngạc nhiên khi biết em chàng lấy cớ là đi du lịch vài ba ngày, cưỡi một con la đi trùng với ngày đi săn của hoàng đế, và từ ngày đó biệt tăm. Chàng cũng không ngờ là những lời nói quá cay nghiệt của mình lại là nguyên nhân làm cho em chàng xa lánh. Chàng phái một giao liên qua Damas và tới tận Alep, nhưng lúc này Noureddin đang ở Balsora thì làm sao mà tìm được. Khi người giao liên thất bại trở về, Schemseddin Mohammed dự định phái hắn đi tiếp tìm ở những nơi khác nhưng trong lúc chờ đợi, chàng quyết định hãy cưới vợ đã. Chàng lấy con gái của một trong các trọng thần uy danh nhất thành phố Caire và tổ chức cùng một ngày với người em lấy con gái tể tướng Balsora.Nhưng chưa phải đã hết – Giafar kể tiếp - Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, đây là chuyện còn lạ hơn: Chín tháng sau, vợ Schemseddin Mohammed đẻ con gái ở Caire và cũng cùng ngày đó vợ Noureddin cho ra đời ở Balsora một đứa con trai đặt tên là Bedreddin Hassan. Tể tướng Balsora tổ chức ăn mừng linh đình đón cậu cháu ngoại. Rồi, để tỏ lòng mến yêu chàng rể quí, ông vào cung bệ kiến hoàng đế, thiết tha cầu xin Người gia ân mưa móc cho Noureddin Ali được nối nghiệp mình để ông nói - trước khi nhắm mắt ông được thấy con rể là tể tướng thay chỗ của mình.Hoàng đế đã lấy làm hài lòng hôm thấy chàng tôi bệ kiến sau hôn ìễ, sau đó lại được nghe nhiều lời tốt đẹp về chàng nên đã chuẩn y lời cầu xin của vị trọng thần với tất cả sự tán thưởng đáng mong ước. Nhà vua cho chàng mặc ngay triều phục tể tướng trước mặt Người.Sự hân hoan của ông bố vợ càng được nhân lên bội phần khi ngày hôm sau ông thấy chàng rể của ông chủ toạ một cuộc họp thay ông và điều hành tất cả sự vụ của một tể tướng. Noureddin Ali thông thạo công việc như tất cả cuộc đời của chàng đã từng làm chức trách đó. Sau này chàng tiếp tục về sau này, tham dự các cuộc họp mà vì tật bệnh của tuổi già không cho phép bố vợ tới được. Vị tể tướng già nhân hậu này qua đời bốn năm sau ngày cưới con gái, mãn nguyện là có người nối dõi làm vẻ vang cho cả dòng họ.Noureddin Ali đã tổ chức tang lễ cho bố vợ thật trang trọng với tất cả tình thương yêu và lòng tri ân sâu sắc. Chẳng mấy chốc mà cậu con trai Bedreddin Hassan được tròn bảy tuổi. Chàng trao con vào bàn tay dạy đỗ của một ông thầy đức hạnh giỏi giang cho cậu con vào khuôn phép xứng đáng với dòng dõi xuất thân của mình. Chàng đã thấy trong đứa bé này một trí thông minh lanh lợi sắc sảo có thể tiếp thu được tất cả những điều dạy bảo”.Scheherazade định kể tiếp nhưng thấy trời đã hửng sáng, nàng bèn dừng lại. Đêm sau, nàng kể tiếp, với hoàng đế quốc gia Ấn Độ như sau:***- Tâu bệ hạ, - tể tướng Giafar kể tiếp câu chuyện cho vị hoàng đế nghe:''Hai năm sau - Ông nói - Bebreddine Hassan được ông thầy dạy cho đọc thạo, đã thuộc lòng quyển kinh Coran. Noureddin Ali, cha cậu, mời những ông thầy khác huấn luyện cho cậu cho đến năm mười hai tuổi thì Bebreddine Hassan đã học hết chữ của các thầy. Lúc này khuôn mặt của cậu đã định hình khiến cho người nào nhìn thấy đều đem lòng ái mộ và khâm phục.Mãi tới lúc này, Noureddin Ali chỉ nghĩ một điều là động viên cho con dùi mài kinh sử chứ chưa cho xuất đầu lộ diện ngoài xã hội. Ông đưa cậu tới cung điện là để cho cậu có vinh dự được bái kiến hoàng đế mà ông đã được Người chiếu cố có phần ưu ái. Những bậc đại quan gặp cậu trên đường phố đều rất ngưỡng mộ vẻ đẹp trai của cậu thường thốt lên lời kinh ngạc và chúc tụng cậu hết lời.Vì cha cậu có dự định là bồi dưỡng cho cậu có đầy đủ năng lực để một ngày kia sẽ thay thế ông, nên không ngẩn ngại bắt cậu đi sâu vào những sự vụ thật khó để cậu làm quen sớm với những công vụ nặng nề. Ông không nề hà bất cứ một việc gì để có thể làm cho cậu con trai vô cùng yêu quí của mình tiến bộ mau chóng và khi ông bắt đầu được hưởng thành quả của bao công lao khó nhọc thì bất ngờ ông bị bạo bệnh và cảm thấy là cái ngày gần đất xa trời của ông chẳng còn bao lâu nữa. Vì vậy, cũng chẳng còn gì phải ân hận, ông quyết định phải xa rời cõi thế như một tín đồ Hồi giáo thực thụ. Trong cái thời khắc quí báu này ông không quên con trai Bebreddin yêu quí của mình. Ông cho gọi chàng đến và dặn dò:- Con của cha? Con thấy rõ là ở thế gian này chặng ai tránh khỏi cái chết. Chỉ có thế giới bên kia, nơi mà cha sắp đi sang, là vĩnh cửu. Ngay từ bây giờ con phải bắt đầu đặt mình vào việc dàn xếp như cha lúc này. Con hãy sửa soạn để bước qua đoạn đường này trong lòng không chút nuối tiếc và lương tâm yên ổn vì đã làm tròn trách nhiệm của một tín đồ Hồi giáo cũng như một công đân hoàn toàn lương thiện. Về mặt tôn giáo, qua các thầy và các sách vở, con đã được hiểu biết đầy đủ, về đạo làm người, để làm một con người chính trực. Cha sẽ cho con biết một số lời răn dạy mà con nên cố gắng mang ra thực hành. Vì điều tối cần thiết là tự mình phải biết mình và con sẽ chẳng làm được điều đó khi chưa biết rõ cha là ai thì đây cha sẽ cho con biết.“Cha được sinh ra ở Ai Cập - Ông nói tiếp . Cha của cha tức là ông nội con là tể tướng của hoàng đế vương quốc. Bản thân cha cũng có vinh dự là một trong những tể tướng của đấng quốc vương này cùng với người anh, bác của con mà cha chắc là còn sống và có tên là Schemseddin Mohammed. Cha buộc phải chia tay với bác của con và tới vương quốc này mà ở đây cha đã đạt tới cương vị mà cha còn giữ đến bây giờ. Nhưng con sẽ nắm được rõ hơn tất cả những sự kiện này trong một quyển vở mà cha sẽ trao cho con đây. Đồng thời, Noureddin Ali lấy quyển vở tự tay ông viết mà ông luôn mang theo bên người đưa cho Bebreddin Hassan:- Con hãy cầm lấy - Ông bảo con - Và những lúc rỗI rãi con hãy đem ra đọc, con sẽ thấy trong đó, bao sự kiện khác, ngoài ngày cha thành hôn và ngày con ra đời. Đó là những cảnh ngộ nó có thể giúp ích cho con sau này nên con cần luôn trân trọng giữ gìn.Bebreddin Hassan, vô cùng xúc động thấy cha ở trạng thái yếu mệt, mủi lòng vì những lời khuyên nhủ, cầm lấy quyển vở mà nước mắt chan hoà. Chàng hứa vớI cha là luôn luôn ghi nhớ những lời dạy bảo.Giữa lúc đó, Noureddin Ali bị một cơn suy nhược đã tưởng ông sắp thở hơi thở cuối cùng. Nhưng rồi ông lại hồi lại và nhẹ nhàng bảo con:- Con của cha? - Ông nói - Phương châm cuộc sống thứ nhất mà cha truyền đạt cho con là không được nhẹ dạ cả tin. Để cỏ một cuộc sống vững chắc bảo đảm, hãy đặt niềm tin hoàn toàn vào bản thân mình và tránh mọi sự liên hệ dễ dãi.Phương châm thứ hai là không được sử dụng bạo lực với bất kỳ ai vì trong trường hợp này, tất cả mọi người sẽ nổi dậy chống lại con. Con phải coi thiên hạ như một ngườI chủ nợ mà con phải luôn ôn nhã, thông cảm và độ lượng. Phương châm thứ ba là không mở miệng trước những lời nhục mạ. Có một câu phương ngôn hay cần nhớ là:''Người ta sẽ thoát hiểm khi biết giữ im lặng''. Đặc biệt là trong hoàn cảnh này con phải đem ra thực hành. Chắc con cũng đã biết là về chủ đề này một trong số nhà thơ của chúng ta đã nói: sự im lặng là một thứ trang sức và bảo vệ sinh mệnh, chớ nên như một cơn mưa giông phá hoại tất cả khi mở miệng. Người ta không bao giờ phải hối hận khi im lặng, ngược lại luôn phải buồn phiền tức giận vì đã phát ngôn thiếu suy nghĩ chín chắn.Phương châm thứ tư là không uống rượu. Rượu là nguyên nhân của mọi thói xấu.Phương châm thứ năm là tiết kiệm tiền của. Nếu con không hoang phí, nó sẽ tránh cho con mọi sự khó khăn. Tuy nhiên cũng chớ nên quá bủn xỉn keo kiệt. Chi tiêu phù hợp và đúng lúc, ngang bằng với khả năng của mình, con sẽ có nhiều bạn thân, nhưng nếu ngược lại con giàu có nứt đố đổ vách nhưng tiêu sài hoang phí, ném tiền qua cửa sổ thì mọi người sẽ xa lánh và bỏ rơi con đó.Noureddin Ali đến tận phút cuối cùng của cuộc sống, không ngừng khuyên con những điều hay điều tốt. Khi ông nhắm mắt xuôi tay, đám tang của ông thật trang trọng và đông đúc...''.Scheherazade kể đến đây thì trời hửng sáng. Nàng ngừng nói và dành đoạn tiếp vào đêm sau.***Hoàng hậu vương quốc Ấn Độ được cô em Dinarzade đánh thức đúng giờ thường lệ, nàng cất tiếng và nói với Schahriar:Tâu hoàng thượng, vị hoàng đế này say sưa nghe tể tướng Giafar kể tiếp câu chuyện:''Thế là Noureddin Ali được an táng trọng thể phù hợp với cương vị của ông. Bebreddin Hassan của Balsora, người ta gọi thế vì chàng được sinh ra ở thành phố này, đau thương vô hạn vì đã mất một người cha thân yêu. Theo tục lệ thì cứ tang trong một tháng nhưng chàng đã ở tại nhà khóc than suốt hai tháng liền chẳng đi đến đâu và cũng chẳng tới triều để làm nhiệm vụ bầy tôi đối với quốc vương Balsora. Nhà vua rất bất bình về sụ trễ nải của chàng và coi đó là biểu hiện của sự coi thường triều đình và cả bản thân ông nên không nén khỏi tức giận. Trong cơn giận dữ lôi đình, nhà vua cho gọi tể tướng đầu triều mới tới, vì ông đã chọn người thay khi hay tin Noureddin Ali mất, ra lệnh cho ông này tới nhà cố tể tướng tịch biên toàn bộ gia sản, đất đai, đồ đạc... không để lại cho Hassan một chút gì mà còn ra lệnh bắt giữ cả chàng nữa.Ngài tể tướng mới cùng với rất đông quân cận vệ hoàng cung, các pháp quan và các quan chức khác rầm rộ kéo đi thực hành sứ mệnh. May thay, một trong những nô lệ của Bebreddin Hassan tình cờ có mặt trong đám đông nghe thấy được ý đồ của tể tướng đã chạy nhanh đến trước và báo tin đó với chủ. Y thấy Hassan ngồi dưới tiền đình ngôi rthà, buồn rầu ảo não nhớ thương cha. Y chạy vào thở hổn hển ôm lấy chân chàng và sau khi đặt môi hôn vào gấu áo chàng, y bảo:- Ngài hãy trốn ngay đi! Phải trốn nhanh!- Có chuyện gì vậy? - Hassan ngẩng đầu lên hỏi - Ngươi đem tới cho ta tin gì nào?- Thưa ngài - Y đáp - không nên để mất thì giờ nữa. Hoàng đế đang trong cơn thịnh nộ khủng khiếp đối với ngài và cho người tới tịch biên toàn bộ những gì ngài đang có và còn bắt giữ ngài nữa.Lời mách bảo của tên nô lệ trung thành và rất yêu quí chủ đã khiến chàng hết sức sững sờ.- Thế ta không thể - Chàng nói - có chút thời gian nào để vào nhà cầm theo một ít tiền và vài thứ đồ châu ngọc nữa ư? .Không thể được, thưa ngài - Người nô lệ nói - viên tể tướng sẽ có mặt tại đây trong một lát nữa thôi. Ngài hãy đi ngay, trốn mau đi.Bebreddin Hassan vội vã đứng lên, xỏ chân vào đôi dép, lật một vạt áo lên che đầu và mặt rồi lẩn nhanh ra bên ngoài không cần biết phải đi về hướng nào để thoát khỏi mối hiểm nguy đang đe doạ. Ý nghĩ đầu tiên của chàng là mau chóng thoát ra khỏi thành phố. Chàng chạy một mạch tới nghia trang công cộng và vì đêm đã tới gần, chàng quyết định là sẽ trú thân ở nhà mồ của cha qua đêm. Đó là một công trình kiến trúc vẻ ngoài đồ sộ có mái vòm mà Noureddin Ali hồi sinh thời đã cho xây dựng. Nhưng giữa đường đi tới nhà mồ, chàng gặp một người Do Thái rất giàu có làm nghề buôn bán và cho vay lãi. Ông ta từ một nơi có công việc cần giải quyết và lúc này đang trên đường trở về thành phố.Người Do Thái này nhận ra Bebreddin, dừng bước và chào chàng rất lễ độ..”Đến đây, trời vừa sáng, Scheherallade dừng lại và kể tiếp vào đêm sau:***- Tâu bệ hạ - Nàng nói - Vị hoàng đế đó rất chăm chú nghe tể tướng Glafar kể tiếp như sau:''Người Do Thái có tên là Isaac, sau khi chào Bebreddin Hassan và hôn tay chàng, nói:- Thưa ngài, xin mạo muội được hỏi ngài còn đi đâu vào giờ này, hình như lại đi một mình và tâm trạng khá xúc động? Có việc gì đã làm ngài buồn phiền chăng? Phải - Bebreddin đáp - Vừa rồi trong giấc ngủ ta thấy cha ta hiện về. Người nhìn ta trừng trừng, có vẻ đang rất giận dữ vì điều gì đó. Ta giật mình thức dậy rất lo sợ, nên vội chạy tới đây để cầu nguyện trên nấm mồ của ngưòi.- Thưa ngài - Người Do Thái không biết lý do vì sao Hassan rời thành phố nói tiếp - Ngài cố tể tướng và cũng là lãnh chúa trong tâm tưởng của tôi, đã chất đầy hàng hoá lên rất nhiều con tàu hiện nay đang còn ở ngoài khơi. Những tàu hàng hoá này đều thuộc quyền sở hữu của ngài. Vì vậy xin ngài cho phép tôi được độc quyền thầu lại. Tôi có đủ tiền để mua lại tất cả số hàng đó. Nếu ngài đồng ý thì tôi sẽ nhận chuyến tàu đầu tiên sắp cập bến an toàn và sẽ đưa ngay ngài khoản một ngàn đồng sequin. Tiền tôi có mang theo đây và sẵn sàng ứng trước.Bebreddin Hassan, trong tình trạng lúc đó, bị đuổi khỏi nhà, bị lột tất cả những gì có ở trên đời, nhìn nhận đề xuất của người Do Thái như là một ân huệ của trời. Chàng đã nhận lời với sự mừng vui hiếm có.- Thưa ngài - Người Do Thái hỏi chàng - Vậy là ngài đồng ý để cho tôi chuyến hàng thứ nhất trên, một trong những tàu của ngài sắp cập bến với giá một nghìn đồng sequin chứ?Vâng, tôi bán cho ông chuyến hàng đó với giá một nghìn đồng sequin - Bebreddin Hassan đáp - Đó là một vấn đề đã thoả thuận.Tức thì, nhà buôn Do Thái đặt vào tay chàng một túi tiền một nghìn đồng sequin và đề nghị chàng đếm lại. Nhưng Bebreddin nói không cần vì tin vào sự trung thực của ông ta.- Nếu vậy thì - Nhà buôn Do Thái nói - Xin ngài viết cho một chữ về việc mua bán vừa xong của chúng ta.Nói đoạn ông ta rút từ thắt lưng ra một cái bàn viết, một que tre đã vót để làm cây viết, đưa cho chàng một mẩu giấy lấy trong cái cặp giấy viết thư và trong khi ông ta cầm lọ mực, Bebreddin viết những chữ sau vào mẩu giấy:“Giấy chứng nhận: Bebreddin Hassan ở Balsora đã bán cho nhà buôn Do Thái Isaac cả lô hàng trên con tàu thứ nhất cập bến này lấy khoản tiền một nghìn đồng sequin đã nhận đủ - Ký tên: Bebreddin Hassan ở Balsora''.Viết xong chàng trao cho người Do Thái, ông này kẹp vào cặp giấy và xin cáo lui. Trong khi Isaac đi theo con đường dẫn vào thành phố thì Bebreddin Hassan tiếp tục đi tới phần mộ cha là Noureddin Ali. Tới nơi, chàng quỳ xuống mặt gục sát đất, mắt đẫm lệ, miệng than nỗi khổ của mình:- Than ôi! - Chàng rên rỉ - Bebreddin bất hạnh, mày sẽ ra sao đây? Mày tìm đâu ra một chỗ ẩn thân để tránh tên vua bất minh đang ngược đãi hành hạ mày? PhảI chăng sầu não vì mất một người cha yêu quí thế là chưa đủ sao? Phải chăng số mệnh còn bắt ta phải chịu một tai hoạ mới sau buồn đau nuối tiếc này?Chàng trầm ngâm rất lâu trong trạng thái này. Nhưng cuối cùng chàng đứng lên tựa đầu mình vào bia mộ cha cảm nỗi đau lại dội lên cuồn cuộn mạnh hơn trước..Chàng không ngừng thở dài kêu than cho tới khi kiệt sức rồi rời đầu mình khỏi tấm bia chàng nằm duỗi dài trên vỉa hè và lim đi.Tâm hồn phiêu diêu được một lát thì một vị thần linh thường tới ẩn trong nghĩa trang này vào ban ngày, đêm đêm thường bay đi thăm thú các nơi theo thói quen, bất ngờ ngài nhìn thấy một chàng trai trong hầm mộ của Nouređdin Ali, bèn bước vào. Vì chàng trai nằm ngửa nên vị thần sửng sốt, mắt hoa lên vì vẻ khôi ngô tuấn tú của chàng...''.Mặt trời nhô lên không cho phép Scheherazade kể tiếp câu chuyện trong đêm nay. Nhưng đêm sau, vào giờ thường lệ, nàng tiếp tục kể:***“- Khi vị thần đó - Tể tướng Giafar nói tiếp chăm chú nhìn ngắm Bebreddin Hassan, và tự bảo: ''Cứ nhìn vào cái vẻ đẹp của sinh linh này, thì có thể đây là một thiên thần của địa đàng mà Thượng đế phái xuống để làm cho cả thế gian này bốc lửa vì nó''.Cuối cùng, sau khi đã nhìn kỹ, vị thần bay lên rất cao trong không trung, tình cờ gặp một tiên nữ. Cả hai chào nhau, rồi vị thần nói: ''Xin bà vui lòng cùng tôi đỗ xuơng nghĩa trang, nơi tôi trú ngụ, tôi sẽ chỉ cho bà xem một vẻ đẹp hiếm có mà chắc bà sẽ phải tấm tắc khâm phục cũng như tôi vậy''.Bà tiên đồng ý và chỉ một thoáng, họ đã ở bên trong hầm mộ.- Thế nào, thưa bà - Vị thần chỉ vào Bebreddin Hassan - Bà đã bao giờ thấy một thanh niên khôi ngô tuấn tú và đẹp hơn người này chưa?Bà tiên chú ý ngắm nhìn Bebreddin rồi quay sang vị thần linh:- Tôi thú thực - Bà nói - là nó thật đẹp. Nhưng tôi cũng thấy vừa rồi ở Calre, cái này còn tuyệt diệu hơn, nếu ông muốn nghe tôi sẽ kể cho nghe. Nếu vậy thì bà làm tôi thật thích thú đấy.- Nhưng xin ông hãy biết cho rằng tôi chỉ thấy, từ xa thôi nhé. Chắc ông đã rõ là hoàng đế Ai Cập có một tể tướng tên là Schemseddin Mohammed, ông này có một người con gái khoảng hai mươi xuân. Đó là một cô gái đẹp nhất và hoàn hảo nhất mà chưa từng có một người nào nghe nói. Hoàng đế nghe tiếng đồn về cô gái, cho triệu tể tướng cha cô tới và bảo ông:- Ta nghe nói nhà ngươi có một người con gái đến tuổi lấy chồng, ta muốn cưới cô đó, liệu nhà ngươi có đồng ý gả cho ta không?Tể tướng bất ngờ về lời cầu hôn đó, bối rối một chút, nhưng không bị loá mắt. Nếu phải là những ai đó khác thì đã mừng rơn mà vội vã nhận lời, nhưng ông thì lại trả lờI rất ôn tồn nhưng kiên quyết:Tâu bệ hạ, tôi tự xét là không xứng đáng được bệ hạ chiếu cố, và xin Người rộng lượng tha thứ cho nếu tôi không thể làm vui lòng Người được. Chắc bệ hạ cũng đã biết tôi có một em trai là Noureddin Ali cũng như tôi, có vinh dự được là một trong các tể tướng của Người. Anh em chúng tôi đã có sự xích mích và đó là nguyên nhân về sự bất ngờ mất tích của chú ấy và từ đó tôi chẳng được có tin tức gì cách đây bốn hôm, tôi có nghe thấy tin là chú ấy đã mất ở Balsora trên cương vị là tể tướng của vương quốc đất nước đó. Em tôi để lại một con trai. Trước đây chúng tôi đã cùng nhau cam kết là sẽ gả con cho nhau. Tôi chắc là em tôi chết trong ý muốn là tỉến hành cuộc hôn nhân đó. Vì vậy về phía mình, tôi muốn giữ trọn lời hứa và thiết tha xin hoàng thượng cho phép làm việc đó. Triều đình ta có rất nhiều các đại thần cũng có con gái như tôi và NgườI chẳng thiếu nơi để gia ân mưa móc.Hoàng đế Ai Cập tức gịận đến cùng cực tể tướng Schemseddin Mohammed...''. Scheherazade ngừng lời vì ánh sáng ban mai đã lấp ló sau mành. Đêm hôm sau, nàng lại tiếp ngọn nguồn câu chuyện, nói với hoàng đế Ấn Độ, vẫn là lời của tể tướng Giafar kể với hoàng đế Haroun Alraschid.
Chương 17
Hoàng đế Ai Cập, bị bẽ mặt vì sự từ chối và sự táo bạo cả gan của Schemseddin Mohammed, không sao kìm nén được giận dữ, bảo viên tể tướng của mình:
Có phải nhà ngươi đáp lại lượng cả của ta đã hạ mình đến mức kết thân với ngươi như thế không? Ta sẽ phải báo thù về việc nhà ngươi đã dám so sánh ta với một kẻ khác và ta nguyền cho con gái nhà ngươi chỉ có thằng chồng không ngoài một tên nô lệ xấu xí nhất trong tất cả nô lệ của ta.
Nói xong, hoàng đế tàn nhẫn đuổi tể tướng ra ngoài. Ông này đi về nhà đầy vẻ sượng sùng và thấy vô cùng khổ nhục.
Cũng ngay hôm đó, nhà vua cho gọi một trong những tên giám mã của mình tới. Tên này gù cả lưng, cả ngực và xấu tới mức ma chê quỉ hờn. Sau khi lệnh cho Schemseddin Mohammed phải chấp nhận cho con gái mình kết hôn với tên nô lệ ghê tởm này, hoàng đế cho lập tờ giá thú và bắt mọi người ký kết trước mặt mình. Tất cả công việc sửa soạn cho đám cưới kỳ cục này đã hoàn tất nhanh chóng. Trong lúc tôi nói đây thì tất cả các nô lệ của các quan chức trong triều đình Ai Cập đều tề tựu trước cửa một nhà tắm, mỗi đứa một ngọn đuốc cầm trong tay. Chúng chờ cho đến lúc tên giám mã gù tắm rửa xong, đi ra thì đưa rước đến nhà cô dâu. Ở đó nàng cũng đã trang điểm xong xuôi. Trong lúc mà tôi rời thành Caire, thì những thị nữ đã tập trung lại, chuẩn bị đưa cô dâu, với tất cả những đồ trang trí cho đêm tân hôn, tới phòng mà ở đó nàng phải đợi tiếp đón thằng gù. Tôi đã nhìn thấy nàng và cam đoan với ông là không ai được trông thấy nàng mà không bị hút hồn.
Khi bà tiên ngừng lời, vị thần linh bảo:
- Dù bà có ca ngợi thế nào chăng nữa thì tôi cũng không tin là nhan sắc của cô gái đó lại có thể vượt được vẻ đẹp khả ái của chàng trai này.
- Tôi chẳng muốn cãi nhau với ông làm gì - Bà tiên bảo - Nhưng tôi cũng phải công nhận là anh ta xứng đáng được kết hôn với cô gái duyên dáng mà người ta ép gả cho anh gù đấy. Tôi thấy là chúng ta sẽ làm được một việc rất hay, rất xứng đáng với chúng ta là, chống lại sự bất công của hoàng đế Ai Cập. Chúng ta cho chàng trai này thế chỗ của tên nô lệ kia.
- Bà nói phải đấy - Vị thần hào hứng nói - Bà có biết không, tôi rất tán thành cái ý kiến chợt nảy ra đó của bà. Tôi đồng ý việc làm chệch hướng sự trả thù của hoàng đế Ai Cập đi, an ủi một người cha sầu khổ, trả về cho con gái ông ta cái hạnh phúc đang tưởng là sự bất hạnh. Tôi có đầy đủ khả năng để thực hiện kế hoạch này và tin rằng bà cũng không chút nào tiếc sức. Tôi xin nhận việc chuyển cậu ta về thành Caire mà không làm cho thức giấc, còn bà muốn để cậu ta ở đâu tuỳ ý khi chúng ta bắt đầu thi hành công việc.
Sau khi tiên nữ và thần linh bàn bạc xong tất cả những gì cần làm, vị thần linh nhẹ nhàng xốc Bebređdin, bay vút lên tầng không nhanh như gió và đặt chàng nằm trước cửa một công sở, bên cạnh nhà tắm mà thằng gù sắp đi ra với cả một tốp đông nô lệ đang đứng đợi
Bebreddin Hassan lúc này thức giấc, vô cùng ngạc nhiên là thấy mình ở giữa một thành phố xa lạ. Chàng muốn kêu lên để hỏi xem mình ở đâu, nhưng vị thần đập khẽ lên vai chàng và bảo không được lên tiếng. Rồi ông đưa cho chàng một cây đuốc và bảo:
- Hãy xen vào đám đông mà anh trông thấy túm tụm ở trước cửa nhà tắm kia và cùng đi với họ cho tới lúc vào một phòng mà ở đó đang tổ chức hôn lễ. Chú rể là một người gù mà anh dễ dàng nhận thấy. Anh hãy đứng vào bên phải y và đi vào phòng, từ lúc này anh phải luôn thò tay vào túi tiền đầy đồng sequin ở trước ngực đó phân phát cho những nhạc công, những vũ nữ và vũ công đang dạo nhạc và nhảy múa. Khi đã vào hẳn trong phòng, chớ quên phân phát tiền cho cả các nữ nô lệ đang xúm quanh cô dâu khi họ đến gần anh. Hãy làm tất cả những gì ta bảo với sự nhanh trí lanh lẹ tháo vát của mình, chớ tỏ ra ngạc nhiên về bất cứ cái gì, không sợ bất cứ ai, vì anh đang được một sức mạnh siêu nhiên hỗ trợ.
Chàng thanh niên Bebreddin, nhẩm thuộc lòng tất cả những gì phải làm rồi tiến lại gần cửa nhà tắm. Việc đầu tiên là châm đuốc vào cây đuốc đang cháy của một tên nô lệ, rồi đứng lẫn vào bọn chúng làm như mình thuộc về một lãnh chúa nào đó ở thành Caire, bước đi cùng với chúng theo sau anh gù vừa ra khỏi nhà tắm trèo lên lưng một con ngựa trong chuồng ngựa của hoàng đế.
Ánh sáng ngày đã bừng lên làm Scheherazade lặng im và đêm sau nàng lại kể tiếp:
Tâu hoàng thượng - Nàng nói - Tể tướng Giafar vẫn kể tiếp câu chuyện đó với hoàng đế Haroun Alraschld.
''Bebreddin đi bên cạnh những nhạc công, vũ công và vũ nữ ngay phía trước anh chàng gù, thỉnh thoảng lại thò tay vào túi lấy ra hàng nắm đồng sequin phân phát cho họ. Vì anh làm cái việc hào phóng này với thái độ thật nhũn nhặn và dáng điệu vui tươi nên tất cả mọi ngườI nhận quà đều liếc nhìn anh và khi thấy rõ mặt thì không muốn rời mắt nhìn nơi khác nữa vì họ thấy anh thật điển trai ít có.
Đã tới cổng dinh tể tướng Schemseddin Mohammed, bác ruột của Bebreddin Hassan. Ông này chắc không sao ngờ được là cháu mình lại ở đây, gần ông như vậy. Những lính cận vệ, để ngăn cản tình trạng lộn xộn có thể xảy ra, đã chặn tất cả những nô lệ tay cầm đuốc lại không cho vào trong. Chúng đẩy cả Bebreddin Hassan lùi lại. Nhưng những nhạc công đã bước chân qua bậc cửa đang mở dừng lại phản đối. Họ bảo họ sẽ không đi vào nếu không để cho chàng trai này vào cùng với họ. Họ bảo:
- Chàng trai này không phải cùng trong bọn nô lệ, cứ nhìn anh ta thì biết. Chắc đó là một người khách lạ trẻ tuổi, tò mò muốn biết ở thành phố đám cưới được tổ chức ra sao mà thôi.
Vừa nói họ vừa kéo anh đứng vào giữa và cùng đi vào chẳng thèm đếm xỉa đến bọn lính. Họ giật lấy cây đuốc của anh đưa cho một người đầu tiên vừa từ trong nhà đi ra và sau khi đưa anh vào phòng, họ đặt anh đứng vào bên tay phải anh chàng gù đang ngồi trên một cái ngai được trang trí rất đẹp bên cạnh chiếc ngai của cô dâu con gái tể tướng.
Cô dâu được trang sức lộng lẫy nhưng mặt buồn rười rượi, một nỗi buồn chết chóc mà người ta không khó đoán ra được nguyên nhân khi nhìn thấy bên cạnh nàng một người chồng rất dị dạng, khó có thể nói đến chuyện yêu đương. Hai chiếc ngai của đôi vợ chồng khập khiễng này đặt chính giữa một chiếc sập to. Các bà mệnh phụ của triều đình và của thành phố ngồi hai bên, thấp hơn tuỳ theo thứ bậc, tất cả đều ăn vận sang trọng và lộng lẫy trông vô cùng ngoạn mục. Mỗi bà cầm trong tay một cây nến to đang cháy sáng.
Khi họ nhìn thấy Bebreddin Hassan bước vào, tất cả đều thì thào thán phục, nhìn ngắm vóc dáng thân hình chàng, khuôn mặt khôi ngô tuấn tú của chàng không rời mắt. Khi chàng đặt mình ngồi xuống, thì không phải là một người mà hầu như tất cả lần lượt bỏ chỗ ngồi tới gần chàng để nhìn và khi trở về lại chỗ ngồi, không mấy ai là không thấy lòng mình có chút nào rung động. Sự cách biệt khác nhau giữa Bebreddin Hassan và tên giám mã gù có bộ mặt tởm lợm đã gây nên tiếng xì xào trong đám đông:
- Chính là chàng thanh niên đẹp trai này mới đáng là chú rể chứ chẳng phải là cái anh chàng gù bẩn thỉu kia.
- Các bà không dừng lại ở đó mà còn cất tiếng làu bàu chê trách hoàng đế đã dựa vào quyền uy tuyệt đối để làm cuộc hôn phối quái gở giữa cái xấu và cái đẹp này. Họ còn mỉa mai xỉ vả nhiếc móc anh chàng gù làm cho gã hoang mang bối rối khiến cử toạ rất thích thú hò hét đôi khi làm đứt quãng cả giai điệu nhạc đang tấu trong phòng cưới. Cuối cùng, những nhạc công bắt đầu lại bản hợp xướng và những thị nữ chuyên việc thay đổi y phục cho cô dâu đến gần nàng'
Đến đây Scheherazade dừng lại vì thấy trời đã sáng. Đêm sau, nàng tiếp tục câu chuyện đã bề dở đêm hôm trước.
Tâu hoàng thượng - Scheherazade nói với hoàng đế Ấn Độ - Chắc là bệ hạ không quên là tể tướng Giafar vẫn đang kể chuyện hầu hoàng đế Haroun Alraschid:
''Cứ mỗi một lần - Ông nói tiếp - cô dâu thay đổi y phục, nàng lại rời chỗ ngồi, theo sau là các thị nữ, đi qua mặt anh chàng gù mà chẳng thèm nhìn nó mà lại tới trước mặt Bedreddin Hassan để cho anh nhìn những đồ trang sức mới. Thế là Bedreddin Hassan, nhớ lời dặn dò của vị thần, không quên cho tay vào tui tiền, móc ra hết nắm này đến nắm khác những đồng sequin phân phát cho các thị nữ tuỳ tùng cô dâu. Anh cũng không quên những nhạc công và vũ công, ném rào rào cho họ. Thật là thích thú nhìn thấy họ xô đẩy nhau để cúi xuống nhặt những đồng tiền lăn lóc trên sàn nhà. Họ nhìn anh vẻ cảm ơn và làm dấu hiệu là họ muốn cô dâu trẻ kia thuộc về anh chứ không phải thuộc về anh chàng gù kia. Những bà mệnh phụ và các thị nữ xung quanh cô dâu cũng nói ra miệng với anh như vậy chẳng cần biết là gã gù kia có nghe được hay không. Và họ còn làm hàng ngàn trò nghịch ngợm chế giễu, làm cả cử toạ vui thích.
Khi lễ thay y phục nhiều lần đã kết thúc, những nhạc công ngừng chơi và vừa lút ra ngoài vừa ra hiệu cho Bedreddin Hassan cứ ở lại. Các bà cũng làm vậy và rút ra sau họ với tất cả những người không phải là người trong nhà. Cô dâu đi vào một căn buồng, có các thị nữ theo vào để hầu nàng cởi bỏ y phục. Lúc đó ở lại trong phòng chỉ còn người giám mã gù, Bedreddin Hassan và một vài đầy tớ. Anh chàng gù, vô cùng tức giận Bedreddin đã ám y suốt buổi, lườm chàng nói:
- Và còn mày, còn chờ gì nữa? Vì sao mày không rút đi như những người khác? Cút đi!
Bedreddin thấy chẳng có một cớ gì để ở lại đó, nên thấy thật lúng túng cũng vội bước ra. Nhưng chưa ra khỏi tiền sảnh thì cả vị thần và bà tiên ở đâu nhô ra chặn chàng lại:
- Này, anh đi đâu vậy? - Vị thần hỏi - Hãy ở lại? Tên gù không còn ở trong phòng nữa đâu, nó đã ra ngoài vì có việc gì đó. Anh hãy trở lại và lẻn vào buồng cô dâu. Khi chỉ còn anh và nàng, anh hãy mạnh dạn nói anh mới là chồng của nàng, chẳng qua đức vua đưa tên gù ra chỉ để làm trò vui mà thôi. Và để cho tên này nguôi nguôi đi, anh bảo sửa soạn cho nó một đĩa kem thật ngon trong chuồng ngựa ấy. Sau đó hãy nói với nàng tất cả những gì phù hợp đến trong đầu anh để trấn an nàng. Làm tất cả những cái đó đối với anh hiện nay chẳng có gì là khó, còn nàng thì sẽ vui thích vì đã bị lừa một cách thật dễ chịu. Tuy vậy chúng ta sẽ phải lệnh cho tên gù không được vào ngăn trở anh qua đêm với nàng vì đó là vợ anh chứ không phải là vợ hắn.
Trong khi vị thần khuyến khích động viên Bedreddin và dạy cho chàng phải làm gì, anh chàng gù đúng là đã ra khỏi phòng cưới. Vì vị thần linh đã vào, biến thành một con mèo đen gào lên thật khủng khiếp. Gã gù vỗ tay xuỵt đuổi, nhưng con mèo không những không chạy đi mà còn đứng dựng lên mắt toé tia lửa đỏ ngang nhiên nhìn gã và lại còn gào to hơn trước đồng thời phình to lên bằng con lừa con. Gã gù kinh hoàng kêu cứu nhưng sợ quá hàm cứng lại chỉ há mồm mà không ra tiếng. Không để cho y hoàn hồn, vị thần hoá thành một con trâu mộng và dưới lất con vật đó, nói thành tiếng: ''Tên gù đê mạt kia?'' làm cho y càng kinh hoảng bội phần. Gã nằm lăn xuống sàn, đưa vạt áo lên che đầu che mặt để khỏi phải trông thấy con vật ghê gớm đó. Gã cất tiếng run run:
- Bẩm đại vương, chúa tể của loài trâu, ngài muốn gì ở tôi?
- Vô phúc cho mi- Vị thần bảo- Mi dám bạo gan cưới người tình của ta ư?
- Ôi! Bẩm đại vương - Gã gù vội thưa - Cầu xin ngài đại xá; chẳng qua là vì tôi quá ngu dốt cho nên mới phạm tội với ngài. Tôi đâu có biết là người phụ nữ này lại có nhân tình là một ngài trâu. Xin ngài cứ ra lệnh, tôi thề là sẵn sàng tuân phục ngài.
- Mi sẽ phải chết - Vị thần nói - Nếu mi ra khỏi đây hoặc mi không câm miệng cho đến khi mặt trời lên. Nếu mi mở miệng nói ra chỉ một tiếng thôi ta sẽ đập nát đầu mi. Sáng ra, ta sẽ cho phép mi rời khỏi nhà này, nhưng phải chạy đi thật mau không được ngoái đầu lại, nếu mi còn cả gan quay lại thì sẽ mất mạng đó''.
Nói xong câu cuối này, vị thần hiện thành người, nắm lấy hai bàn chân gã gù, dựng ngược y lên, đầu chạm đất, để người sát dính vào tường.
- Nếu mi nhúc nhích - Ông nói thêm - trước khi mặt trời lên, như ta đã nói, ta sẽ tóm lấy cẳng mi, quật mi vào tường này cho đầu mi vỡ thành nghìn mảnh.
Ta quay lại với Bedreddin Hassan, chàng được vị thần khuyến khích động viên và được sự có mặt của bà tiên khích lệ, chàng trở lại phòng cưới và lẻn vào buồng cô dâu, ngồi chờ thắng lợi của kế hoạch. Một lát sau cô dâu đi vào do một bà già vẻ phúc hậu dắt tay đưa dẫn. Bà dừng lại trước cửa buồng, khuyến khích người chồng làm tất nhiệm vụ của mình, chẳng nhìn xem đó là gã gù hay một người nào khác. Rồi sau đó bà khép cửa lại và nhẹ nhàng rút lui.
Người vợ trẻ cực kỳ kinh ngạc chờ nhìn thấy gã gù thì lại là Bedreddin Hassan đi tới ra mắt nàng với cử chỉ duyên dáng lịch thiệp nhất trần đời.
- Ồ này, anh bạn! - Nàng hỏi chàng - Giờ này mà anh hãy còn ở đây kia à? Chắc hẳn anh là bạn của chồng tôi.
- Không phải đâu, thưa tiểu thư- Bedreddin đáp – Tôi là người khác hẳn với gã gù mạt hạng kia.
- Nhưng - Nàng nói - Nói vậy chẳng phải là anh đã bêu xấu chồng tôi ư?
- Hắn, chồng nàng! Thưa tiểu thư, nàng lại có thể đinh ninh như thế sao? Chớ có lầm lẫn nữa. Nhan sắc tuyệt vời không thể đem hi sinh cho một kẻ đáng khinh bỉ nhất trần đời như thế được. Chính tôi đây, thưa tlểu thư, là người hạnh phúc được dành chó nhan sắc đó. Đức hoàng đế đã muốn gây một trận cười vui với tể tướng cha nàng nên đã dàn dựng ra màn kịch này. Chính Người đã chọn tôi là người chồng đích thực của nàng. Nàng chắc là đã nhận thấy các bà mệnh phụ, các nhạc công, vũ nữ, các thị nữ và tất cả gia nhân của nàng đều vô cùng thích thú tham dự vào vở hài kịch này. Chúng tôi đã tống cổ gã gù đi và lúc này hắn đang nhồm nhoàm đĩa mứt kem ngon lành trong chuồng ngựa và nàng có thể chắc chắn là hắn chẳng còn bao giờ xuất hiện trước đôi mắt đẹp của nàng nữa.
Nghe thấy thế, con gái tể tướng, như dở sống dở chết khi bước vào phòng hôn phối, lúc này rạng rỡ mặt mày, vẻ vui tươi đột khởi càng làm cho sắc đẹp lộng lẫy thêm khiến Bedreddin sững sờ say đắm.
- Thật thiếp không chờ đợi - Nàng nói - một sự bất ngờ vô cùng dễ chịu như thế này. Thế mà thiếp đã cho mình sẽ bị đầy đoạ suốt đời. Hạnh phúc của thiếp lại càng được tăng lên gấp bội khi thiếp được có chàng, một người vô cùng xứng đáng với tâm tình trìu mến của thiế
Nói xong, nàng tự mình cởi bỏ y phục và lên giường nằm. Về phía Bedreddin Hassan, sung sướng thấy mình được sở hữu một con người biết bao duyên dáng yêu kiều, cũng nhanh chóng trút bỏ áo quần. Chàng vắt chúng lên thành ghế, trùm lên trên túi tiền mà người Do thái trao cho, hầu như hãy còn đầy dù đã nhiều lần móc ra để phân phát cho những người có mặt trong hôn lễ. Chàng cũng bỏ cả khăn đội đầu để đội chiếc mũ ngủ mà người ta đã chuẩn bị cho gã gù. Chàng lên giường chỉ với một áo lót và chiếc quần đùi”. Bình minh buộc Scheherazade ngừng kể. Đêm sau, được đánh thức vào giờ thường ìệ, nàng nhớ lại đoạn bỏ dở đêm trước rồi tiếp tục kể:....
Khi cặp người yêu đã bên nhau ngủ say - tể tướng Giafar kể tiếp - vị thần tới gặp tiên nữ, nói với bà là đã đến lúc hoàn tất công việc đã được bắt đầu và được dẫn đắt đến lúc này thật là hoàn hảo.
- Chúng ta đừng để cho ánh sáng ban ngày sắp ló ra rồi làm lộ công việc - Ông nói - Bà hãy đi bê cậu thanh niên lên, đừng làm cho cậu ta tỉnh thức. Bà tiên đi vào buồng đôi tân hôn đang ngủ rất say, nhẹ nhàng nhấc Bedreddin Hassan lên vẫn để cậu ta y nguyên như lúc đó nghĩa là vẫn chỉ có áo lót và quần đùi. Bà tiên cùng với vị thần mang chàng bay rất nhanh tới cổng thành Damas đất nước Syrle, đúng lúc các giáo sĩ đang cất to tiếng gọi dân chúng thức dậy để cầu kinh buổi sáng. Bà tiên nhẹ nhàng đặt Bedreddin xuống nền gạch cạnh cổng thành rồi cùng với vị thần bỏ đi.
Lúc các cổng thành bắt đầu mở, dân chúng đã tập trung rất đông để chờ ra ngoài, cực kỳ kinh ngạc khi nhìn thấy Bedreddin nằm trên nền đất chỉ có áo lót và quần đùi trên người. Một người nói: ''Chắc là anh ta vội vàng ra khỏi nhà nhân tình nên chẳng còn thời gian mặc áo quần ngoài”. Một người khác bảo: ''Hãy thử xem, vì sao mà hắn lại nằm tênh hênh ra đây? Hẳn là vui nhậu nhẹt với bạn bè đến gần trọn đêm, chắc là đi ra ngoài để làm cái việc cần rồi vì say quá, đáng lẽ trở vào thì lại đi ra đây và cơn buồn ngủ chợt đến thế là nằm luôn ra thôi''. Rồi người này người khác đoán thế nọ thế kia nhưng chẳng ai biết rõ được chính xác vì sao chàng ta lại ở đó. Một làn gió nhẹ thổi lật vạt áo trước để mọi người nhìn thấy cả một mảng ngực trắng trẻo mịn màng. Tất cả đều kinh ngạc trước cái phần cơ thể rất đẹp và cân đối đó liền kêu lên thán phục làm chàng trai thức giấc. Chàng cũng ngạc nhiên không kém họ, thấy mình nằm trước cổng một thành phố chưa bao giờ đặt chân tới và cả một đám đông người vây quanh chăm chú ngắm nhìn mình.
- Các ông ơi - Chàng nói vớỉ họ- Xin làm ơn cho biết tôi đang ở đâu và các ông muốn gì ở tôi vậy?
Một người trong bọn họ cất tiếng đáp:
- Này chàng trai, cửa thành vừa mở, chúng tôi đi ra thì thấy anh đang nằm ở đó. Thấy lạ chúng tôi dừng bước lại xem. Có phải là anh đã ngủ suốt đêm tại đây? Và anh có biết đây là một trong các cổng của thành phố Damas không?
- Cổng thành Damas! - Bedreddin thốt lên - Các ông định trêu tôi hay sao đấy. Lúc lên giường ngủ, tôi ở thành phố Caire kia mà.
Nghe thấy chàng nói thế, một vài người động lòng thương cảm nói thật đáng tiếc là một thanh niên tuấn tú như vậy mà lại bị loạn trí, rồi bỏ đi.
- Con của ta ơi! - Một ông già vẻ hiền lành nói – Con không thấy là sáng nay con đang ở Damas thì tối qua con ở Caire sao được? Thật quá vô lý!
- Đúng là như vậy cụ ạ - Bedreddin cãi - và con xin thề là suốt ngày hôm qua con còn ở Balsora kia.
Vừa dứt lời, tất cả mọi người đều cười rộ lên và kêu to: Một thằng điên1 Đúng là một thằng điên?
Một vài người tỏ vẻ thương tiếc cho sự trẻ trung của chàng và một người đứng tuổi trong bọn bảo anh:
- Con của ta ơi! Chắc là con loạn trí rồi. Con chẳng nghĩ gì khi nói cả. Con thử nghĩ xem có thể được không khi ban ngày thì ở Balsora, tối ngủ ở Calre và sáng hôm sau đã ở Damas rồi? Hẳn là con chưa được tỉnh táo đâu, con hãy cố nhớ lại đi?
- Những điều tôi vừa nói - Bedreddin lại nói - đều hoàn toàn là sự thật. Tối hôm qua tôi cưới vợ ở tại thành phố Caire.
Tất cả mọi người đã cất tiếng cười lúc nãy lại cười rộ lên khi nghe chàng nói câu vừa rồi.
- Hãy cẩn thận đấy - Vẫn người đàn ông đứng tuổi bảo chàng - Đúng là cậu nằm mơ thôi và ảo ảnh còn đọng lại trong óc đó.
- Tôi biết rõ những gì tôi nói - Chàng cãi – Chính ông hãy thử nghĩ xem: trong chiêm bao làm sao tôi lạI tới Caire được mà rõ ràng là tôi ở đó. Lần lượt bảy lần người ta dẫn đến trước mặt người vợ của tôi bảy lần thay đổi trang phục và cũng ở đó tôi nhìn thấy gã gù ghê tởm mà người ta định đưa đến cho nàng làm chồng. Xin hãy cho tôi biết là áo dài, khăn đội đầu và cả túi tiền của tôi ở đâu rồi
Mặc dù chàng cố gắng nói cho họ biết tất cả những cái đó đều là có thật, nhưng mọi người nghe chỉ cười làm cho chàng cũng hoang mang đến mức không biết nghĩ như thế nào về mọi chuyện xảy ra với mình''.
Ánh mặt trời bắt đầu chiếu sáng ngự phòng của Schahrlar làm Scheherazade im bặt. Và đêm sau nàng kể tiếp như thế này:
- Tâu bệ hạ - Nàng nói - Sau khi Bedredđin cứ khăng khăng là những gì chàng nói đều thật, chàng đứng lên để đi vào thành phố. Mọi người đi theo sau kêu to: ''Một thằng điên! Một thằng điên!'' Thế là các cửa sổ, cửa ra vào các nhà mở toang ra và những cái đầu nhìn, ngó. Một số nhập với bọn người vây quanh Bedreddin và cũng la lên như họ: ''Một thằng điên'' mà chẳng hiểu chuyện gì. Bedredđin lúng túng không biết xoay sở ra sao thì vừa đi đến trước một cửa hàng bánh kẹo, anh bèn bước vào trong để tránh bọn người đi theo anh la ó
Người chủ cửa hàng bánh kẹo này vốn là trùm của một đám lưu manh chuyên trấn lột khách đi đường nhưng từ khi đến lập nghiệp ở Damas, y chưa gây tai tiếng gì và cũng tỏ ra chẳng sợ một ai biết gốc tích của y. Vì vậy chỉ một cái lừ mắt của y, là cả đám đông đi theo Bedreddin vội vàng tản đi. Chủ cửa hàng bánh kẹo khi thấy chẳng còn ai quấy rầy nữa bèn quay sang hỏi Bedreddin chàng là ai, tới Damas có việc gì. Bedreddin không giấu anh ta về xuất thân, về cái chết của tể tướng cha mình. Chàng nói tiếp là bằng cách nào anh rời Balsora, và không rõ vì sao đang nằm ngủ gục bên mồ cha khi thức dậy thì lại thấy mình ở Caire, ở đây chàng đã kết hôn với một thiếu nũ rất đẹp. Cuối cùng chàng thấy vô cùng ngạc nhiên thấy sáng nay mình ở Damas. Tất cả những chuyện kỳ lạ này chàng đã suy nghĩ mãi mà không sao hiểu được.
- Chuyện của cậu đúng là rất lạ kỳ - Bác hàng bánh kẹo bảo chàng - Nhưng nên nghe theo lời khuyên của tôi là chớ nên hở ra cho bất cứ ai biết tất cả những gì cậu vừa kể với tôi đó Cậu hãy kiên nhẫn chờ đợi vận may sẽ tới. Cậu có thể ở lại đây với tôi tới lúc đó và vì tôi không có con, tôi sẵn sàng nhận cậu làm con nuôi nếu cậu đồng ý. Sau khi đã là con của tôi rồi thì cậu thả sức đi lại trong thành phố, không sợ kẻ nào xúc phạm nữa.
Dù là việc nhận con nuôi bác hàng bánh kẹo cũng chẳng lấy gì làm vinh hạnh đối với con trai một tể tướng, nhưng với tình thế lúc này thì có lẽ đây là biện pháp tốt hơn cả nên anh đã vui vẻ nhận lời bác hàng bánh kẹo tốt bụng. Ông này cho anh ăn mặc tử tế, chọn người làm chứng và tuyên bố trước nhà chức trách là nhận chàng làm con nuôi. Bedreddin từ lúc này ở cùng cha nuôi dưới cái tên ngắn gọn là Hassan và bắt đầu tập làm các loại bánh ngọt.
Trong thời gian tất cả những chuyện này diễn ra ở Damas, thì tiểu thư con gái của Schemseddin Mohammed ở Caire thức giấc, không thấy Bedreddin nằm cạnh thì cho là chàng dậy có việc gì đó và vì không muốn làm đứt giấc ngủ của nàng mà dậy thật nhẹ nhàng. Nàng ngồi chờ và thấy tể tướng Schemseddin Mohammed, cha nàng đi vào, rất xúc động vì tưởng hoàng đế Ai Cập đã làm nhục mình nên đến để cùng con khóc than cho số phận hẩm hiu. Nàng hôn tay cha và đón tiếp ông với vẻ rất hài lòng khiến ông sửng sốt vì trái hẳn với điều ông chờ đợi là phải thấy con gái chan hoà nước mắt và đau lòng cũng như ông.
- Quân khốn kiếp? - Ông giận dữ mắng con - Mày còn phởn phơ được như thế ư? Sau một sự hi sinh gớm ghiếc vừa phải chịu đựng mà mày còn phấn khởi vui tươi vậy sao?...''
Scheherazade tới đây thì ngừng kể vì,đã rạng sáng. Đêm sau, nàng kể tiếp và nói với hoàng Đế Ấn Độ như sau:
- Tâu hoàng thượng, đây vẫn là tể tướng Giafar tiếp tục câu chuyện về Bedreddin Hassan:
“Khi cô dâu mới - Ông kể - thấy cha mắng vì đã tỏ ra sung sướng khi thấy ông tới, nàng nói:
Thưa cha, xin cha đừng mắng con một cách bất công như vậy, không phải là con đã lấy cái gã gù mà con ghét như đất đổ đi, cái tên quỉ sứ đó làm chồng đâu. Tất cả mọi người đều làm cho gã bẽ bàng mà phải trốn đi đâu không rõ và thay thế vào đó là một chàng trai tuyệt vời, người chồng đích thực của con.
- Con kể với cha chuyện hoang đường gì vậy? - Tể tướng đột ngột ngắt lời con - Sao? Gã gù, đêm qua không ngủ với con ư?
- Không, thưa cha - Nàng đáp - Con chẳng ngủ cùng ai ngoài chàng trai mà con vừa nói đó. Chàng có đôi mắt to và đôi mày rậm đen nhánh.
Nghe nói vậy, tể tướng không nhịn được, nổi giận lôi đình.
- A? Quân độc ác! - Ông bảo nàng - Mày muốn cha phát điên lên vì những điều mày ,vừa nói đó ư?
- Chính cha, cha ơi? - Nàng nói- Chính cha làm con phát điên lên vì tính hoài nghi của cha thì có.
- Vậy là không có chuyện - Tể tướng dịu giọng – cái thằng gù đó...
- Ôi cha! Hãy để cái thằng gù đó lại đi? - Nàng vộI vã ngắt lời - Mồ cha cái thằng gù? Sao cứ phải nghe nói đến nó mãi thế? Con xin nhắc lại với cha một lần nữa - Nàng thêm - Con chưa từng qua đêm với nó mà với người chồng yêu quí mà con đã nói với cha rồi. Chàng có lẽ sắp về đấy .
Schemseddin Mohammed bước ra khỏi buồng đi tìm nhưng không thấy ai mà lại vô cùng kinh ngạc gặp anh chàng gù, đầu chạm đất, chân chổng lên cao, ở nguyên tư thế mà vị thần đã đặt y giáp bức tường.
- Cái này là thế nào đây? - Ông hỏi y - Ái đã làm anh trong tình trạng này?
Anh chàng gù nhận ra tể tướng, đáp:
- A! A! Thế ra là ngài đã muốn gả cho tôi làm vợ cô tình nhân của một ông trâu, người yêu của một hung thần? Tôi chẳng phải ngu ngốc đâu, ngài lừa tôi sao được?
schehérazade kể tới đây thì nhìn thấy ánh sáng ban mai lọt qua khe cửa, không thể kể thêm được nữa. Đêm sau, nàng kể tíếp. câu chuyện chàng Bedređđln Hassan và nói với hoàng đế Ấn Độ:
- Tâu bệ hạ, tể tướng đầu triều Giafar tiểp tục kể: “Schemseddin Mohammed cho là gã gù hoảng loạn mà nói bậy bạ, liền bảo:
- Nhà ngươi hãy hạ chân xuống, ra khỏi đây đi!
- Tôi chẳng dám đâu - Gã gù nói - Nếu mặt trời chưa lên. Ngài có biết không, tối qua ở đây, một con mèo đen xuất hiện trước mặt tôi, bỗng chốc nó vụt to lên bằng con trâu. Tôi không quên lời ông ấy nói đâu. Vì vậy ngài cứ đi mà làm việc của ngài, hãy để mặc tôi ở đây.
Tể tướng, đáng lẽ đi ra thì lại nắm lấy hai chân gã gù bắt y đứng lên. Gã này ba chân bốn cẳng chạy ra khỏi phòng không dám ngoảnh đầu lại. Y tới cung điện bệ kiến hoàng đế Ai Cập, làm cho nhà vua cười đến vỡ bụng khi nghe y kể chuyện y bị vị thần đối xử như thế nào.
Schemseddin Mohammed quay trở lại buồng con gái, càng kinh ngạc và càng hoang mang về những gì ông thấy và càng muốn hiểu rõ.
- Này, con gái của cha - Ông bảo nàng - Con không thể nói rõ hơn về cái chuyện nó làm cho cha chẳng còn hiểu ra sao nữa ư?
- Cha ơi - Nàng đáp - Con không sao có thể nói gì cho cha rõ hơn tất cả những gì con đã kể với cha. Nhưng mà đây - Nàng thêm - là quần áo của chồng con mà chàng vắt trên lưng ghế đó. Có thể chúng sẽ làm cho cha rõ hơn điều gì chăng.
Nói rồi, nàng đưa cho ông cái khăn đội đầu của Bedreddin. Ông cầm lấy và xem xét kỹ từ trong ra ngoài.
- Cha thấy như - Ông nói - là khăn đội đầu của một tể tướng, kiểu ở Mossoul.
Nhưng còn thấy có một cái gì cồm cộm giữa quãng vải lót, ông bảo đưa chiếc kéo và sau khi bật những đường chỉ khậu, ông thấy một xếp giấy gấp. Đó là quyển vở mà Noureddin Ali trao cho Bedreddin, con trai ông, trước khi nhắm mắt mà chàng giấu vào đó để được bảo vệ chu đáo. Tể tướng mở quyển vở và nhận thấy chữ viết của Noureddin Ali, em trai ông. Ông đọc dòng tiêu đề: ''Đề cho con trai tôi Bedreddin Hassan''. Chưa kịp nghĩ ngợi gì cả thì con gái ông lại đặt vào tay ông túi tiền mà nàng thấy để dưới đống áo quần. Ông cũng mở ra xem và thấy đầy những đồng sequin, và như tôi đã nói là mặc dù Bedreddin Hassan rất hào phóng, móc ra từng vốc phân phát cho mọi người nhưng túi vẫn đầy, đó là nhờ vào sự chăm sóc của vị thần linh và bà tiên. Tể tướng đọc trên tờ nhãn của túi tiền: “Một ngàn đồng sequin của người Do Thái Isaac''. Và bên dưới: ''Trao cho Bedreddin Hassan để mua cả chuyến hàng trên con tàu thứ nhất cập bến trong cả đoàn tàu thuộc về Noureddin Ali, người cha anh đã quá cố'' Vừa đọc xong tờ nhãn, tể tướng kêu to lên một tiếng và ngất lịm.”
Schehẹrazade muốn kể tiếp nhưng trời sáng mất rồi. Hoàng đế Ấn Độ đứng lên nhủ thầm: nhất định phải nghe hết câu chuyện này.
Đêm sau, Scheherazade tiếp tục câụ chuyện, nói vớI Schahrlar
“- Tâu bệ hạ, tể tướng Schemseddin Mohammed được con gái và các thị nữ mà nàng cho gọi tới săn sóc tích cực đã hồi tỉnh. Ông bảo con:
- Con gái của cha. Con đừng lấy làm ngạc nhiên vì sao cha lại ngất đi như vậy. Làm sao mà cha lại không quá xúc động được khi nguyên nhân của nó là một sự việc xảy ra khó mà tưởng tượng được. Người chồng đã qua đêm cùng với con là em họ con đó, là con trai của Noureddin Ali, em trai cha. Khoản tiền một nghìn đồng sequin thấy trong cái túi này làm cha nhớ tới sự xích mích của mình với người em thân thiết này. Chắc đó là món quà hồi môn chú ấy tặng con. Cảm tạ Thượng đế về mọi sự, đặc biệt là sự kiện thần kỳ này làm tỏ rõ uy lực của Người.
Rồi ông nhìn ngắm chữ viết của người em và hôn nhiều lần, nước mắt giàn giụa.
- Làm sao mà thấy được chính Noùreddin tại đây - Ông lẩm bẩm - cũng như thấy những nét chữ này đã làm lòng ta sướng vui khôn tả, để được cùng với chú ấy nối lại tình thân.
Ông đọc kỹ quyển vở từ đầu đến cuối và thấy ngày tháng người em tới Balsora, về lễ cưới của em và về ngày sinh của Bedreddin Hassan và sau khi đối chiếu với ngày tháng lễ cưới của ông và ngày sinh của con gái ông ở Caire thấy sự trùng khớp thật lạ kỳ và nghĩ tới việc cháu mình đã trở thành con rể, ông thấy vô cùng sảng khoái. Ông cầm quyển vở và nhãn đính ở túi tiền đem đệ trình hoàng đế và được hoàn toàn tha thứ cho sự việc đã qua. Hoàng đế còn thấy vô cùng đẹp ý khi nghe kể từ đầu chí cuối câu chuyện ly kỳ đẹp đẽ này và đã cho ghi lại để truyền cho hậu thế.
Tuy vậy, tể tướng Schemseddin Mohammed không hiểu vì sao cháu ông lại biến mất. Ông luôn hy vọng là sẽ được thấy chàng vào bất cứ lúc nào và kiên nhẫn trông chờ để được ôm hôn chàng. Sau bảy ngày chờ đợi không kết quả, ông cho đi tìm khắp thành Caire, nhưng cũng chẳng được tin tức gì, dù đã không tiếc công tiếc của. Ông vô cùng lo lắng.
Đó, đúng là một sự kiện quá mức lạ kỳ? - Ông tự nhủ - Chưa bao giờ có một ai từng thấy như vậy.
Trong sự hoài nghi là không biết có gì xảy ra tiếp nữa, ông cẩn thận ghi lại tất những gì đã thấy: tình hình nhà cửa lúc đó, hôn lễ đã được tiến hành như thế nào, phòng tổ chức hôn lễ và buồng cô dâu, con gái ông đã bày biện ra sao. Ông cũng xếp chiếc khăn đội đầu túi đựng tiền và những quần áo Bedreddin để lại vào một gói và cho vào hòm đóng khoá lại cẩn thận...''
Hoàng hậu Scheherazade buộc phải dừng lại vì thấy trời hửng sáng. Cuối đêm sau, nàng kể tiếp câu chuyện bằng những lời lẽ sau:
“- Tâu bệ hạ, tể tướng Giafar vẫn tiếp tục nói vớI hoàng đế.
- Sau ít ngày - Ông nói - tiểu thư con gái tể tướng Schemseddin Mohammed thấy mình đã mang thai và chín tháng sau nàng sinh được một con trai. Một vú nuôi, nhiều nô tì và những nô lệ khác đã hết lòng chăm sóc, cậu bé được ông ngoại đặt tên cho là Agib.
Khi cậu bé Agib được bảy tuổi, tể tướng Schemseddin Mohammed đáng lẽ cho cháu học tại nhà thì lại gửi đến trường cho một ông thầy giỏi có tiếng dạy dỗ. Hai nô lệ có nhiệm vụ đưa đón cậu bé hàng ngày. Agib chơi với các bạn, tất cả đều ở tầng lớp dưới so với cậu nên chúng nể sợ, đến cả thầy giáo cũng có phần nuông chiều cậu ta hơn cả các học trò khác. Sự chiều chuộng mù quáng này đã làm hại Agib. Cậu ta trở thành tự kiêu tự đại, ngạo xược. Cậu ta muốn tất cả các bạn phải phục tùng nhường nhịn cậu chứ cậu chẳng bao giờ chịu nhường nhịn các bạn. Lúc nào, chỗ nào cậu cũng muốn chơi trội và nếu có một bạn nào đó cả gan làm ngược lại ý kiến cậu hoặc chống lại thì cậu ta không tiếc lời mắng chửi thậm chí đi đến chỗ đấm đá. Cuối cùng cậu ta trở thành một cái gai không chịu nổi của tất cả các bạn học. Họ thưa mách lên thầy. Lúc đầu, thầy khuyên họ hãy cố kiên nhẫn, nhưng khi thấy là làm như vậy thì Agib chỉ càng thêm kiêu căng hỗn xược và chính thầy cũng quá mệt mỏi vì những trò quá quắt của ngườI học trò đặc biệt này gây nên...
Một hôm ông bảo đám học trò đến mách:
- Các con ạ, thầy thấy rõ Agib là một đứa bé kiêu căng hỗn xược, thầy muốn bày cho các con một cách để làm cho nó nhụt đi để không dám quấy rầy các con nữa. Thầy còn tin là nó sẽ chẳng còn dám tới trường nữa kia. Ngày mai, khi nó tới, các con hãy rủ nó chơi một trò chơi tập thể. Tất cả hãy quây quanh nó và một đứa trong bọn sẽ nói to lên như thế này: ''Chúng ta hãy cùng chơi với nhau một trò vui nhưng ai muốn chơi phải nói tên mình, tên bố mẹ. Ai không làm như thế thì coi như là con hoang và chúng ta không cho chơi cùng''. Thầy giáo cho chúng biết là làm như thế Agib bị hoang mang lúng túng sẽ phải chừa thói kiêu căng hách dịch. Cả bọn đi về nhà, mừng vui hớn hở.
Ngày hôm sau, khi tất cả đã tụ tập, bọn chúng không quên làm theo lời dặn của thầy. Chúng quây tròn lấy Agib và một đứa cất tiếng: ''Chúng ta cùng chơi một trò vui, nhưng với điều kiện là ai không nói được tên mình, tên bố và mẹ mình thì không được chơi''. Tất cả đều đồng ý, cả Agib cũng vậy. Thế là lần lượt chúng khai trôi chảy. Đến lượt Agib, cậu này nói: ''Tôi tên Agib, mẹ có tên Diễm Kiều và cha là tể tướng Schemseddin Mohammed''. Tất cả bọn trẻ kêu to: ''Agib, cậu nói gì vậy? Đó không phải là tên cha cậu mà là tên ông ngoại cậu chứ!”.
- Cầu cho Thượng đế bắt chúng mày câm miệng? - Agib tức giận quát lên - Chúng mày dám nói là tể tướng Schemseddin Mohammed không phải là cha ta ư?
Bạn học trò càng cười lớn bảo cậu:
Không, không phải, đó chỉ là ông ngoại cậu thôi. Cậu không được chơi cùng chúng tôi, và cũng không được đến gần chúng tôi đấy!
Nói xong, bọn chúng vừa tản ra xa vừa chế nhạo cậu và cùng nhau cười ran ran. Agib bật khóc, thấy quá nhục nhã.
Ông thầy nghe thấy tất cả, bước vào bảo Agib:
Agib, con hãy còn chưa biết tể tướng Schemseddin Mohammed không phải là cha con ư? Ông là ông ngoại con, là cha đẻ ra mẹ Diễm Kiều của con đó. Cũng như con, chúng ta đều chưa biết tên cha con mà chỉ biết là hoàng đế muốn gả mẹ con cho một giám mã gù lưng, nhưng một vị thần linh đã ngủ với mẹ con. Chuyện đó đối với con chẳng hay ho gì, vì vậy con nên học tập cách đối xử với các bạn bớt phần kiêu căng hợm hĩnh như từ trước tới nay đi''.
Kể đến đây thấy trời hửng sáng nên Scheherazade ngừng lời. Đêm sau nàng lại kể tiếp và nói với hoàng đế Ãn Độ như sau:
“- Tâu bệ hạ, cậu bé Agib, tự ái về sựđùa nhạo trêu chọc của chúng bạn nên đột ngột bỏ học về nhà vừa đi vừa khóc. Trước hết cậu ta về chỗ mẹ, nàng Diễm Kiều hốt hoảng vì trông thấy con quá phiền não như vậy bèn vội hỏI căn nguyên. Cậu bé chỉ đáp lại được bằng những tiếng nức nở đứt đoạn và rất nhiều lần gặng hỏi, cậu ta mới nói rõ được nỗi đau buồn nhục nhã của mình với mẹ. Khi đã kể xong đầu đuôi câu chuyện, cậu hỏi mẹ:
Nhân danh Thượng đế, mẹ hãy cho con biết ai là cha con?
- Con ơi - Nàng đáp - Cha con là tể tướng Schemseddin Mohammed, ngày nào chẳng ôm hôn con.
- Mẹ không nói thật với con, đấy không phải là cha con mà là cha của mẹ. Nhưng mà con kia, cha con là ai, con là con của người cha nào?
Câu hỏi của con làm nàng Diễm Kiều nhớ lại cái đêm tân hôn và tiếp sau đó là cả một thời gian dài cô đơn như một quả phụ. Nàng rơi lệ, đau xót và đắng cay nuối tiếc một người chồng vô cùng dễ thương là Bedreddin.
Trong lúc hai mẹ con đang cùng nhau than khóc thì tể tướng Schemseddin bước vào hỏi nguyên nhân sự đau buồn của họ. Nàng Diễm Kíều nói rõ và kể cho ông nghe sự sỉ nhục mà Agib đã phải hứng chịu ở trường học. Câu chụyện làm cho tể tướng vô cùng xúc động rơi nước mắt và nhận định là tất cả mọi người đều có thể vì vậy mà đánh giá làm phương hại tới danh dự của cả gia đình. Ông thở dài thất vọng. Với ý nghĩ buồn đau đó, ông vào cung xin yết kiến hoàng đế và sau khi phủ phục xuống bên chân nhà vua, ông khẩn cầu xin hoàng đế gia ân cho phép ông được đi du hành một chuyến về các tỉnh miền Đông và đặc biệt là tới Balsora để tìm tung tích con rể Bedreddin Hassan của ông. Ông cũng trình bày với hoàng đế là ông không sao chịu đựng được tiếng đồn trong thành phố là một vị thần linh đã ngủ với con gái Diễm Kíều của ông. Hoàng đế thông cảm với nỗi băn khoăn bứt rứt của tể tướng, tán thành ý định của ông và chuẩn y cho ông được hành động. Nhà vua còn lo gửi một thông điệp tới tất cả các tỉnh thành và các quốc gia những nơi có thể Bedreddin tạm thời ẩn lánh bằng những lời lẽ khẩn thiết là xin vui lòng để cho tể tướng được đưa chànng hồi hương.
Schemseddin Mohammed không còn đủ lời để cảm tạ cho xứng đáng với ân đức của hoàng đế đối với mình. Ồng chỉ còn biết quì lạy một lần nữa trước mặt Người, nhưng những dòng lệ chảy chan hoà cũng đã đủ nói lên lòng biết ơn sâu sắc của mình. Cuối cùng ông bái biệt hoàng đế và chúc Người luôn được mọi sự bình yên và thịnh vượng.
Khi về tới nhà, ông chỉ còn nghĩ đến việc chuẩn bị sắp xếp mọi thứ cho chuyến đi. Chỉ trong vòng bốn hôm, mọi việc đã hoàn tất. Ông lên đường, mang theo cả Diễm Kiều và cháu ngoại Agib.”
Scheherazade kể tới đây thì trời hửng sáng, nàng ngừng lời. Hoàng đế Ấn Độ đứng lên rất hài lòng với câu chuyện kể của hoàng hậu và quyết định sẽ phải nghe tiếp câu chuyện này. Scheherazade đồng ý sẽ thoả mãn ý thích của Người vào đêm sau. Và nàng kể tiếp như thế này:
- Tâu bệ hạ, tể tướng Giafar vẫn đang nói với hoàng đế Haroun Alraschid: ''Schemseddin Mohammed cùng con gái Diễm Kiều và cháu ngoại Agib trên đường đi Damas. Họ đi liền mười chín ngày không nghỉ lại một nơi nào, nhưng đến ngày thứ hai mươi, tới một đồng cỏ rất đẹp không xa thành phố Damas mấy, họ đặt chân xuống đất và dựng lều trên bờ một con sông chảy ngang qua thành phố và làm nơi này thành một nơi nghỉ tuyệt vời.
Tể tưông Schemseddin Mohammed tuyên bố sẽ dừng lại đây hai ngày và ngày thứ ba sẽ tiếp tục lên đường. Ông cho phép đoàn tuỳ tùng được đi dạo chơi thành phố Damas. Họ đều triệt để lợi dụng sự rộng rãi này của chủ nhân. Người này thì vì tò mò muốn biết rõ một thành phố mà nhiều người ca ngợi, người khác thì muốn vào đấy để bán những thứ hàng mang theo từ Ai Cập hoặc để mua những vải vóc và những thứ quí hiếm của xứ sở này. Diễm Kiều muốn cho con trai Agib vui thích được đi dạo chơi trong thành phố nổi tiếng này, lệnh cho tên hoạn nô da đen có nhiệm vụ chăm sóc cậu bé, dẫn cậu đi và hết sức chăm lo bảo vệ để không xảy ra tai nạn gì với cậu.
Agib, ăn mặc thật đẹp đi với người hoạn nô trong tay cầm một chiếc gậy to. Vừa mới bước vào địa phận thành phố, Agib vốn đẹp như thiên thần đã làm cho tất cả mọI người chăm chú nhìn. Một số ra khỏi nhà để được nhìn cậu cho gần, một số thò đầu ra ngoài cửa sổ, và những người đi đường thì dừng lại để nhìn nhưng như chưa thoả lại còn kéo theo sau để được nhìn ngắm lâu hơn. Không một người nào chiêm ngưỡng cậu mà không tỏ lời khen chúc người cha và người mẹ đã cho ra đời một đứa bé tuyệt vời như vậy. Vô tình, tên hoạn nô và Agib đi qua cửa hàng bánh kẹo Bedreddin Hassan vì thấy rất đông người tụ tập ở đó nên hai người phải dừng bước.
Người bán hàng bánh kẹo nhận nuôi Bedreddin đã chết cách đây mấy năm, để lại cửa hàng và tất cả của cải cho người thừa kế. Bedreddin trở thành ông chủ cửa hàng và làm bánh kẹo rất ngon, nổi tiếng trong toàn thành phố Damas. Thấy bao nhiêu người tập hợp trước cửa hàng đều chăm chú nhìn Agib và người hoạn nô da đen, chàng cũng đưa mắt nhìn...''
Scheherazade thôi kể vì trời đã sáng và Schahriar thì đứng lên rất hồi hộp không biết có gì sẽ xảy ra giữa Agib Và Bedređdin. Hoàng hậu sẽ làm cho hoàng đế giải toả nỗi sất ruột vào lúc tàn đêm hôm sau. Nàng tiếp tục kể:
“Bedreddin Hassan - Tể tướng Giafar tiếp tục - đặc biệt đưa mắt nhìn Agib, lập tức thấy vô cùng xúc động không rõ vì sao. Chàng không bị choáng váng như mọI người vì vẻ đẹp rực rỡ của cậu bé. Sự bối rối và xốn xang trong lòng chàng có một nguyên cớ khác mà chàng không biết. Đó là sức mạnh của huyết thống đã tác động lên người cha dịu hiền đa cảm này. Chàng ngừng công việc, đến gần Agib và nói với cậu bé vẻ quyến luyến: ''Thiên thần bé nhỏ, cậu đã chiếm được hồn tôi rồi đấy. Mời cậu hạ cố vào trong cửa hàng tôi và nếm một cái gì đó do tôi làm, để tôi được thoả thích nhìn ngắm cậu''.
Chàng thốt ra những câu trên đầy tình yêu thương âu yếm đến mức mắt lệ rưng rưng làm cậu bé Agib rất cảm động quay sang người hoạn nô:
- Bác này - Cậu bảo hắn - có vẻ mặt hiền hậu và nói với ta sao mà dịu dàng âu yếm, ta khó có thể từ chối lờI mời của bác ấy. Chúng ta hãy vào trong cửa hàng và nếm chút bánh kẹo của bác cho bác ấy vui lòng.
- A? Thật vậy ư? - Tên nô lệ bảo cậu - Con trai một tể tướng như cậu mà lại vào cửa hàng người bán bánh kẹo để ăn bánh thì thật là đẹp mặt đấy! Không được đâu cậu ơi.
- Ôi? Lãnh chúa nhỏ của tôi - Bedreddin Hassan kêu lên - Thật là ác nghiệt mà người ta lại trao cậu cho một người trông nom đối xử với cậu quá khắt khe như vậy.
Rồi chàng bảo người hoạn nô:
- Anh bạn ạ, chớ nên ngăn cấm vị lãnh chúa trẻ này cho tôi cái vinh hạnh mà tôi cầu xin. Chẳng nên làm tôi phải bẽ bàng như vậy. Hãy cho tôi niềm vui là được tiếp cậu chủ nhỏ của bạn và cả bạn nữa trong nhà tôi để xem là anh bạn vốn đen bên ngoài như hạt đẻ, có cũng trở thành trắng như cái nhân bên trong của nó không. Anh bạn nên biết rằng - Chàng nói tiếp - tôi biết bí quyết có thể biến đen thành trắng đấy.
Nghe vậy, người hoạn nô bật cười và hỏi chàng bí quyết ấy như thế nào.
- Rồi tôi sẽ bầy cho anh bạn - Chàng đáp. Rồi ứng khẩu chàng đọc những câu thơ ca ngợi những hoạn nô da đen nói là nhờ có họ mà danh dự các vua chúa và tất cả các vĩ nhân đều được bảo đảm vững chắc. Người hoạn nô rất khoái khi nghe những câu thơ đó và ngừng việc khăng khăng từ chối lời mời của Bedreddin Hassan, để cho Agib vào trong cửa hàng và cả y cũng đi vào theo.
Bedreddin Hassan cực kỳ vui sướng đạt được điều mong muốn, tiếp tục công việc bỏ dở của mình.
- Tôi đang làm - Chàng nói - bánh nhân kem, cậu phải nếm thử bánh này. Tôi chắc chắn là cậu sẽ thấy ngon tuyệt vì bà mẹ của tôi đã dạy tôi làm thứ bánh này mà bà làm hết sức khéo và ngon hết chỗ nói. Tất cả mọi nơi trong thành phố đều đến đây chỉ để buôn một thứ bánh này thôi.
Dứt lời, chàng lấy trong lò ra một chiếc bánh nhân kem, rắc lên những hạt lựu và đường rồi đưa cho Agib. Cậu bé ăn và tấm tắc khen ngon. Người hoạn nô da đen được Bedreddin đưa cho một chiếc, ăn và cũng cùng một lời nhận xét.
Trong khi hai người mải nếm bánh, Bedreddin chăm chú ngắm nhìn Agib và tưởng ra mình có thể cũng có một đứa con trai như thế với người vợ dịu hiền và yêu kiều đã sớm phải chia tay một cách lạ lùng và ác nghiệt. Ý nghĩ này làm mắt chàng rớm lệ. Chàng chuẩn bị hỏi cậu bé Agib về mục đích của chuyến đi Damas của gia đình cậu nhưng cậu bé này không có thời gian để thoả mãn tính hiếu kỳ của chàng vì người hoạn nô đã thúc cậu ăn xong mau để còn về dưới lều của người ông ngoại. Bedreddin đưa mắt nhìn theo luyến tiếc, nhưng rồi nghĩ sao chàng lại vội đóng cửa hàng lại rồi lật đật bước theo sau''
Scheherazade kể đến đây thấy trời đã sáng bèn thôi kể tiếp. Schahriar đứng lên quyết định sẽ nghe cho hết câu chuyện và để cho hoàng hậu sống tới lúc đó.
Đêm hôm sau, trước lúc trời sáng, Dinarzade đánh thức chị và nàng kể tiếp như sau:
“ Bedreddin Hassan - Tể tướng Giafar kể tiếp - vậy là chạy theo sau Agib với người hoạn nô và đuổi kịp trước khi họ tới cổng thành. Người hoạn nô thấy chàng đi theo thì rất ngạc nhiên:
Ồ cái bác này - Y giận dữ bảo- Bác muốn gì nào?
- Bạn tốt ơi - Bedreddin vội đáp- Tôi phải ra ngoài thành phố có chút việc. Xuýt nữa quên là tôi còn có việc phải trao đổi với bạn hàng ngoài thành phố.
Câu trả lời này không đủ thuyết phục tay hoạn nô, hắn ngoảnh sang bảo Agib:
- Đó, tôi bị lôi vào chuyện này là vì cậu đó. Tôi đã tường trước là sẽ phải hối hận về sự dễ dãi của mình mà. Cậu đã cứ muốn vào cửa hàng của ông này, tôi đã ngốc nghếch chiều cậu.
Có thể đúng là - Agib nói - bác ấy có việc phải ra ngoài thành phố, và những con đường đi là của cả mọI người kia mà.
Họ tiếp tục bước đi không ngoảnh lại phía sau cho đến lúc về tới gần những chiếc lều của tể tướng, họ mới quay lại nhìn xem Bedreddin còn có đi theo nữa không. Agib nhận thấy bác thợ làm bánh cách mình có hai bước chân. khuôn mặt lúc thì đỏ tía lúc lại tái xanh như đang bị xúc động mạnh. Cậu sợ tể tướng ông ngoại có thể biết chuyện cậu đã vào cửa hàng của người bán bánh kẹo và ăn uống ở trong đó. Vì thế nên cậu cúi xuống lượm một hòn đá khá to ngay cạnh chân, đang tay ném trúng giữa trán người chủ hiệu bánh làm máu chảy nhễ nhại đầy mặt. Sau đó cậu gié chân chạy mau chui vào trong lều với người hoạn nô.
Bedreddin quay lại con đường đi vào thành phố, tay nâng cái tạp đề trước ngực đưa lên lau máu trên mặt. ''Ta mắc sai lầm - Chàng tự bảo - đã bỏ nhà đi theo làm phiền cậu bé này. Sở dĩ cậu ta xử sự như vậy vì tưởng là ta có âm mưu gì làm hại cậu ta thôi''.
Về đến nhà, chàng cho băng bó vết thương và tự an ủI là tai hoạ này chẳng có gì đáng kể, trên đời này còn có những người khốn khổ hơn mình nhiều.''
Mặt trời nhô lên bắt hoàng hậu Ấn Độ yên lặng. Schahriar đứng lên thương hại Bedreddin và nóng lòng muốn biết đoạn tiếp của câu chuyện
Cuối đêm sau, Scheherazade nói với hoàng đế Ấn Độ: ''Tâu bệ hạ, tể tướng Giafar kể tiếp chuyện Bedreddin Hassan như sau:
''Bedreddin tiếp tục làm nghề bánh kẹo ở Damas. Ông bác của chàng, Schemseddin Mohammed nghỉ lại ba ngày ở gần Damas rồi lại tiếp tục đi. Ông thẳng đường đến Emesse và từ đó đi tới Hamah, rồi tới Halep, nghỉ lại ở đây hai hôm. Từ Halep ông qua sông Euphrate, đi sâu vào Mésopotamie và sau khi đi xuyên qua Mardin, Mossoul, Sengial, Diarbekir và nhiều thành phố khác, cuối cùng tớI Balsora, ở đây ông xin bệ kiến đức vua. Ông được đón tiếp long trọng vì hoàng đế biết ông là tể tướng Schemseddin Mohammed, và hỏi lý do vì sao tới Balsora.
- Tâu bệ hạ - Tể tướng đáp - Tôi tới đây để được biết tin tức con trai của em tôi là Noureddin Ali, người đã có vinh dự được phục vụ bệ hạ.
Noureddin Ali đã tạ thế lâu rồi- Hoàng đế nói – Còn về chuyện ông ta, tất cả những gì có thể nói với ngài là sau hai tháng cha chết, cậu ta đột nhiên biến mất, từ đó chẳng ai nhìn thấy dù tôi đã cho đi tìm khắp chốn. Nhưng còn mẹ cậu ta là con gái của một trong những tể tướng của tôi, hiện còn sống.
Schemseddin Mohammed xin ông cho phép
Chương 18
Schahzaman tự cho mình là một quân vương hạnh phúc nhất trên trái đất này với sự yên bình và thịnh vượng của triều đại ông
Đảo này gồm có nhiều tỉnh lớn, tất cả đều phồn vinh vì có những thành phố đông đúc thịnh vượng, làm thành một vương quốc hùng mạnh. Ngày xưa, trị vì hòn đảo này là quốc vương Schahzaman có bốn vợ đều là chính thất, đều là công chúa con vua và sáu chục phi tần.
Schahzaman tự cho mình là một quân vương hạnh phúc nhất trên trái đất này với sự yên bình và thịnh vượng của triều đại ông. Chỉ có một điều làm hạnh phúc của ông chưa trọn vẹn là đã luống tuổi mà chưa có con để nối dõi dù ông rất nhiều vợ. Ông không biết đổ cái lỗi vô sinh đó vì đâu và trong niềm sầu muộn đó, ông coi như thật là đại bất hạnh nếu một khi nằm xuống mà chẳng có người trong huyết thống để nối ngôi báu. Đã rất lâu ông giấu kín nỗì niềm xé ruột dằn vặt ông. Càng đau buồn ông lại càng cố giữ kín không để lộ ra với bất cứ ai. Cuối cùng, không thể lặng im được nữa, một hôm ông tâm sự với tể tướng và sau khi than thân trách phận một cách cay đắng ông hỏi tể tướng xem liệu có phương sách gì để cứu vãn được tình thế ấy không. Vị đại thần khôn ngoan đó nói:
- Nếu điều bệ hạ hỏi nó tuỳ thuộc vào những luật lệ thông thường về sự từng trải của con người thì Người sẽ được thoả mãn ngay thôi, nhưng xin thú thực là kinh nghiệm và kiến thức của tôi không đủ để đáp ứng đòi hỏI của bệ hạ. Chỉ có Thượng đế mới có thể ra tay phù trợ được thôi. Sống giữa giàu sang vàng lụa, ta thường luôn luôn quên Người nên Người đôi khi cũng gây cho ta chuyện buồn phiền đây đó để ta phải nghĩ tới và thừa nhận quyền lực tối cao của Người, thấy là những điều ta cầu mong chỉ còn duy nhất trông đợi ở Người. Bệ hạ có những thần dân chuyên làm nghề phụng thờ Thượng đế, phụng sự Người và sống khổ hạnh vì tin yêu Người. Ý kiến của tôi là bệ hạ nên góp phần công đức và khuyến khích động viên họ cùng với bệ hạ nguyện cầu. Có thể trong đám đông những người tu hành đó, có một người nào đó khá thuần khiết và được Thượng đế ưu ái vì vậy lời khẩn eầu được Người chấp nhận đáp ứng được điều mong ước của bệ hạ chăng.
Quốc vương Schahzaman đánh giá cao lời khuyên đó và hết lòng cảm ơn tể tướng của ông. Ông sai đem nhiều của cải hiến cho các cộng đồng những người tu hành, tổ chức một bữa tiệc lớn và nói với họ nguyện vọng của mình để họ báo cho tất cả các đạo sĩ dưới quyền.
Chẳng bao lâu Schahzaman được thoả nguyện: một trong những người vợ của ông mang thai và sau chín tháng cho ra đời một trai. Để tạ ơn này, ông lại cho gửi tớI các nhà thờ Hồi giáo nhiều lễ vật đáng giá và đồng thời tổ chức ăn mừng ngày sinh hoàng tử không những ở kinh đô mà ở tất cả mọi nơi trong phạm vi vương quốc. Các cuộc vui kéo dài suốt một tuần lễ. Người ta đưa hoàng tử đến cho ông ngay từ lúc mới sinh, ông thấy đứa bé thật xinh đẹp nên đặt tên cho cậu là Camaralzaman, mặt trăng của thế kỷ.
Hoàng tử Camaralzaman được nuôi dưỡng thật chu đáo. Vừa tuổi đến trường, cha cậu đã cử một thái phó hiền đức và nhiều thầy giáo giỏi để trông nom dạy đỗ cậu. Những ông thầy có tiếng này thấy cậu thông minh, lanh lợi, đễ bảo và có đủ khả năng tiếp thụ tất cả những kiến thức giảng dạy không những về đạo đức, phong tục mà còn tất cả những điều cần hiểu biết của một hoàng tử. Nhiều tuổi hơn một chút nữa, học các môn võ nghệ cậu đều tiếp thu nhanh chóng với một sự thành thạo tinh thông tuyệt vời làm mọi người đều thán phục nhất là hoàng đế, cha cậu.
Khi hoàng tử chớm tuổi mười lăm, hoàng đế vốn có một tình thương yêu con rất đằm thắm và tình yêu thương đó luôn được thể hiện bằng mọi cách. Ông muốn biểu lộ nó một cách thật đặc biệt và huy hoàng đó là thoái vị để nhường ngôi báu cho chàng. Ông trao đổi ý đó với tể tướng và nói thêm:
- Ta sợ là con ta sẽ làm mất đi, trong sự nhàn hạ cái năng khiếu trời cho cũng như bao thành công thu lượm được trong học tập rèn luyện. Vì cũng đã đến tuổi để nghĩ đến sự nghỉ ngơi rồi nên ta quyết định nhường ngôi cho hoàng tử, lui về sống nốt nhũng ngày còn lại với sự hài lòng được nhìn thấy con ta trị vì đất nước. Ta cần phảI nghỉ ngơi sau bao năm khó nhọc cầm quyền.
Tể tướng không muốn nêu ra tất cả những lý do thuyết phục ông khoan thực hiện quyết định nhường ngôi, ngược lại, ông muốn đi sâu vào khía cạnh tình cảm:
- Tâu bệ hạ, hoàng tử hãy còn quá trẻ để đảm đương một gánh nặng là cai trị một quốc gia hùng mạnh. Bệ hạ sợ chàng có thể bị hư hỏng vì cuộc sống nhàn rỗi với nhiều lý do, nhưng để phòng ngừa, sao bệ hạ không xét đến việc lấy vợ sớm cho chàng? Hôn nhân sẽ ràng buộc và ngăn cản một hoàng tử trẻ rơi vào cuộc sống chơi bời phóng túng. Cộng với việc cưới vợ, bệ hạ cho chàng tham dự trong những buổi họp hội đồng để chàng làm quen dần với công việc của triều đình rồi sau đó khi nào thấy chàng có đầy đủ khả năng theo chính kinh nghiệm của bệ hạ thì đó là lúc bệ hạ truyền ngôi báu cho chàng.
Schahzaman thấy lời khuyên của tể tướng đầu triều vô cùng hợp lý nên sáu khi ông này lui, nhà vua bèn cho gọi hoàng tử Camaralzaman tới.
Hoàng tử thường lui tới thăm cha vào những giờ giấc đã định trước, chẳng mấy khi phải vời tới. Nên lần này chàng ngạc nhiện thấy lệnh cha gọi. Đáng lẽ thấy thoải mái như mọi khi thì lần này chàng chào cha thật trịnh trọng và cúi đầu trước mặt ông.
Hoàng đế nhận thấy sự gò bó của hoàng tử bèn ôn tồn bảo chàng:
- Con có biết cha cho đòi con tới đây có việc gì không?
- Tâu phụ hoàng - Chàng khiêm tốn đáp - Chỉ có Thượng đế mới thấu hiểu mọi sự thôi. Con rất vui lòng được biết ý phụ vương.
- Ta cho gọi con tới - Hoàng đế nói - để bảo cho con hay là ta muốn cưới vợ cho con. Con thấy sao?
Hoàng tử Camaralzaman rất không vui khi nghe cha nói thế. Chàng sửng sốt đến mức toát cả mồ hôi và không biết trả lời ra sao cả. Sau một lát im lặng, chàng-nói:
- Tâu hoàng thượng, xin Người thứ lỗi cho con đã lặng người đi khi nghe thấy lời Người tuyên bố. Con không chờ đợi điều đó vì con còn quá trẻ. Con cũng không rõ có bao giờ con bị hôn nhân trói buộc không vì đàn bà không những chỉ gây nhiều điều phiền toái mà con hiểu rất rõ, họ lại còn là những người gian xảo, độc ác và đối trá như trong nhiều sách của các tác giả con đã đọc. Có thể là ý kiến của con chẳng phải là cố định như vậy nhưng con cảm thấy là cần phải có thời gian trước khi tự mình dứt khoát làm được điều mà hoàng thượng đòi hỏ
Scheherazade muốn kể tiếp nhưng nhìn thấy hoàng đế Ản Độ đã nhận ra trời đã sáng rời giường bước xuống nên nàng ngừng lại. Đêm sau, nàng vẫn kể tiếp câu chuyện này:
- Tâu bệ hạ, lời hoàng tử trình bày làm cho hoàng đế cha chàng cực kỳ buồn bã. Vị quốc vương này thực sự đau lòng khi thấy chàng có một sự chán ghét ghê gớm về hôn phối. Tuy vậy ông không muốn kết chàng phạm tội bất tuân cũng như không muốn dùng uy quyền cha chú đối vớI chàng. Ông chỉ khẽ bảo con:
- Cha chẳng muốn ép buộc con, để cho con có thời gian suy nghĩ và thấy rằng một hoàng tử như cón sinh ra là để trị vì một quốc gia lớn thì trước hết phải nghĩ đến chuyện cần có người nối dõi. Tự cho mình niềm vui ấy, con cũng sẽ làm cha vui vì được thấy mình sống lại trong con và trong cả những đứa cháu mà con sinh hạ.
Schahzaman không nói gì thêm nữa với hoàng tử Camaralzaman. Ông cho chàng tham dự trong các buổi họp cơ mật quốc gia và tìm mọi cách để làm chàng vừa lòng. Một năm sau, ông gọi riêng chàng ra và bảo:
- Thế nào, con trai ta? Con có nhớ là phải suy nghĩ về ý muốn của cha về việc cưới vợ mà cha đã nói với con năm ngoái không? Líệu con vẫn cứ khước từ không cho cha được vui lòng với sự vâng lời của con, và để cho cha chết đi mà không được biết niềm vui đó sao?
Hoàng tử có vẻ như đỡ sửng sốt so với lần đầu và không do dự lâu trả lời thật dứt khoát như sau:
- Thưa phụ hoàng, con, không quên việc đó, nhưng sau khi đã cân nhắc kỹ con càng kiên định là sẽ sống độc thân, không để hôn nhân trói buộc. Quả thật, những nỗi khổ vô biên do đàn bà gây ra trong tất cả các thời đại trên trần thế mà con biết rõ trong sử sách và những điều được nghe thấy hàng ngày về những sự tinh ma quỉ quái của họ, là những lý do đã làm cho con quyết tâm là sống suốt đời không có liên quan gì với họ. Vậy phụ vương hãy tha tội nếu con mạo muội dám xin Người là từ nay không đả động gì đến việc cưới xin nữa .
Chàng dừng lại ở đây và đột ngột rời hoàng đế cha chàng không đợi ông nói gì khác nữa.
Tất cả những ông vua khác chắc là khó kìm được cơn giận dữ lôi đình sau những lời lẽ táo bạo trên đây của hoàng tử và sẽ chẳng quên làm cho chàng phải hối tiếc. Nhưng vua Schahzaman rất thương yêu con, muốn dùng lời lẽ dịu dàng trước khi phải cưỡng bức. Ông cho tể tướng biết nỗi buồn phiền mới của ông do hoàng tử Camaralzaman vừa gây ra:
- Ta đã theo lời khuyên của nhà ngươi - Ông nói với tể tướng - Nhưng Camaralzaman lại càng xa lánh chuyện hôn nhân hơn cả lần trước và hoàng tử lại còn trình bày với ta bằng những lời lẽ thật táo bạo khiến ta phải hết sức kiềm chế mới không nổi giận. Những người cha hết sức nhiệt thành cũng như ta đối với hoàng tử đúng là những người dạo đột tự tước của mình đi sự yên tĩnh nghỉ ngơi. Nhà ngươi bảo ta làm sao bây giờ để khiến được cái tên cứng đầu cứng cổ đó tuân Phục ý chí của ta?
- Tâu bệ hạ - Tể tướng nói - Với lòng kiên nhẫn, người ta đạt được vô số thành công trong việc làm. Có thể là sự việc này không phải thuộc bản chất có thể thành công theo con đường đó. Cũng chẳng có gì đáng trách là bệ hạ đã có phần nào muốn đẩy nhanh sự việc. Xin Người xét xem có thể cho thêm hoàng tử thời hạn một năm nữa để suy nghĩ. Nếu trong khoảng thời gian này, hoàng tử biết đến bổn phận thì niềm vui của hoàng thượng sẽ lớn hơn là dùng quyền lực của người cha để ép buộc chàng. Nếu, ngược lại chàng vẫn một mực khăng khăng chối từ thì, khi một năm đã trôi qua, bệ hạ sẽ tuyên bố trước cả triều thần là vì lợi ích quốc gia, hoàng tử phải cưới vợ. Không thể tin được là trước cả một tập thể nổi tiếng mà bệ hạ được tôn trọng bằng sự có mặt của mình, hoàng tử lại đám tỏ ra thái độ bất kính.
Hoàng đế, vô cùng khát khao được thấy hoàng tử, con trai mình mau lấy vợ, thì từng ngày đối với ông cũng dài bằng cả năm, huống chi phải lui thời hạn một năm nữa, ông thấy thật vô cùng sốt ruột. Nhưng cũng đành phảI theo lời khuyên có lý lẽ rất thuyết phục của tể tướng, không thể bác bỏ được.
Ánh sáng ngày đã bắt đầu ló rạng buộc Scheherazade đến chỗ này phải ngừng lời. Nàng tiếp tục câu chuyện vào đêm sau và nói với hoàng đế Schahriar:
- Tâu bệ hạ, sau khi tể tướng đã lui hoàng đế Schahzaman đi tới tư thất của bà thân mẫu hoàng tử Camaralzaman mà ông đã nhiều lần bàn với bà cưới vợ cho con trai. Ông buồn bã kể cho bà nghe chuyện chàng từ chối lần thứ hai một cách bướng bỉnh làm ông đau lòng nhưng ông vẫn phải rộng lượng với chàng vì lời khuyên của tể tướng.
- Hậu ạ - Ông bảo bà - Ta biết là con nó tin bà hơn là ta. Bà nói thì nó đễ dàng vâng theo hơn. Vậy bà hãy để một chút thời gian nghiêm chỉnh và thân mật bảo cho nó biết nếu cứ cứng đầu cứng cổ như thế thì ta buộc phải cứng rắn dù rất không muốn và nó sẽ phải hối tiếc vì đã không tuân phục cha nó.
Fatime, đó là tên của bà mẹ Camaralzaman, gặp hoàng tử, con bà lần thứ nhất, bảo cho chàng biết là bà được tin việc chối từ cưới vợ của chàng với hoàng đế bà biết bao lo sợ là việc đó đã làm cho hoàng đế vô cùng tức giận.
- Thưa mẹ - Camaralzaman nói - Xin mẹ đừng khơi dậy nỗi đau của con về việc đó nữa. Con rất sợ, là đang trong tâm trạng buồn chán có thể con sẽ có gì thất lễ với mẹ thì thật đáng tiếc đấy.
Fatime, qua lời nói của con, biết là vết thương còn quá mới, vì vậy lần này không nói gì thêm nữa. Lâu lâu về sau, Fatime tìm được dịp nói với chàng cũng về vấn đề trên, hy vọng là chàng để tai nghe.
- Con ơi? - Bà nói - Mẹ xin con hãy nói cho mẹ hay,nếu điều này không gây cho con phiền bực; vì những nguyên cớ gì mà con lại thù ghét vấn đề hôn nhân làm vậy. Nếu con chỉ cho đàn bà là ranh ma, ác độc và không có gì khác ngoài các tính xấu đó nữa thì lý do quả là rất yếu ớt và còn không hợp lý nữa. Mẹ chẳng muốn bênh vực cho những người đàn bà độc ác. Có rất nhiều người như vậy, mẹ công nhận. Nhưng thật bất công nếu đi vơ đũa cả nắm vì không phải tất cả đàn bà đều độc ác. Trong những sách con đọc, con thấy một số những người nào đó đúng thật là đã gây ra nhiều sự lộn xộn lớn, chính mẹ cũng không hề muốn tha thứ cho họ. Nhưng sao con chẳng chú ý là có biết bao nhiêu ông vua, bao nhiêu hoàng đế và cả các hoàng tử khác nữa mà sự độc đoán, dã man tàn bạo độc ác khiến mọi người kinh hãi ghê tởm. Họ đã được nêu lên trong sử sách mà mẹ cũng như con đã đọc. Nếu so sánh thì cứ một người đàn bà cũng phải có tới một ngàn những đàn ông dã man tàn bạo. Và những người đàn bà ngoan nết, lương thiện thật là bất hạnh phải sánh đôi với những tên điên khùng đó. Con tưởng là họ sung sướng lắm sao?
- Thưa mẹ - Camaralzaman nói - Con không nghi ngờ gì là có rất nhiều những người đàn bà khôn ngoan, đức hạnh, tử tế, dịu dàng và sống thật lương thiện. Cầu Thượng đế cho tất cả bọn họ đều giống như mẹ của con? Điều làm con bất bình là một người đàn ông cứ bắt buộc phải làm một cuộc lựa chọn người định lấy làm vợ chẳng lấy gì làm chắc chắn bảo đảm hay nói một cách khác là chẳng được tự do làm theo ý mình.
Giả dụ là con quyết định đi vào cuộc hôn nhân như cha con từng nóng lòng mong mỏi, thì Người sẽ cho con một người vợ như thế nào đây? Chắc hẳn là một công chúa mà cha nhắm cho con, con một vị vua nước lân bang nào đó, và nhà vua ấy chắc hẳn lấy làm vinh dự được cho con gái về làm dâu nhà ta. Dù đẹp, dù xấu thì con cũng phải lấy. Con muốn người vợ con phải đẹp, không có một công chúa nào sánh bằng, nhưng có ai bảo đảm cho về trí tuệ, về tính tình cô ta có dễ chịu, đáng yêu, niềm nở, nhã nhặn không? Về tiếp xúc nói năng trò chuyện có biết nói những câu chuyện đứng đắn tế nhị không hay toàn là chuyện áo quần, cách ăn mặc chưng điện, chuyện tô điểm trang sức và hàng ngàn chuyện vớ vẩn khác khiến bất cứ người đàn ông đứng đắn nào cũng phải đem lòng thương hại. Tóm lạI là có ai bảo đảm cho con cưới được một cô gái không kiêu căng, hách dịch, không hợm hĩnh khinh bạc, không làm cho một quốc gia khánh kiệt vì những khoản tiêu sài nông nổi về áo quần, về đồ châu ngọc, về trang sức và những thứ phù phiếm điên loạn và lạc điệu?
Như mẹ thấy đấy, thưa mẹ, chỉ riêng một mục ấy thôi đã có vô vàn những điểm yếu khiến con hoàn toàn chán ghét hôn nhân. Mà dù cho nàng công chúa đó có hoàn hảo và toàn vẹn đến đâu, không có điểm nào đáng chê trách đi nữa thì con hãy còn vô số lý do mạnh hơn để giữ vững sự suy nghĩ cũng như quyết định của mình.
- Sao? Con của mẹ - Fatime nói- Con còn có những lý đo khác ngoài những lý do con vừa nói ư! Mẹ thấy là chỉ bằng một lời thôi, mẹ có thể làm con cạn lý.
- Xin mẹ cứ nói, thưa mẹ - Hoàng tử bướng bỉnh - Biết đâu con có thể bác lại được ý kiến đó của mẹ.
- Con ạ, mẹ muốn nói là - Fatime bảo - Đối với một hoàng tử, nếu bất hạnh lấy phải một công chúa giống như con vừa mô tả đó, thì có khó gì đâu trong việc phế bỏ và ra sắc chỉ ngăn cấm nàng để khỏi làm cho quốc gia khánh kiệt.
- Ôi? Mẹ ơi - hoàng tử Camaralzaman nói - Thế mẹ không thấy là thật nhục nhã cho một hoàng tử đã buộc phải đi tới hành động cực đoan đó? Vì vinh quang và sự thanh thản của mình, chớ nên dấn thân vào việc đó, như thế có phải hơn không?
- Nhưng con ơi? - Fatime lại nói - Theo cách con suy nghĩ, mẹ thấy rằng con muốn mình là một ông vua cuốI cùng của dòng họ đã từng trị vì trong vinh quang và hiển hách tại vương quốc đảo Những Đứa Con Của Khalédan .
- Thưa mẹ - Hoàng tử Camaralzaman đáp – Con chẳng cầu mong được sống lâu hơn đức vua cha con. Nếu chẳng may mà con chết trước Người thì cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên vì chuyện con chết trước cha phải đâu là hiếm có. Nhưng bao giờ cũng được tôn vinh cho cả một triểu đại nếu ông vua cuối cùng của thế hệ đó tỏ ra xứng đáng, và con thì đang cố gắng hết sức mình để xứng đáng với các đấng tiên vương và các vị khai sáng ra triều đai.
Từ hôm ấy, hoàng hậu Fatime còn có nhiều cuộc chuyện trò như vậy với hoàng tử Camaralzaman và cố tìm ra chỗ yếu của chàng để nhổ tận gốc sự ghét bỏ của chàng đối với hôn nhân. Nhưng lần nào cũng bị chàng bẻ lại lý lẽ của bà bằng những lý do khác làm bà không biết đáp lại ra sao cả. Chàng cứ trơ như đá vững như đồng không gì lay chuyển nổi.
Một năm nữa lại trôi qua, trong nỗi buồn phiền của hoàng đế Schahzaman, hoàng tử Camaralzaman chưa có một biểu hiện nào thay đổi quan điểm của mình. Một hôm, trong một buổi thiết triều long trọng có mặt đông đủ tể tướng, các thượng thư, các đại thần và các tướng lĩnh, hoàng đế bảo hoàng tử:
- Đã từ lâu ta từng cho con biết ý muốn thiết tha của ta là được thấy con thành gia thất và chờ đợi với sự ân cần của một người cha đòi hỏi một điều không gì hợp lý hơn. Con đã nhiều phen cưỡng lại khiến ta không sao kiên nhẫn được nữa. Trước triều đình, hôm nay ta lại nêu lên vấn đề này. Không còn là vì tuân theo ý của một người cha mà con chẳng dám chối từ, nhưng đây là vì quyền lợi của đất nước bắt buộc và tất cả vị đại thần ở đây yêu cầu cùng với cha. Vậy thì con sẽ nói sao đây, để theo đó, cha còn định liệu.
Hoàng tử Camaralzaman đáp lại với thái độ khá sỗ sàng hoặc nói cách khác là với thái độ bực bội khiến Hoàng đế bị bẽ mặt trước cả triều thần đã không kìm được sự giận dữ chính đáng:
- Sao! Đứa con mất gốc kia? Mày dám nói năng láo xược như vậy trước hoàng đế cha mày như thế ư?
Ông bèn lập tức lệnh cho lính cấm vệ bắt giữ và đưa chàng nhốt vào một cái tháp cổ đã bỏ hoang từ lâu. Chàng bị giam trong đó với một chiếc giường, một vài bàn ghế, một số quyển sách và chỉ có một tên người hầu.
Camaralzaman, hài lòng vì được tự do trò chuyện vớI những cuốn sách, nhìn buồng giam bằng con mắt lạnh lùng. Buổi chiều, chàng tắm rửa, cầu nguyện và sau khi đọc xong một vài chương trong quyển kinh Coran cũng với vẻ bình thản như đang ở tư thất của mình trong hậu cung hoàng đế cha chàng, chàng nằm xuống ngủ, cây đèn vẫn thắp sáng để bên cạnh giường.
Trong tháp cổ đó có một cái giếng, nơi ẩn náu ban ngày của một tiên nữ tên là Maimoun, con gái của Damriat, là vua hoặc người cầm đầu một nhóm các vị thần. Lúc đó vào khoảng nửa đêm, tiên nữ Maimoun nhẹ nhàng nhẩy lên khỏi giếng, đi thăm thú trần gian cho thoả trí tò mò. Tiên nữ rất ngạc nhiên thấy ánh lửa trong buồng hoàng tử Camaralzaman. Nàng bước qua người hầu nằm ngủ cạnh cửa để vào trong, đi đến gần chiếc giường mà vẻ lộng lẫy làm nàng chú ý. Nàng càng ngạc nhiên hơn khi thấy có người nằm ngủ trên đó. Nửa khúốn mặt hoàng tử Camaralzaman bị một góc chăn che lấp, tiên nữ khẽ nâng lên một chút và sững sờ nhìn thấy một chàng trai trẻ đẹp chưa từng thấy trên khắp mọi nơi trên trái đất mà nàng đã đi qua
“Ôi? Thật là rực rỡ? - Nàng nhủ thầm - Hoặc nói một cách khác là đôi mắt kia nếu mở ra nữa thì vẻ đẹp sẽ chói lọi đến lnức nào? Nhưng vì cớ gì mà đang ở địa vị cao sang, chàng lại bị đối xử như vậy?''. Vì tiên nữ cũng đã biết sự thể của chàng nhưng chưa thực cặn kẽ lắm.
Maimoun ngắm hoàng tử Camaralzaman không chán mắt, sau khi hôn vào hai bên má và giữa trán mà không làm chàng thức giấc, nàng bay vút lên không. Nàng đang bay cao tít lưng chừng trời thì bỗng nghe thấy tiếng đập cánh, nên vội theo hướng đó bay tới. Khi đến gần thì nàng thấy tiếng vỗ cánh là do một vị thần gây ra, đó là một trong các thần linh chống đối lại Thượng đế. Vị thần có tên Danhasch, con của Schamhourasch, khiếp hãi nhận ra Maimoun, vì hắn biết là bản lĩnh của nàng hơn hắn nhiều. Hắn muốn tránh cuộc tao ngộ này nhưng vì đã quá gần nên không kịp chỉ còn cách hoặc giao đấu hoặc qui hàng.
Danhasch vội đề nghị với giọng nhũn nhặn:
- Nàng Maimoun hùng mạnh! Nhân danh Thượng đế, nàng hãy thề là không làm hại gì tôi đi! Về phía mình, tôi cũng thề như thế.
- Hung thần? - Maimoun nói - Mi có thể làm gì hại ta nào? Ta không sợ mi nhưng cũng chấp nhận lời cầu xin của mi. Hãy nói ta hay mi vừa ở đâu tớí đây, đã nhìn thấy những gì và đã làm gì đêm nay?
- Tiên nữ xinh đẹp - Dànhasch nói - Nàng đã gặp được tôi thật đúng lúc để được nghe cái gì đó thật kỳ diệu tôi sẽ kể đây...
Hoàng hậu Scheherazađe buộc phải ngừng lời vì ánh sáng ngày đã tù từ chiếu rọi. Đêm hôm sau, nàng kể tiếp như sau:
- Tâu bệ hạ - Nàng nói - Vị thần chống đối Thượng đế nói tiếp với Maimoun:
- Vì nàng đã muốn nghe thì xin nói để nàng biết.là tôi vừa từ nơi địa đầu của Trung Quốc, nơi trông ra những hòn đảo cuối cùng của bán cầu này, về đây... Nhưng nàng hứa là sẽ để cho tôi được tự do đi đâu tuỳ ý sau khi kể xong cho nàng nghe chứ?
- Kể đi, kể đi? Đừng sợ gì cả - Maimoun nói - Mi tưởng ta cũng lừa đảo giống mi, nuốt lời hứa với mi chăng? Chỉ cần nhớ là không được kể sai sự thực, nếu nói láo thì ta sẽ trị mi thích đáng.
Danhasch nghe thế cũng thấy có phần yên tâm, nói:
Thưa tiên nữ thân mến, tôi sẽ kể toàn là sự thật cả thôi, xin nàng hãy lắng nghe: Đất nước Trung Quốc, nơi tôi mới rời đi, là một trong những quốc gia lớn và hùng mạnh nhất trên địa cầu có những hòn đảo cuối cùng của bán cầu này phụ thuộc. Đức vua hiện giờ là Gaiour và ông vua này chỉ có một người con gái duy nhất mà từ thuở khai thiên lập địa tới nay chưa có người nào đẹp bằng. Cả nàng, cả tôi cũng như tất cả các vị thần vị tiên ở bên nàng cũng như ở bên tôi, cũng như tất cả mọi con người tập trung lại cũng không thể tìm ra được những từ những ngữ, những câu văn, những lời nói thật thích hợp, thật sinh động và đủ yếu tố hùng biện để mô tả lên một chân dung từa tựa như con người thực của nàng. Tóc nàng màu nâu và dài thướt tha chấm gót. Trán nàng phẳng lì như một tấm gương hình dạng thật mĩ miều, đôi mắt đen long lanh đầy lửa, mũi nàng không quá dài không quá ngắn, miệng nàng nhỏ và tươi như son, hàm răng nàng như hai hàng ngọc trai trắng bong. Khi động đậy lưỡi để nói, tiếng nàng dịu dàng và êm ái phát ra những lời đầy sự nhanh trí thông minh. Sắc trắng của minh ngọc thạch cũng còn thua cái cổ trắng như ngọc của nàng. Sơ sài vài nét như thế cũng đủ để nàng hiểu là ở trên đời này thật khó để có một sắc đẹp hoàn mỹ như vậy.
Vua cha yêu thương nàng rất mực, và cho nàng cấm cung không cho bất cứ ai được tự do tiếp xúc, ngoài ngườI sau này sẽ cùng nàng kết hôn mà thôi. Để nàng khỏi buồn chán trong cảnh cấm cung như vậy nhà vua đã cho xây bảy cung điện mà xưa nay chưa ai từng nhìn thấy hoặc nghe nói.
Cung điện thứ nhất bằng đá pha lê, cung điện thứ hai bằng đồng, thứ ba bằng thép tinh, thứ tư bằng một loại đồng khác lạ quý hơn cả đồng và thép, thứ năm bằng loại đá thử vàng, thứ sáu bằng bạc và thứ bảy bằng vàng khối. Các cung điện đều được bày biện những đồ đạc lộng lẫy phù hợp với chất liệu xây dựng từng cung điện. Nhà vua không quên là những khu vườn kèm theo mỗi cung điện đều có những thảm cỏ mịn màng hoặc lốm đốm hoa, những vũng nước, những vòi phun, những mương rạch, những thác nước, những lùm cây trải dài xa tít tắp mà tia sáng mặt trời khó lọt qua. Tất cả đều có một trật tự khác nhau ở mỗi một khu vườn. Nhà vua Gaiour tóm lại, tỏ ra cho mọi người thấy là chỉ duy nhất có tình phụ tử mới khiến ông làm một khoản chi tiêu khổng lồ như vậy.
Nghe tiếng đồn về sắc đẹp chim sa cá lặn của công chúa, nhiều quốc vương lân bang đã cử những đoàn sứ thần long trọng đến xin được kết thân. Quốc vương Trung Hoa nghênh tiếp họ như nhau vì ông chỉ muốn gả công chúa cho người nào nàng tự chọn. Và nàng đã khước từ tất cả các đám đã tới cầu hôn. Những sứ thần ra về kém hài lòng về kết quả mong muốn nhưng chẳng có gì phải phàn nàn về sự tiếp đón đầy trang trọng và nhận được nhiều vinh dự ở nhà vua Trung Hoa.
Tâu phụ vương - Công chúa nói với vua cha - NgườI muốn con thành hôn và cho là sẽ làm con sung sướng. Con thấy rõ tấm lòng của cha và vô cùng đội ơn Người, nhưng ngoài việc được ở gần phụ vương, gần những cung điện huy hoàng, gần những khu vườn tuyệt diệu ra thì con tìm đâu được hạnh phúc bây giờ? Con xin thêm là được cha yêu thương, con không bị ép buộc điềư gì cả mà còn được hưởng những vinh dự cũng như cha vậy. Đó là những lợi thế mà con không sao có được ở bất cứ nơi nào trên thế gian này, ở bất cứ người chồng nào mà giả dụ là tự con đồng ý. Những người chồng luôn luôn là muốn làm ông chủ, nhưng con thì lại chẳng muốn ai đè đầu cưỡi cổ mình.
Sau nhiều sứ bộ phải ra về tay không, có một đám tớI từ một vương quốc rất giàu rất mạnh, giàu mạnh hơn tất cả những đám tới từ trước đến nay. Quốc vương Trung Hoa bàn với công chúa, con gái ông và phân tích về lợi ích mọi bề nếu công chúa ưng đám này. Công chúa xin vua cha miễn cho và lại đem những lý do trước đây ra nói. Ông cố ép nhưng không những nàng chẳng chịu mà còn tỏ ra có điều bất kính đối với vua cha mình:
- Tâu phụ vương - Nàng giận dữ nói - Xin đừng nói với con về đám này cũng như tất cả những đám khác nữa. Nếu không, con sẽ đâm vào tim con một nhát dao để giải thoát cho mình khỏi những sự quấy rầy.
Quốc vương Trung Hoa vô cùng phẫn nộ, bảo công chúa:
- Con là một con điên và ta sẽ đối xử với con như một con điên.
Nhà vua hạ lệnh giam nàng vào một trong bảy cung điện và chỉ cho nàng mười nô tì già để hầu hạ và ngày đêm làm bạn. Trong mười người này có một người là vú nuôi của nàng. Rồi, để cho những quốc vương lân bang đã từng phái sứ bộ đến cầu hôn không còn nghĩ tới nàng nữa, ông cừ các đặc phái viên tới để báo cho họ việc xa lánh hôn nhân của công chúa. Và cũng vì ông tin là nàng điên thật nên đồng thời tuyên bố với các nước là nếu có thầy thuốc giỏi có thể chữa khỏi bệnh cho công chúa thì xin mời tới và sẽ gả công chúa cho để đền ơn nếu nàng bình phục.
- Nàng Maimoun xinh đẹp! - Danhasch nói tlếp - Sự việc lúc này đang ở tình trạng đó và tôi không quên đều đều hàng ngày tới ngắm cái vẻ đẹp vô song này. Mặc dù tính tôi ranh ma quỉ quái nhưng sẽ chẳng bao giờ làm gì thương tổn tới nàng. Xin tiên nữ cứ tới nhìn xem, tôi đảm bảo là chẳng phí công đâu. Khi nàng thấy rõ tôi chẳng phải là thằng nói láo thì sẽ phải cảm ơn tôi là đã cho nàng nhìn thấy nàng công chúa thật là một tuyệt thế giai nhân. Tôi sẵn sàng làm người hướng dẫn để phục vụ. Xin nàng cứ ra lệnh.
Thay vì đáp lại lời Danhasch, Maimoun cất tiếng cườI ròn rã hồi lâu và Danhasch ngớ ra không hiểu vì sao. Sau khi cười thoả thuê, nàng bảo:
- Khá lắm? Khá lắm? - Nàng bảo hung thần – Mi muốn làm cho ta tin chuyện đó ư? Ta tưởng là mi sẽ kể với ta cái gì đó thật là lạ lùng, kỳ quái kia hoá ra lại nói với ta về một con bé mắt toét nào đó ư? Hừ, hừ! Mi sẽ nói sao hả hung thần nếu mi được nhìn thấy như ta chàng hoàng tử đẹp trai ta vừa tới thăm hôm nay và ta rất muốn chàng xứng đáng được như vậy. Đó hoàn toàn là chuyện khác đấy mi sẽ phát điên lên cho mà xem.
Nàng Maimounl - Danhasch nói . Liệu có quá mạo muội khi muốn nàng cho biết cái chàng hoàng tử mà nàng nói đó là ai không?
- Mi nên biết là - Maimoun bảo hắn - chuyện cũng na ná như chuyện của nàng công chúa mà mi vừa nói với ta đó Nhà vua cha chàng muốn ép chàng lấy vợ bằng được. Sau nhiều lần bị gây phiền nhiễu, chàng tuyên bố thẳng thừng và đứt khoát không lấy vợ. Đó là nguyên nhân tạI sao mà lúc này ta nói chuyện với mi thì chàng đang bị giam trong một cái tháp cổ mà ở đó cũng là chỗ ở của ta và ta cũng vừa chiêm ngưỡng chàng ở đó.
- Tuyệt đối tôi không muốn nói trái ngược lại vớI nàng - Danhasch nói - nhưng xin nàng hãy cho phép tôi được ngắm chàng hoàng tử của nàng, để thấy rõ là không có người đang sống hay đã chết nào có thể so sánh được vớI nàng công chúa xinh đẹp của tôi.
- Thôi hãy im đi, quân chết tiệt?- Maimoun bác lại - Ta bảo mi một lần nữa là không sao có thể như thế được.
- Tôi chẳng muốn cố tranh cãi với nàng làm gì -Danhasch vẫn không chịu - Muốn biết là tôi nói đúng hay nói sai, chỉ có cách là nàng hãy nhận lời tôi đã đề nghị là tới gặp nàng công chúa của tôi và sau đó nàng hãy chỉ cho tôi thấy hoàng tử của nàng.
- Không cần thiết ta phải nhọc công làm việc đó - Maimoun lại nói - Có một cách khác để ta và mi đều được hài lòng. Đó là mang công chúa của nhà ngươi về đặt vào giường của hoàng tử chỗ ta. Như vậy ta và ngươi cùng dễ dàng nhìn ngắm và so sánh một cách thật kỹ càng và chấm dứt cuộc cãi vã
Danhasch bằng lòng với giải pháp của tiên nữ và muốn lập tức quay về Trung Quốc. Maimoun ngăn hắn lại:
- Hãy khoan - Nàng bảo hắn - Hãy đến đây, trước hết ta muốn chỉ cho mi cái tháp cổ mà mi phải đem nàng công chúa tới đó.
Họ cùng bay tới tháp cổ, Maimoun chỉ cho hắn thấy rồi bảo hắn:
- Thôi hãy đi đi? Và mang ngay công chúa về đây! Mi sẽ vẫn thấy ta ở đây. Nhưng hãy nghe này, ít ra là mi phải trả cho ta mốt khoản cược nếu chàng hoàng tử của ta đẹp hơn nàng công chúa của mi, và ta cũng phải trả cho ngươi khoản cược nếu nàng công chúa đẹp hơn hoàng tử.
Trời đã sáng rõ, Scheherazade ngùng lời. Nàng tiếp tục câu chuyện vào đêm sau và nói với hoàng Đế Ấn Độ:
Tâu bệ hạ, cách bờ biển Ba Tư khoảng hai chục ngày chèo thuyền, ngoài khơi có một hòn đảo có tên là đảo Những Đứa Con Của Khalédan.
“- Tâu bệ hạ, Danhasch để tiên nữ lại và vút đi Trung Quốc và quay về rất mau chóng khó tưởng tượng được, mang theo nàng công chúa xinh đẹp đang ngủ li bì. Maimoun đỡ lấy, đem vào trong buồng ngủ của hoàng tử Camaralzaman và đặt lên giường cho nằm cạnh chàng.
Khi hoàng tử và công chúa đã song song nằm bên nhau, một cuộc tranh luận xảy ra giữa tiên nữ và hung thần về chuyện người nào đẹp hơn. Họ cùng ngắm nghía và so sánh thầm. Danhasch phá im lặng trước:
- Nàng đã thấy đó - Y bảo tiên nữ - Cũng như tôi đã nói là công chúa của tôi đẹp hơn hẳn hoàng tử của nàng. Bây giờ na2ng còn nghi ngờ gì nữa không?
- Sao! Nghi ngờ ư? - Maimoun bảo – Đu1ng là ta chưa tin. Hẳn là mi bị đui thì mới thấy công chúa của mi đẹp hơn hoàng tử của ta. Công chúa của mi cũng đẹp, ta công nhận, nhưng chả nên vội vã, phải so sánh hai người với nhau một cách thật vô tư, mi sẽ thấy đúng như lời ta nói.
- Càng so sánh kỹ - Danhasch nói - tôi càng thấy không gì khác điều tôi nghĩ. Tôi đã trông thấy y như lần trông thấy đầu tiên và dù có nhìn lâu hơn thì cũng chẳng có gì thay đổi. Nhưng không sao cả, nàng Maimoun duyên dáng ạ, tôi có thể nhường phần thắng cho nàng đó, nếu nàng muốn.
- Không thể thế được - Maimoun nói - Ta không muốn tên hung thần chết tiệt như mi phải nhường ta. Ta sẽ nhờ một trọng tài làm việc phán xử, nếu mi chối từ thì tức là mi chịu thua.
Danhasch vốn sẵn sàng làm mọi việc để lấy lòng Maimonn nên đồng ý ngay. Maimoun giậm mạnh chân, mặt đất bỗng nứt ra và chui lên là một vị thần xấu xí, gù lưng, chột mắt và thọt chân nữa. Ông có sáu cái sừng mọc trên đầu và tay chân đều có móng mọc dài. Vừa đứng thẳng lên thì đất khép lại, ông nhìn thấy Mạimoun liền quì xuống trước mặt nàng khúm núm hỏi nàng có điều gì truyền dạy
- Hãy đứng lên, Caschcasch! - Nàng bảo vị thần có tên đó - Ta gọi ông lên để phán xử cho cuộc tranh cãi của ta với tên chết tiệt Danhasch này. Ông hãy liếc mắt nhìn xuống cái giường kia, và không được thiên vị nói cho chúng ta biết, theo ông thì người nào đẹp hơn, chàng trai hay là cô gái.
Caschcasch nhìn hoàng tử và công chúa với vẻ ngạc nhiên và thán phục. Một hồi lâu sau, y nói:
- Thưa bà - Y nói với Maimoun- Xin thú thực là tôi sẽ lừa dối các vị và tự phản lại mình nữa nếu bảo là người này đẹp hơn người kia. Càng ngắm kỹ họ, tôi càng thấy mỗi người một vẻ, chẳng ai thua kém ai. Người này chẳng có một tật nhỏ nào để bảo là phải nhường cho người kia. Nếu muốn biết ai hơn ai kém, theo tôi chỉ còn một cách để làm cho sáng tỏ là: lần lượt đánh thức họ dậy và xin hai vị thoả thuận với nhau là trong hai người đó, người nào tỏ ra yêu đương nồng nhiệt hơn, hối hả hơn và với tình cảm say đắm hơn thì coi như kém đẹp hơn về một mặt nào đó.
Hai người đều thấy lời khuyên của Caschcasch là có thể chấp nhận được. Maimoun liền biến thành một con rệp nhảy lên cổ Camaralzaman đốt đau đến mức làm cho chàng tỉnh đậy và sờ tay lên cổ, nhưng Malmoun đã kịp thời nhảy ra sau và trở lại nguyên hình, tất nhiên là vẫn vô hình như hai vị thần linh đứng đó để xem hoàng tử làm gì.
Lúc rụt tay lại, hoàng tử để tay mình rơi xuống tay công chúa Trung Hoa. Chàng mở mắt và vô cùng kinh ngạc thấy một cô gái nằm cạnh mình, một cô gái xinh đẹp tuyệt trần. Chàng ngóc đầu, chống khuỷu tay lên để nhìn cho kỹ. Vẻ trẻ trung và sắc đẹp quyến rũ của công chúa làm toàn thân chàng nóng ran một ngọn lửa chàng chưa từng cảm thấy mà từ trước tới nay chàng vẫn luôn luôn căm ghét.
Tình yêu xâm chiếm tim chàng mãnh liệt làm chàng thốt kêu lên: ''Ôi, sao mà xinh đẹp! Sao mà quyến rũ? Trái tim của tôi!? Mảnh hồn của tôi!?. Vừa kêu lên như vậy chàng vừa cúi xuống hôn lên trán lên hai má và lên môi nàng thật nồng nhiệt. Nếu không được Danhasch phù phép cho ngủ thật say thì nhất định nàng đã bị chàng đánh thức rồi.
- Thế nào! Cô nương xinh đẹp của ta? - Hoàng tử nói- Trước những biểu hiện tỏ tình của hoàng tử Camaralzaman như vậy mà nàng không tỉnh giấc ư? Dù nàng là ai chăng nữa thì ta cũng không phải là bất xứng với nàng.
Chàng định cố đánh thức công chúa dậy nhưng dừng lại chợt nghĩ: ''Phải chăng nàng là người mà hoàng đế cha ta muốn cho ta lấy làm vợ? Nếu vậy thì ông thật sai lầm sao không cho ta thấy nàng trước? Ta đã không phải mang tội bất kính đối với ông vì đã công khai chống đối lại, và ông cũng sẽ không bị mất thể dlện vì ta''.
Hoàng tử Camaralzaman thành tâm hối tiếc về khuyết điểm đã mắc phải và lại muốn đánh thức công chúa dậy - ''Cũng có thể là - Chàng dừng lại tự nhủ - hoàng đế muốn bắt ta quả tang, Người cho đưa công nương xinh đẹp này đến đây để thử xem ta có thực là thù ghét hôn nhân như ta đã nói không. Biết đâu là chính Người đã tự đưa nàng tới đây, biết đâu là Người đang nấp một chỗ kín mà làm cho ta xấu hổ về sự giả dối nguy trang của ta mà Người tưởng vậy. Lỗi lầm này sẽ còn nặng hơn gấp bội so với lỗi lầm thứ nhất. Để đề phòng mọi sự, ta hãy bằng lòng tạm cầm lấy cái nhẫn này để nhớ đến nàng. Đó là một chiếc nhẫn rất đẹp, công chúa đeo ở ngón tay. Chàng khéo léo tháo ra và lấy chiếc nhẫn của mình lồng vào thay thế. Xong; chàng nằm xuống và quay lưng lại chẳng bao lâu đã ngủ say như trước dưới sự phù chú của các vị thần linh.
Thấy hoàng tử Camaralzaman đã ngủ say, Danhasch đến lượt mình cũng biến thành một con rệp bò lên đốt đúng vào phía dưới môi công chúa. Nàng giật mình tỉnh dậy, ngồi lên, mở mắt và vô cùng ngạc nhiên nhìn thấy một chàng trai nằm cạnh. Từ ngạc nhìn chuyển sang thán phục, từ thán phục chuyển sang dào dạt mừng vui khi thấy người dưới mắt mình là một chàng trai trẻ rất điển trai, rất đáng yêu.
Sao? Có phải chàng mà cha ta bảo ta lấy làm chồng? Ôi! Giá mà ta biết trước? Ta đã chẳng làm cho người phảI giận dữ đối với ta. Ta đã chẳng phải chịu thiệt thòi là mất bao nhiêu lâu mới được một người chồng mà ta hết lòng yêu quý Chàng hãy dậy đi! Hãy dậy đi nào? Giữa đêm tân hôn đầu tiên mà ngủ vùi như thế thì chẳng phù hợp vớI một người chồng?
Nói xong, công chúa nắm lấy cánh tay hoàng tử Camaralzaman lay mạnh. Nhất định chàng sẽ phải thức tỉnh nếu ngay lúc đó, Maimoune không tăng thêm phù chú để chàng ngủ càng thêm li bì. Nàng lay nhiều lần như vậy, thấy chàng vẫn chưa tỉnh, nàng lẩm bẩm:
- Sao vậy! Có gì xảy ra với chàng chăng? Có kẻ tình địch ghen với hạnh phúc của hai chúng ta mà phải cầu cứu tới ma thuật chăng? Không thế thì sao lay mạnh thế mà vẫn chẳng tỉnh?
Nàng cầm lấy tay chàng âu yếm hôn và chợt nhìn thấy chiếc nhẫn ở ngón tay chàng. Sao giống nhẫn của mình vậy, nhưng sao ngón tay mình lại có một chiếc nhẫn khác. Nàng không hiểu làm sao lại có sự đổi chác này, nhưng lại đinh ninh đó là dấu hiệu của cuộc hôn nhân giữa mình và chàng, chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Muốn đánh thức chàng dậy nhưng thấy uổng công vô ích, vả lại chắc chắn là chàng chẳng thể nào lọt khỏi tay mình, nàng bảo với chàng: - Vì không sao đánh thức chàng dậy được - Nàng nói - Em cũng chẳng muốn làm giấc ngủ của chàng phải đứt quãng làm gì. Thôi, chúng ta gặp nhau sau vậy.
Rồi sau khi đặt một nụ hôn thắm thiết lên má chàng, nàng lại nằm xuống và chẳng mấy chốc lại ngủ tiếp.
Khi Maimoune thấy mình có thể cất tiếng nói mà không làm cho nàng công chúa Trung hoa thức giấc:
- Này! Hung thần chết tiệt kia - Nàng bảo Danhasch - Mi đã nhìn thấy rồi chứ? Mi có công nhận là công chúa của mi không tuyệt bằng hoàng tử của ta không? Thôi ta cũng xí xoá cho mi cái khoản đánh cuộc đó. Lần sau, khi ta đã nói sao thì hãy tin như thế nhé.
Rồi quay lại Caschcasch, nàng bảo:
- Còn ngươi, ta rất cảm ơn. Ngươi hãy cùng vớI Danhasch, xốc nàng công chúa lên và cùng đem nàng trả về giường nàng. Danhasch sẽ hướng dẫn ngươi.
Danhasch và Caschcasch chấp hành lệnh của nàng và Malmoune lại rút vào trong giếng.”
Trời sáng buộc hoàng hậu Scheherazade im tiếng. Hoàng đế Ấn Độ đứng lên và đêm tiếp, hoàng hậu kể cho Người nghe tiếp chuyện đó như sau:
Chương 19
Tên nô lệ lúng túng giận dữ, bị ngập nửa người dưới giếng tự nhủ thầm: \'\'Đúng là hoàng tử bị mất trí vì quá đau khổ, ta chỉ có thể thoát được bằng cách nói dối thôi.
- Sáng hôm sau, hoàng tử Camaralzaman thức dậy, l1ếc nhìn sang bên cạnh mình xem cô nàng xinh đẹp thấy đêm hôm qua có còn đấy không. Khi không thấy ai cả, chàng nghĩ thầm: ''Ta đã biết mà, đúng là quốc vương cha ta muốn làm ta bị bất ngờ, may mà ta đã đề phòng''.
Chàng định đánh thức tên hầu hãy còn đang ngủ, giục nó đi làm những việc thường ngày và chẳng nói gì vớI nó cả. Tên hầu mang chậu và nước tới. Chàng rửa mặt, lau người và sau khi cầu kinh, chàng cầm lấy một quyển sách và đọc một lúc.
Sau những việc làm thường ngày đó, Camaralzaman gọi tên nô lệ tới:
- Lại đây - Chàng bảo nó - Và cấm không được nói dối. Mày hãy nói cô nương ngủ cùng ta đêm qua đã tới đây bằng cách nào và ai đưa cô ấy tới?
- Thưa hoàng tử - Tên nô lệ hết sức ngạc nhiên đáp - Ngài muốn nói tới cô nương nào vậy?
- Người mà ta đã bảo mày rồi - Hoàng tử nói - Đã đến đây hoặc ai đó đưa tới đây đêm qua và đã nằm bên cạnh ta.
- Thưa hoàng tử - Tên hầu vẻ khổ sở - Con xin thề là chẳng biết một tí gì cả. Cô nương ấy có thể tới đây như thế nào? Con nằm ngay giữa cửa kia mà?
- Mày nói dối, tên vô lại kial - Hoàng tử la lên – Mày âm mưu để làm cho ta phiền não hơn và làm ta phát điên lên.
Nói xong, chàng cho nó một cái tát làm nó ngã ngửa, chàng đạp lên người nó và lấy sợi dây thừng cạnh giếng trói ghì cánh khuỷu nó lại, dòng nó xuống giếng, thả cho ngập đầu nhiều lần và bảo:
- Tao sẽ dìm mày chết đuối nếu mày không nói mau cô nương đó là ai và người nào đưa nàng đến.
Tên nô lệ lúng túng giận dữ, bị ngập nửa người dưới giếng tự nhủ thầm: ''Đúng là hoàng tử bị mất trí vì quá đau khổ, ta chỉ có thể thoát được bằng cách nói dối thôi''.
- Thưa hoàng tử - Vừa khóc mếu hắn vừa nói – Xin hãy để cho con sống, con xin ngài. Con hứa sẽ nói thật.
Hoàng tử kéo nó lên. Vừa khỏi miệng giếng, hắn vừa run vừa nói:
- Thưa hoàng tử, ngài chắc thấy rõ là con làm sao mà bẩm rõ sự việc với ngài trong tình trạng như thế này. Xin hãy cho con đi thay quần áo đã.
- Được, ta cho phép. Đi thay quần áo mau lên mà nhớ là không được giấu ta một điều gì.
Tên nô lệ đi ra sau khi khép cánh cửa buồng hoàng tử. Cứ thế nó chạy thẳng vào hoàng cung. Quốc vương đang trò chuyện với tể tướng phàn nàn không sao ngủ được cả đêm qua vì sự bất tuân và thái độ điên khùng đáng lên án của hoàng tử con ông đã dám chống lại ý chỉ.
Viên quan đại thần này cố gắng an ủi và nói để quốc vương rõ là chính hoàng tử đã buộc Người phải làm như vậy.
- Tâu bệ hạ - Ông nói - Người chẳng nên hối tiếc là đã cho bắt giữ chàng. Cứ kiên nhẫn để chàng bị giam trong một thời gian, tin chắc là rồi đây chàng sẽ từ bỏ cái tính bồng bột của tuổi trẻ và sẽ trở lại ngoan ngoãn nghe theo tất cả những gì quốc vương đòi hỏi ở chàng.
Tể tướng vừa nói tới đó thì tên nô lệ chạy vào:
- Tâu bệ hạ - Hắn nói - Con lấy làm tiếc là phải tới tâu trình hoàng thượng một tin có thể làm Người rất không được vui. Hoàng tử nói là có một cô nương đêm qua đã nằm ngủ với chàng. Rồi hoàng tử làm con như thế này đây. Cái đó rõ ràng chứng tỏ là chàng thực sự mất trí rồi.
Rồi hắn kể lại - chi tiết tất cả những gì hoàng tử Camaralzaman đã nói và đã đối xử quá đáng với hắn như thế nào. Lời lẽ của hắn nghe chắc nịch.
Nhà vua không chờ đợi cái điều phiền muộn mới này, bảo tể tướng:
- Đó, lại thêm một sự kiện đáng buồn nhất, khác hẳn với niềm hy vọng mà nhà ngươi nói với ta vừa rồi. Đi đi, chớ để mất thì giờ nữa, nhà ngươi hãy đi xem sự thể ra sao rồi về báo ta rõ.
Tể tướng tuân lệnh ngay và khi đi vào buồng hoàng tử, ông thấy chàng ngồi rất yên lặng, sách cầm tay đang đọc. Ông chào chàng, ngồi xuống cạnh và bảo:
- Tôi muốn phạt nặng tên hầu của hoàng tử đã tới làm cho hoàng đế cha hoàng tử hoảng sợ vì một tin nó mang về.
- Đó là tin gì vậy - Hoàng tử hỏi- mà làm cho hoàng thượng sợ hãi. Tôi còn có chuyện quan trọng hơn nhiều để hỏi tội tên nô lệ của tôi kia.
- Hoàng tử ạ - Tể tướng nói - Cầu Thượng đế chứng giám cho điều nó nói mong được là sự thật! Trạng thái của hoàng tử mà tôi thấy đây thật chẳng có gì đáng phàn nàn và cầu mong là được như thế mãi. Và điều đó nói lên là không có gì nghiêm trọng cả.
- Có thể là - Hoàng tử nói - nó nói lại chưa đầy đủ những gì xảy ra đâu. Nhân tiện ông tới đây, tôi thấy thật dễ chịu được hỏi một người như ông có thể biết được ngọn ngành. Cái cô nàng đêm qụa đã ngủ cùng tôi, bây giờ ở đâu rồi?
Nghe hỏi thế tể tướng sững sờ, ngơ ngác:
- Thưa hoàng tử - Ông đáp - Xin ngài chớ ngạc nhiên thấy tôi sửng sốt vì câu hỏi của ngài. Liệu có thể thế được không, tôi chưa nói đến một người phụ nữ, mà ngay đến bất cứ một người đàn ông nào trên thế gian này cũng không thể trong ban đêm mà lọt được vào tới chốn này. Phòng chỉ duy nhất một cái cửa, muốn vào thì bắt buộc phải giẫm lên bụng tên nô lệ của ngài. Xin hoàng tử hãy tĩnh trí lại và ngài sẽ thấy là mình đã nằm mơ và giấc mơ đó đã để lại dấu ấn sắc nét trong đầu óc ngài.
- Tôi không muốn nghe ông nói linh tinh nữa – Hoàng tử cao giọng - Tôi muốn biết rõ cái cô nàng đó hiện nay ra sao và ta ở đây, trong một nơi mà ta biết làm mọi ngườI phải tuân lệnh ta.
Nghe lời lẽ cứng rắn này, tể tướng vô cùng bối rối không sao tả được. Ông nghĩ cách thoát ra thế nào cho thật êm. Bằng thái độ thật mềm mỏng, ông khúm núm hỏi hoàng tử xem chính chàng có trông thấy cô nương đó không.
- Có, có chứ - Hoàng tử vội đáp- Chính mắt ta đã nhìn thấy nàng và ta nhận rõ là chính ông đã bố trí để giương bẫy ta. Nàng cũng đã ,khéo léo đóng vai trò mà ông đã cắt đặt là không nói với ta một lời, là giả vờ ngủ say và rút ra ngay sau khi ta ngủ lại. Chắc là ông đã rõ rồi và chắc là nàng cũng chẳng quên kể lại tỉ mỉ với ông.
- Thưa hoàng tử - Tể tướng cãi - Tôi xin thề là tất cả những điều ngài vừa nói đều hoàn toàn không có. Quốc vương cha ngài và tôi không hề đưa cái cô nương mà ngài nói đó tới đây. Xin cho phép tôi được nói một lần nữa là ngài chỉ thấy cô nương đó trong giấc mơ mà thôi.
- Thì ra ông tới đây để giễu cợt ta phải không – Hoàng tử nổi giận nói to - Và lại còn dám nói thẳng vào mặt ta là những điều nói với ông là trong giấc mơ?
Chàng nắm ngay lấy râu tể tướng và giơ tay giơ chân đấm đá mãi cho đến khi mệt lử.
Vị tể tướng khốn khổ đành kiên nhẫn chịu cơn lôi đình của hoàng tử Camaralzaman. ''Thế là - Ông tự nhủ -ta cũng lại rơi vào hoàn cảnh như tên nô lệ. Thật rất may nếu ta cũng như nó được thoát khỏi cái tai vạ này''. Giữa , trận đòn túi bụi, ông kêu lên:
- Hoàng tử ơi, hãy dừng tay một chút, tôi có điều muốn trình bày.
Hoàng tử đấm đá cũng đã mệt, dừng lại cho nói.
- Tôi xin thú thục - Tể tướng giả vờ nói - là cũng có cái gì đó trong những điều ngài nói. Nhưng chắc ngài cũng rõ là nhiệm vụ của một thượng thư là phải thi hành lệnh của hoàng đế, đó là điều tối cần thiết. Nếu được ngài rộng lòng cho phép, tôi sẵn sàng xin đi tâu trình lại với hoàng đế tất cả những gì ngài ra lệnh.
- Ta cho phép ông - Hoàng tử bảo - Đi đi, và tâu với Người là ta muốn cưới cô nương mà Người đã gửi đến hoặc dẫn đến cho ta và ta đã cùng nàng ngủ với nhau đêm qua làm vợ. Mau lên, đi đi và mang về ngay cho ta lời phúc đáp.
Tể tướng cúi đầu xuống thật thấp từ giã chàng và chỉ thấy thực sự thoát nạn khi đã ra bên ngoài tháp cổ và khép lại cánh cửa buồng của hoàng tử.
Tể tướng về bệ kiến Schahzaman với bộ mặt thiểu não làm cho nhà vua cũng thật phiền lòng.
- Thế nào - Quốc vương hỏi - Ngươi thấy tình trạng con ta ra sao?
- Tâu bệ hạ - Tể tướng đáp - Điều mà tên nô lệ tâu trình là hoàn toàn đúng.
Ông kể lại cuộc đối thoại của ông vôi hoàn tử Camaralzaman, sự nổi xung của hoàng tử khi ông bảo là không sao có thể có một cô nương nào đó đến ngủ vớI chàng được, sự đối xử tồi tệ của chàng với ông và sự khôn khéo của ông để thoát khỏi tay chàng.
Hoàng đế Schahzaman càng buồn nẫu ruột vì chuyện tể tướng kể vì ông rất mực yêu thương hoàng tử. Ông muốn tự mình làm rõ sự thật, nên kéo tể tướng đi theo cùng tới ngôi tháp cổ''.
- Nhưng, tâu bệ hạ - Đến đây hoàng hậu Scheherazade ngừng lại - Trời đã bắt đầu sáng rõ.
Đêm sau kể tiếp, nàng nói với hoàng Đế Ân Độ:
Tâu bệ hạ - ScheherazaDe nói:
- Tâu bệ hạ, hoàng tử Camaralzaman nghênh đón vua cha trong ngôi tháp cổ mà chàng đang bị giam cầm đầy vẻ kính trọng. Nhà vua ngồi và sau khi bảo hoàng tử ngồi xuống cạnh mình, ông hỏi con hết câu nọ đến câu kia được hoàng tử trả lời rất cung kính và khôn ngoan. Thỉnh thoảng ông lại nhìn sang tể tướng như ý muốn nói là mình chẳng thấy có gì là loạn trí ở hoàng tử như tể tướng trình bày cả mà chính tể tướng bị loạn trí thì đúng hơn.
Cuối cùng nhà vua nói với hoàng tử về cái cô nương đó:
- Con trai của ta, con hãy nói cho cha rõ cái cô nàng đã ngủ với con đêm hôm đó như người ta nói là ai vậy?
- Tâu phụ hoàng - Camaralzaman đáp - Con khẩn khoản xin Người đừng làm con buồn rầu thêm nữa về vấn đề mà người ta đã làm cho con khổ quá rồi. Xin Người hãy cho con cưới nàng làm vợ. Sự chán ghét đàn bà mà con đã tỏ với cha từ trước tới nay đã tiêu tan trước cái sắc đẹp trẻ trung đã làm con say đắm. Không khó khăn gì mà con xin thú thực với cha sự yếu đuối của mình. Con sẵn sàng đón nhận nàng từ tay cha với lòng biết ơn vô hạn.
Vua Schahzaman sửng sốt vì câu trả lời của hoàng tử mà ông thấy không còn tỉnh táo khôn ngoan như những lờI chàng nói trước đó.
- Con ơi! - Ông nói - Những lời con nói đã làm cha hết sức ngạc nhiên. Cha xin thề nhân danh ngôi báu mà cha sẽ truyền cho con là cha không biết một chút gì về cái cô nương mà con nói. Cha không tham dự vào việc này nếu quả thật là có người đã tới. Mà làm sao cô ta có thể vào đây được nếu không được sự đồng ý của cha. Dù là tể tướng có nói gì về chuyện đó thì chẳng qua cũng chỉ để làm cho con dịu cơn giận dữ đi thôi. Có thể đó chỉ là một giấc chiêm bao, con nên cẩn thận và tĩnh trí lại đi.
- Tâu bệ hạ - Hoàng tử nói - Con sẽ mãi mãi không xứng đáng với biết bao từ tâm của cha nếu không tin vào những gì cha vừa nói. Nhưng xin Người hãy kiên nhẫn nghe và xét xem những gì con được bầy tỏ với Người sau đây có phải là một giấc chiêm bao không.
Thế rồi hoàng tử Camaralzaman kể lại cho vua cha nghe chàng đã thức dậy như thế nào. Chàng cũng có nới thêm lên một chút về vẻ yêu kiều quyến rũ của cô gái chàng thấy nằm bên cạnh, tình yêu chàng thấy bột khỏi lúc đó và tất cả sự cố gắng vô ích của chàng để đánh thức nàng dậy. Chàng cũng không giấu vua cha điều gì đã khiến chàng thức dậy và ngủ lại sau khi đã trao đổi nhẫn cho nhau. Và khi kết thúc câu chuyện, chàng rút chiếc nhẫn từ ngón tay và đưa cho vua cha.
- Tâu phụ vương - Chàng nói - Nhẫn của con chắc cha chẳng lạ gì vì Người đã nhìn thấy nhiều lần. Sau tất cả những cái đó, con hy vọng là Người sẽ không cho con là mất trí như người ta đã làm cho Người tin như vậy.
Vua Schahzaman thấy những điều mà hoàng tử con ông vừa trình bày là sự thật nên ông chẳng biết nói sao cả. Sự kinh ngạc của ông quá lớn làm ông lặn người đi hồi lâu.
Hoàng tử lợi dụng giây phút đó, tâu thêm:
- Tâu phụ hoàng, tình yêu say đắm mà con cảm thấy với cô nương kiều diễm đó mà con còn lưu giữ hình ảnh quí báu trong tim, đã mãnh liệt tới mức con không sao mà cưỡng lại được nữa. Xin Người rủ lòng thương ban cho con cái hạnh phúc được có nàng.
- Con ạ. Sau khi nghe con trình bày, và sau lúc cha được thấy chiếc nhẫn đó - Vua Schahzaman nói - thì cha không còn nghi ngờ gì về mối tình say đắm của con là không có thật và mối tình đó đã được nảy nở do cô gái mà con thấy. Cầu mong Thượng đế cho tôi được biết nàng, cái cô nương đó. Con sẽ được thoả lòng từ lúc này, và ta sẽ là người cha hạnh phúc nhất thế gian. Nhưng tìm nàng ta ở đâu bây giờ? Làm sao và bằng lối nào mà nàng ta vào được đây mà ta không biết gì, mà không có sự đồng ý của ta? Vì sao nàng ta lại vào đây chỉ để nằm cạnh con, để cho con nhìn sắc đẹp và vẻ mĩ miều của nàng ta và khêu gợi tình yêu của con trong khi nàng ngủ và khi con ngủ thì nàng lại biến đi? Cha không làm sao mà hiểu được cái chuyện rắc rối này. Con ạ, nếu trời đất mà không phù hộ thì nàng đã đẩy chúng ta, cả con và cha xuơng mồ rồi.
Nói xong, ông cầm lấy tay hoàng tử bảo:
- Lại đây, để hai cha con ta cùng buồn khổ với nhau, con thì trong một tình yêu vô vọng còn cha thì vì nhìn thấy con sầu khổ mà vô kế khả thi
Vua Schahzaman kéo hoàng tử ra khỏi toà tháp cổ đưa về hoàng cung mà ở đây với mối tình tuyệt vọng vì yêu tha thiết một cô nương xa lạ vô danh, chàng phát ốm liệt giường. Nhà vua đóng chặt ngự phòng cùng với con than thở nhiều ngày chẳng ngó ngàng gì đến việc nước.
Tể tướng là người duy nhất được ra vào tự do, một hôm tới bệ kiến để tâu với nhà vua là tất cả triều thần cũng như dân chúng bắt đầu xì xào về việc không thấy vua xuất hiện hàng ngày để xử lý việc quốc gia như thường lệ, ông nói sẽ không chịu trách nhiệm về những lộn xộn có thể xảy ra.
- Xin bệ hạ hãy lưu tâm - Ông nói- Tôi biết rõ ràng là sự có mặt của bệ hạ làm cho hoàng tử đỡ đau khổ và ngược lại sự có mặt của hoàng tử cũng làm cho bệ hạ đỡ buồn phiền, nhưng xin bệ hạ cần phải nghĩ đến việc làm sao cho tất cả không bị đổ vỡ. Xin bệ hạ hãy nghe theo lời tôi cùng hoàng tử chuyển sang lâu đài tại hòn đảo nhỏ, chẳng xa cung điện là bao và chỉ cần thiết triều mỗi tuần hai buổi. Trong khi vì công việc mà Người phải xa hoàng tử thì phong cảnh đẹp, không khí tốt lành và cảnh quan kỳ diệu của hòn đảo sẽ làm cho hoàng tử khuây khoả và dễ dàng chịu đựng được sự vắng mặt ngắn ngủi của Người.
Vua Schahzaman tán thành lời khuyên đó và khi cung điện trên đảo, mà đã lâu ông không lui tới, được bài trí chu đáo, ông cùng hoàng tử chuyển tới đó và chỉ xa chàng mỗi tuần hai lần để thiết triều thôi. Còn hàng ngày thường thường ông qua thời gian bên cạnh chàng để, lúc thì dùng lời nhẹ nhàng an ủi, lúc thì cùng chia nỗi u buồn với chàng.
Chương 20
Bà vú nuôi cố sức giằng co để thoát khỏi bàn tay của công chúa và một mạch chạy về cung hoàng hậu, mẹ đẻ ra công chúa.
Sáng hôm sau thức dậy, công chúa Trung Hoa quay sang phải, quay sang trái và khi không nhìn thấy hoàng tử Camaraìzaman bên cạnh, nàng cất tiếng thất thanh gọI các nô tì làm cho chúng vội vàng chạy lại xúm quanh giường nàng. Bà vú nuôi đứng phía đầu giường hỏi nàng cần gì và có gì xảy ra với nàng.
- Hãy nói cho ta biết - Công chúa bảo - Chàng trai mà ta hết lòng yêu thương, đã nằm cạnh ta đêm qua, bây giờ ra sao rồi?
- Thưa công chúa - Bà vú đáp - Chúng tôi chẳng hiểu công chúa nói gì cả. Nàng nói rõ ra xem sao.
- Đó là - Công chúa nói - Một chàng trai khôi ngô tuấn tú và vô cùng đáng yêu, nằm ngủ bên cạnh ta đêm qua mà ta đã vuốt ve chàng đã lâu và làm mọi cách để cho chàng tỉnh dậy, nhưng không kết quả - Ta muốn hỏi các người là chàng đâu rồi.
- Thưa công chúa - Bà vú lại nói - Chắc là nàng muốn đùa cợt với chúng tôi chăng. Mời công chúa dậy đi thôi.
- Ta nói rất nghiêm chỉnh đấy - Công chúa cãi - Và ta muốn biết lúc này chàng ở đâu.
- Nhưng mà, thưa công chúa - Bà vú nhấn mạnh - Công chúa chỉ có một mình khi chúng tôi đưa nàng đi ngủ tối hôm qua và chẳng có ai vào ngủ cùng với công chúa cả. Chúng tôi biết rõ như thế mà.
Công chúa Trung Hoa không dằn mình được nữa. Nàng túm lấy tóc bà vú, vừa tát vừa đấm:
- Mi sẽ phải nói, đồ phù thuỷ già, nếu không ta sẽ đánh chết mi.
Bà vú nuôi cố sức giằng co để thoát khỏi bàn tay của công chúa và một mạch chạy về cung hoàng hậu, mẹ đẻ ra công chúa. Bà mang bộ mặt sưng vù đầm đìa nước mắt bệ kiến hoàng hậu: Hoàng hậu vô cùng kinh ngạc hỏi ai đã đã làm cho vú trong tình trạng tả tơi như vậy.
- Bẩm hoàng hậu. Bà vú tâu - Xin lệnh bà hãy xem công chúa đối xử với tôi như thế này đây. Nàng có lẽ đánh tôi chết nếu tôi không giằng ra trốn thoát.
Rồi bà kể hết đầu đuôi chuyện vì sao mà công chúa nổi trận lôi đình. Hoàng hậu nghe mà thấy vừa ngạc nhiên vừa buồn bã:
- Lệnh bà thấy đó - Bà vú nuôi nói thêm - Công chúa đúng là đã hoàn toàn mất trí rồi. Lệnh bà có thể thấy rõ nếu người bớt chút thời giờ tới thăm nàng.
Hoàng hậu Trung Hoa rất quan tâm tới câu chuyện vừa nghe vì bà rất yêu thương con gái. Bà bắt người vú nuôi phải dẫn bà tới ngay chỗ công chúa.''
Hoàng hậu Scheherazade muốn kể tiếp nhưng thấy trời đã bắt đầu sáng. Nàng im tiếng và đêm sau nàng nói với hoàng Đế Ấn Độ
Trong khi những chuyện trên xảy ra tại kinh đô của Vua Schahzaman, thì hai vị thần Danhasch và Caschcasch mang công chúa Trung Hoa đặt lại vào giường trong lâu đài mà nhà vua Trung Hoa đã giam nàng.
“- Tâu bệ hạ, hoàng hậu Trung Hoa tới cung điện nơi công chúa đang bị cấm cung, ngồi xuống bên cạnh con gái và sau khi hỏi thăm sức khoẻ, bà hỏi nàng nguyên nhân vì sao mà giận dữ đánh đập bà vú nuôi:
- Con gái ạ - Bà bảo - Như thế là không tốt đâu. Công chúa của một quốc gia lớn như con thì không được để cho những gì là thái quá lôi cuốn.
- Thưa mẫu hậu - Công chúa nói- Con thấy rõ là Người cũng tới đây để trêu cợt con. Nhưng con xin nói để cho mẫu hậu rõ là con sẽ chẳng thấy thanh thản chừng nào mà con không được kết hôn cùng chàng hiệp sĩ đáng yêu đã cùng nằm với con đêm qua. Chắc mẫu hậu phải biết rõ là chàng ở đâu. Con xin người cho chàng trở lại đây.
- Con gái ới - Hoàng hậu nói - Con làm ta ngạc nhiên. Ta chẳng hiểu là con nói gì cả.
Công chúa chẳng còn giữ lễ độ gì nữa.
- Thưa lệnh bà - Nàng nói - Đức vua cha con và lệnh bà mẹ của con, đã hành tội con để con lấy chồng khi con không muốn. Bây giờ ý muốn đó đã đến, và con nhất định người chồng của con phải là chàng hiệp sĩ mà con đã nói với mẹ, nếu không con sẽ tự sát.
Hoàng hậu nhẹ nhàng bảo con:
- Con gái của mẹ, con cũng biết rất rõ là chỉ có một mình con ở đây và không có bất cứ một người nam giới nào vào đây được
Nhưng, đáng lẽ lắng nghe thì công chúa lại ngắt lời bà và vùng vằng làm những cử chỉ giận dỗi khiến hoàng hậu phải buồn rầu rút lui trở về nói hết mọi chuyện với quốc vương.
Vua Trung Quốc muốn tự mình nắm rõ sự thật nên tới ngay nơi ở của công chúa hỏi nàng phải chăng những chuyện ông vừa được biết là đúng sự thật.
- Tâu bệ hạ - Công chúa nói - Chỉ xin Người gia ân trả lại cho con người chồng đã nằm cạnh con đêm hôm trước. - Sao? Con gái của cha - Nhà vua sửng sốt - Có người nào đó đã ngủ cùng với con đêm qua ư?
- Thế là thế nào, tâu bệ hạ - Công chúa không để cho nhà vua nói tiếp
- Người hỏi phải chăng có người nào đó đã nằm ngủ với con ư! Chính Người đã biết rõ mà. Đó là chàng hiệp sĩ điển trai nhất dưới bầu trời này. Xin cha hãy trả chàng lại cho con, xin cha đừng từ chối. Để phụ hoàng tin - Nàng tiếp - Là con đã thấy chàng hiệp sĩ đó, là chàng đã cùng nằm với con, là con đã vuốt ve âu yếm chàng, là con đã cố gắng làm cho chàng thức dậy mà không được, thì xin cha hãy nhìn chiếc nhẫn này.
Công chúa giơ bàn tay ra và hoàng đế Trung Quốc không biết nói sao khi nhìn chiếc nhẫn và nhận ra đó là nhẫn đàn ông. Nhưng vì ông không sao hiểu được tất cả những gì nàng trình bày và ông đã nhốt nàng lại vì cho là nàng bị điên thì lúc này ông lại càng tin là nàng điên rồ.Vì vậy, không nói gì thêm nữa sợ nàng làm chuyện gì hung hăng với mình và với tất cả những ai tới gần, ông cho trói nàng thật chặt và chỉ cho bà vú nuôi được tới gần chăm sóc và cửa buồng được canh gác nghiêm ngặt.
Hoàng đế Trung Quốc hết sức đau buồn về nỗi bất hạnh của công chúa mà ông tưởng bị loạn trí nặng nề. Ông nghĩ mọi cách để chữa trị cho nàng. Ông cho triệu tập các triều thần và sau không nói rõ tình trạng bệnh tật của công chúa, ông tuyên bố.
- Nếu có người nào dó trong các khanh thành thạo nhận chữa bệnh cho công chúa và làm cho nàng khỏi bệnh, ta sẽ gả cho làm vợ và sẽ là người thừa kế ngôi báu, nốI ngôi sau khi ta chết.
Khát khao được lấy một công chúa xinh đẹp và hi vọng được trị vì một quốc gia hùng mạnh như đất nước Trung Hoa đã tác động lớn đến đầu óc một viên quan đã luống tuổi có mặt lúc đó. Vì ông ta là một pháp sư có bản lĩnh cao cường, ông ta cho mình là có thể thành công nên liền tới nhà vua xin chữa.
- Ta chấp nhận - Nhà vua nói - Nhưng ta muốn cảnh báo trước là ta sẽ cho chặt đầu nếu nhà ngươi thất bại trong việc chạy chữa. Thật là không công bằng nếu nhà ngươi được một phần thưởng lớn như vậy nếu thành công mà không phải chỉu sự rủi ro mất mát gì về phía nhà người khi thất bại. Điều ta nói với nhà ngươi cũng là điều ta muốn nói với tất cả những ai tự nguyện sau nhà ngươi, trong trường hợp ngươi không nhận điều kiện như vậy tức là nhà ngươi không thành công.
Viên quan chấp nhận điều kiện và nhà vua tự dẫn y đến nơi công chúa. Công chún che mặt khi nhìn thấy tên quan.
Tâu phụ vương - Nàng bảo cha- Sao Người lại bất ngờ đưa tới đây một người đàn ông mà con không quen biết và đạo giáo cấm con không được nhìn.
- Con gái ơi? - Nhà vua nói - Con chớ nên bất bình về sự có mặt của người này. Đó là một trong các đại thần trong triều muốn cầu hôn con.
Tâu phụ vương - Công chúa nói- Đó không phải là người mà cha đã gả cho con mà con đã nhận làm của tin chiếc nhẫn con đang mang đây: Mong cha sẽ cho là không tốt khi con lại nhận lời một người khác.
Viên quan chờ đợi là công chúa sẽ nói và làm những chuyện điên rồ. Y rất ngạc nhiên thấy nàng bình thản và nói năng đúng mực như vậy và y biết rất rõ là nàng chẳng điên rồ một chút nào ngoài một tình yêu mãnh liệt đã được hình thành rất có căn cứ. Y không dám tự tiện trình bày với nhà vua. Hẳn là quốc vương không sao chịu được việc công chúa yêu một người không phải là người ông muốn cho con làm chồng. Y phủ phục xuống chân vua:
Tâu bệ hạ - Y nói - Sau những gì thần đã nghe được thì việc chữa chạy cho công chúa hoàn toàn vô ích. Thần chẳng có thứ thuốc nào trị được bệnh đó và tính mệnh của thần xin tuỳ theo ý bệ hạ.
Nhà vua bực mình về sự bất lực của viên đại thần và viên quan này đã gây phiền muộn cho mình nên đã cho chặt đầu y.
Ít ngày sau đó, để khỏi bị trách cứ là không quan tâm đầy đủ tìm mọi cách trị bệnh cho công chúa, nhà vua cho ban bố khắp thành là nếu có một thầy lang, một nhà chiêm tính, một pháp sư nào đó có nhiều kinh nghiệm chữa được bệnh mất trí cho công chúa thì cứ tới xin bệ kiến, với điều kiện là mất đầu nếu không chữa khỏi. Ông còn cho ban bố cũng vấn đề này trong tất cả các thành phố chính trong nước và ở tất cả các triều đình các quốc gia lân cận Người tới đầu tiên là một nhà chiêm tinh kiêm pháp sư. Vua cho một hoạn nô dẫn tới nơi công chúa bị cấm cung. Nhà chiêm tinh rút ra từ trong túi mang theo một cái ống dùng để xem sao, một quả cầu nhỏ, một bếp lò, nhiều loại thuốc xông, một cái lọ đồng và nhiều vật dụng khác. Ông ta đòi mang lửa đến.
Công chúa Trung Hoa hỏi tất cả những dụng cụ ấy có nghĩa gì?
- Thưa công chúa - Pháp sư đáp - Đó là để bắt ma quái nó đang ám công chúa, đem nó mang nhất vào cái lọ này và ném nó xuống đáy biển
- Cái tên chiêm tinh chết tiệt này! - Công chúa kêu lên -Mi nên biết rằng ta chẳng cần gì đến những thứ đó, rằng ta rất tỉnh táo minh mẫn và chính mi mới là tên loạn trí.
Nếu mi thực sự có bản lĩnh thì hãy dẫn người ta yêu đến đây với ta, đó là điều tốt nhất mà mi có thể phục vụ ta đấy.
- Thưa công chúa - Nhà chiêm tinh nói - Nếu là như vậy, thì không phải ở tôi mà là nàng phải chờ đợi ở hoàng đế cha nàng.
Y cho lại vào túi tất cả những gì vừa lôi ra, bực mình vì đã nhẹ dạ nhận đi chữa một căn bệnh tưởng tượng.
Khi hoạn nô dẫn nhà chiêm tinh trở lại trước hoàng đế Trung Hoa, nhà chiêm tinh không đợi hoạn nô tâu trình, tự mình mạnh dạn phát biểu
Tâu bệ hạ, theo như lời bệ hạ bố cáo và tự Người khẳng định, tôi đinh ninh là công chúa điên rồ do đó chắc chắn là với những bí quyết trong tay, tôi có thể đưa được nàng trở lại người có thần kinh lành mạnh. Nhưng chẳng lâu la gì mà tôi phát hiện ra ngoài bệnh si tình ra thì nàng không mắc bệnh gì khác, và nghệ thuật của tôi chưa đạt tới lĩnh vực điều trị được bệnh tương tư. Chính hoàng thượng có ưu thế hơn cả mọi người có thể chữa ngay bệnh cho công chúa bằng cách hãy cho nàng kết hôn với ngườI chồng mà nàng đòi hỏi.
Nhà vua cho nhà chiêm tinh này là hỗn xược và xử tội chết. Để không làm cho bệ hạ nhàm chán vì những sự việc trùng lặp thiếp xin nói ngay là sau đó còn có tới năm chục chiêm tinh gia, thầy thuốc và pháp sư cùng bị chung số phận. Đầu của họ được treo trước cổng thành.
Chương 21: Chàng hoàng tử
Rồi Marzavan kể tất cả những gì chàng biết về công chúa cho hoàng tử nghe từ cái đêm định mệnh hai người gặp nhau một cách rất kỳ lạ.
Bà vú nuôi của công chúa Trung Hoa có một người con trai tên là Marzavan, anh em cùng dòng sữa với công chúa, bà nuôi dạy cùng với công chúa. Tình thân của họ rất sâu sắc trong thời thơ ấu, suốt thời gian họ sống gần nhau, họ coi nhau như anh em, ngay khi tuổi đã hơi lớn và buộc phải sống xa nhau.
Giữa nhiều các môn học mà Marzavan học tập rèn luyện từ thuở niên thiếu, Chàng có xu hướng đi sâu vào khoa chiêm tinh tư pháp, khoa bói toán và nhiều môn khoa học huyền bí khác mà chàng tỏ ra rất có năng khiếu. Chưa vừa lòng với tất cả những gì đã học được ở các thầy, khi thấy đã có tương đối đủ sức để chịu đựng mệt mỏI đường trường, chàng bèn tổ chức những chuyến đi chu du khắp nơi để học hỏi. Không có một danh nhân nào ở bất cứ lĩnh vực khoa học nào, lĩnh vực nghệ thuật nào mà chàng không tìm đến để thụ giáo dù phải đi tới những tỉnh thành rất xa xôi hẻo lánh.
Sau rất nhiều năm vắng mặt, Marzavan cuối cùng trở về kinh đô Trung Quốc và những thủ cấp sắp hàng mà chàng nhìn thấy trên cổng thành làm chàng cực kỳ kinh ngạc. Khi về tới nhà chàng hỏi vì sao mà trên cổng thành lại treo nhiều thủ cấp và trên tất cả, chàng hỏi tin tức về công chúa, cô em cùng dòng sữa mà chàng không bao giờ quên. Vì người ta sẽ không làm cho chàng thoả mãn được nếu không gộp cả hai câu hỏi của chàng lại. Chàng chỉ biết được về đại thể những điều muốn biết trong khi chờ mẹ, bà vú nuôi của công chúa nói cho biết rõ ràng hơn.
Scheherazade ngừng lại ở đoạn này. Nàng kể tiếp câu chuyện vào đêm sau theo yêu cầu của hoàng Đế Ấn Độ.
“- Tâu bệ hạ - Nàng nói - Tuy là bà vú nuôi, mẹ chàng Marzavan rất bận về việc chăm nom công chúa Trung Quốc nhưng cũng hay tin con trai thân yêu đã trở về. Bà cũng thu xếp được thời gian để về ôm hôn và chuyện trò với con một lát. Sau khi bà, nước mắt lưng tròng, kể cho con nghe tình trạng thảm thương của công chúa và nguyên nhận vì sao mà hoàng đế Trung Hoa trừng phạt nàng, Marzavan xin mẹ tạo cho chàng điều kiện bí mật đến thăm nàng không để nhà vua biết. Bà vú nuôi suy nghĩ một lát rồi bảo chàng:
- Mẹ chưa biết nói sao với con bây giờ. Nhưng chờ đến mai, cũng giờ này, có thế nào mẹ sẽ cho con biết.
Vì ngoài bà vú nuôi ra, không ai được tới gần công chúa nếu chưa được người chỉ huy hoạn nô canh gác cửa cho phép. Bà vú nuôi biết người này mới chỉ được phục vụ thời gian gần đây nên những việc xảy ra trong triều trước đây hắn ta không rõ. Vì vậy bà bảo hắn:
- Anh biết tôi là người đã nuôi nấng công chúa, nhưng chắc là chưa biết tôi đã cùng nuôi đứa con gái của tôi cũng cùng một tuổi chung với nàng. Tôi đã gả chồng cho nó cách đây chưa lâu. Công chúa vốn rất yêu thương em nó, rất muốn gặp em nhưng không muốn để cho ai biết lúc vào cũng như lúc ra.
Bà vú nuôi trình bày thêm nữa, nhưng người chỉ huy hoạn nô gạt đi:
- Thế là đủ rồi - Hắn bảo - Tôi sẽ làm tất cả những gì thuộc phạm vi quyền hạn của tôi có thể làm công chúa vui lòng. Hãy bảo con gái bà đến đi hoặc bà tự mình đem cô ấy tới đây vào chập tối nay và cho vào buồng công chúa lúc nhà vua đã trở lại hậu cung. Cửa sẽ để mở sẵn đấy.
Tối hôm đó, bà vú nuôi tìm con trai, cải trang cho Marzavan thành một phụ nữ thật khéo khiến không ai nhận ra đó là một người đàn ông. Bà cùng con đi tới toà tháp cổ. Viên hoạn nô không nghi ngờ gì cho đó là con gái bà, mở cửa và để cho hai người cùng và
Trước khi giới thiệu Marzavan, bà tới gần công chúa:
- Thưa công chúa - Bà bảo nàng- Đây không phải là một người phụ nữ mà là Marzavan con trai vú vừa đi chu du trở về mà vú tìm cách cho nó vào thăm công chúa dướI bộ quần áo này. Vú hy vọng là công chúa cho nó vinh dự được tỏ lòng kính trọng nàng.
Nghe tên Marzavan, công chúa vui mừng khôn xiết.
- Hãy lại gần đây, anh trai! Và hãy cất cái mạng che mặt đi! Không có luật nào cấm anh trai và em gái không được nhìn thẳng mặt nhau.
Marzavan cung kính chào, nàng không để chàng kịp nói, đã vội bảo:
- Tôi rất vui mừng thấy anh được hoàn toàn khoẻ mạnh sau bao năm vắng mặt chẳng có một lời báo tin về, ngay cả đối với mẹ hiền của anh.
- Thưa công chúa- Marzavan nói- Tôi vô cùng cảm ơn tấm lòng tốt của công chúa. Tôi chờ đợi ở công chúa khi về đây, những tin tức tốt lành hơn là những điều tôi đã được biết và chứng kiến với tất cả sự đau buồn có thể tưởng tượng được. Tôi cũng rất vui mừng đã về được sớm để đem lại cho nàng sự lành bệnh cần thiết, sau thất bại của bao nhiêu người khác. Nếu tôi không đạt được kết quả trong việc này, sau bao nhiều công phu nghiên cứu và đi đây đi đó học hỏi thì tôi không tự cho mình là được thưởng công xứng đáng.
Nói xong Marzavan lấy ra quyển sách và các vật dụng khác tưởng cần phải mang theo đựa vào những lời mẹ chàng nói về bệnh tình công chúa.
- Sao? Anh trai? - Nàng kêu lên khi thấy chàng lôi ra các thứ lỉnh kỉnh - Anh cũng tin như mọi người là tôi điên rồ ư? Chớ có nhầm và hãy nghe tôi nói đây.
Công chúa kể với Marzavan tất cả câu chuyện của nàng, không quên một chi tiết nào kể cả chuyện trao đổI nhẫn mà nàng chìa ra cho chàng thấy.
- Tôi không giấu anh một tí gì - Nàng nói thêm - về tất cả những chi tiết tôi vừa kể. Đúng là có một cái gì đó không sao hiểu nổi làm cho mọi người cứ tưởng là tôi mất trí, nhưng người ta lại không chú ý những điều còn lại như tôi đã kể.
Khi công chúa nói xong, Marzavan lòng đầy thán phục và ngạc nhiên, cúi đầu hồi lâu không nói gì. Cuối cùng chàng ngửng đầu lên cương quyết:
- Thưa công chúa - Chàng nói - Nếu tất cả những gì công chúa vừa kể là thật, mà tôi cũng tin như thế, nên tôi không thất vọng mà sẽ làm cho nàng được thoả nguyện. Chỉ xin nàng hãy cố gắng kiên nhẫn thêm một thời gian nữa, cho tới khi tôi đảo qua tất cả các quốc gia mà tôi chưa qua, và tới khi nàng được tin tôi trở về thì hãy tin chắc người mà nàng đang yêu say đắm không còn ở xa nàng nữa đâu.
Sau những lời này, Marzavan xin cáo biệt công chúa và lên đường ngay ngày hôm sau.
Marzavan đi từ tỉnh nọ sang tỉnh kia, từ thành phố này sang thành phố khác, từ hải đảo gần đến hải đảo xa, ở đâu chàng cũng nghe người ta nói về nàng công chúa Badoure (đó là tên công chúa Trung Quốc) và chuyện của nàng.
Sau bốn tháng, chàng du khách của chúng ta tới Tarf, một thành phố ven biển, to rộng và rất đông dân mà ở đây họ không nói tới công chúa Badoure mà lại nói về hoàng tử Camaralzaman. Họ nói chàng đang ốm và kể chuyện của chàng nghe từa tựa như ehuyện của công chúa Badoure. Marzavan mừng rỡ không sao tả xiết. Chàng hỏi chàng hoàng tử đó ở chỗ nào trên trái đất này và được biết: tới chỗ chàng có hai đường thuỷ bộ và đường thuỷ là đường gần hơn nhiều.
Marzavan chọn con đường sau và đáp một thuyền buôn được xuôi chèo mát mái tới tận gần kinh đô đất nước của honng đế Schah zaman. Nhưng trước khi cập bến cảng, do sự vụng về của hoa tiêu, thuyền đụng vào đá ngầm chìm nghỉm. Lâu đài trong đó có hoàng tử Camaralzaman và quốc vương Schahzaman lúc đó đang chuyện trò cùng tể từớng của mình chẳng cách xa chỗ đắm thuyền là mấy.
Marzavan vốn rất giỏi bơi lội. Chẳng một phút luỡng lự chàng lao xuống nước và bơi xuống tận chân toà lâu đài của quốc vương Schahzaman, ở đây chàng được cứu hộ theo lệnh của tể tướng và ý của quốc vương. Chàng được thay quần áo ướt, được đối xử tử tế và khi đã thấy chàng hồi sức, chàng được dẫn tới trước tể tướng theo lệnh của ông.
Vì Marzavan là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, dáng điệu lễ độ nên được tể tướng tiếp đãi rất thịnh tình nhất là sau những câu hỏi han, chàng đáp lại thật thông minh chính xác. Tể tướng cảm nhận thấy kiến thức của chàng thật sâu rộng. Vì vậy ông nói:
- Nghe chàng nói, ta thấy chẳng phải là người thường. Cầu thượng đế ban ơn, trong những chuyến chu du thiên hạ, chàng có học được bí quyết gì để chữa cho một con bệnh đã làm cho cả triều đình này lo phiền rất lâu rồi không?
Marzavan đáp là nếu chàng biết căn bệnh của người bị ốm thì có thể tìm ra thuốc chữa.
Tể tướng bèn kể cho Marzavan bệnh trạng của hoàng tử Camaralzaman suốt từ đầu chí cuối. Ông cũng không giấu chút gì về xuất thân đáng được mong ước của hoàng tử, sự giáo dục của chàng và ý muốn của hoàng đế Schahzaman muốn chàng sớm kết thành gia thất, về sự bất kính của chàng giữa triều đình, về sự tống giam chàng và cả những việc làm rồ đại của chàng trong lúc bị giam cầm. Tất cả những cái đó đã biến chàng thành một kẻ si tình mê say mãnh liệt một cô nương vô danh có thể chẳng có ở trên đời này, ngoài căn cứ là một chiếc nhẫn mà hoàng tử khăng khăng cho là nhẫn của cô nương đó.
Nghe lời kể của tể tướng, Marzavan thấy vô cùng thích thú là trong cái rủi bị đắm thuyền lại gặp cái may là tới đúng cái nơi đang tìm. Không còn nghi ngờ gì nữa, chàng thấy hoàng tử Camaralzaman đúng là người mà công chúa Trung Hoa yêu mê mệt và chính công chúa lại chính là đối tượng mối tình nồng nhiệt của hoàng tử. Chàng không trình bày gì với tể tướng mà chỉ nói nếu được nhìn thấy hoàng tử thì sẽ dễ dàng hơn trong việc lựa chọn phương pháp để giúp chàng trị bệnh.
- Vậy thì hãy theo ta - Tể tướng bảo - Anh sẽ thấy nhà vua đang ở chỗ hoàng tử, Người cũng đang muấn gặp anh đó.
Đầu tiên đập vào mắt Marzavan lúc bước vào phòng hoàng tử là thấy chàng nằm thượt trên giường, đôi mắt nhắm nghiền. Marzavan quên cả việc có thể làm phiền hoàng đế Schahzaman đang ngồi cạnh con cũng như hoàng tử ốm yếu đã thảng thốt kêu lên:
- Trời đất ơi! Không có gì trên thế gian này lại có thể giống nhau hơn.
Ý chàng muốn nói là trông hoàng tử lúc này thật chẳng khác gì công chúa Trung Hoa. Đúng là hai người có những nét đặc biệt như đúc của nhau vậy.
Câu thốt ra trên đây của Marzavan làm cho hoàng tử Camaralzaman nảy trí tò mò, mở mắt ra nhìn chàng. Marzavan, đặc biệt thông minh, lợi dụng lúc đó đọc luôn mấy câu thơ chào mừng. Dù lời lẽ kín đáo, cả hoàng đế và tể tướng đều không hiểu, nhưng chàng tả rất khéo điều gì đã xảy ra cho công chúa Trung Hoa, là hoàng tử chẳng nên nghi ngờ việc chàng có biết công chúa và có thể cho hoàng tử biết tin tức về nàng. Thoạt nghe, hoàng tử đã lộ vẻ vui mừng trên nét mặt và nhất là trong đôi mắt của chàng.''
Hoàng hậu Schehrazade không còn thời gian để kể thêm nữa đêm đó. Hoàng đế cho phép nàng được kể tiếp đêm sau
“- Tâu bệ hạ, khi Marzavan đọc xong những câu thơ khen tụng làm cho Calnaralzaman ngạc nhiên thích thú, hoàng tử liền lễ phép đưa tay ra hiệu cho nhà vua nhường chỗ ngồi cho Marzav
Nhà vua hân hoan thấy hoàng tử con trai mình có sự đổi thay đầy triển vọng, đứng lên, cầm lấy tay Marzavan và bắt chàng ngồi xuống chỗ mình vừa ngồi. Ông hỏi chàhg là ai, từ đâu đến và sau khi chàng cho nhà vua biết chàng là thần dân của hoàng đế Trung Quốc và từ đất nước của Người mà tới đây.
- Cầu xin Thượng đế - Ông bảo chàng - Phù hộ cho ngài cứu con trai ta ra khỏi cảnh sầu muộn sâu sắc này, ta sẽ vô cùng biết ơn ngài và sự đền ơn của ta sẽ hết sức huy hoàng, cả trái đất này sẽ phải thừa nhận là xưa nay chưa hề có một sự hậu thưởng nào như thế.
Marzavan rỉ tai hoàng tử Camaralzaman:
- Thưa hoàng tử, từ nay trở đi ngài sẽ không còn phảo bi lụy một cách thật thương tâm như vậy nữa. Cô nương đã làm ngài đau khổ đó là người tôi quen biết. Đó là công chúa Badoure, con gái hoàng đế Trung Quốc danh hiệu là Gaiour. Tôi có thể nói chắc chắn với ngài là chính nàng đã kể chuyện của nàng cho tôi nghe cũng như tôi vừa được nghe chuyện của ngài. Công chúa cũng ốm tương tư vì ngài cũng như ngài đang ốm tương tư vì công chúa.
Rồi Marzavan kể tất cả những gì chàng biết về công chúa cho hoàng tử nghe từ cái đêm định mệnh hai người gặp nhau một cách rất kỳ lạ. Chàng cũng không quên cung cách đối xử của hoàng đế Trung Quốc đối với những người bị thất bại trong mưu toan chữa bệnh cho nàng, cái bệnh được gọi là điên cuồng mất trí đó.
- Chỉ có duy nhất ngài - Chàng nói thêm - Là người có thể chữa cho nàng khỏi bệnh hoàn toàn và ngài chẳng sợ gì mà không ra mắt. Nhưng trước khi làm một chuyến đi dài ngày, ngài cần phải khoẻ mạnh đã rồi chúng ta sẽ ehuẩn bị những gì cần. Ngài phải luôn nghĩ tới việc phục hồi sức lực.
Lời Marzavan có một hiệu quả mãnh liệt. Hoàng tử Camaralzaman thấy được an ủi bội phần vì hy vọng vừa thâu nhận. Chàng thấy như đủ sức để ngồi dậy và đứng lên, Chàng xin nhà vua được mặc áo quần tề chỉnh với đáng vẻ tươi tỉnh làm vua mừng vui khôn xiết.
Nhà vua chỉ còn biết ôm lấy Marzavan mà cảm ơn, cũng không hỏi chàng làm cách nào để có được một hiệu quả đáng ngạc nhiên như vậy. Ông cùng với tể tửớng ra khỏi toà tháp cổ để bố cáo tin vui đó với toàn dân. Ông hạ lệnh cho tổ chức vui chơi trong nhiều ngày, ban thưởng cho quần thần và dân chúng, bố thí cho người nghèo và ân giảm cho các tù nhân. Trong kinh thành và tất cả các vùng đất đai vương quốc Schahzaman đều tưng bừng niềm vui và phấn khởi.
Hoàng tử Camaralzaman suy nhược vì bao đêm không ngủ và ăn uống thất thường đã phục hồi nhanh chóng. Khi chàng cảm thấy mình khá khoẻ có thể chịu đựng được nỗi mệt nhọc đường trường liền gọi riêng Marzavan ra bảo:
Bạn Marzavan thân mến? - Hoàng tử nói - Đã đến lúc thực hiện lời bạn đã hứa. Trong niềm mong được thấy lại nàng công chúa yêu kiều và để chấm dứt nỗl dằn vặt của nàng vì tôi, nếu chúng ta không lên đường ngay thì tôi cảm thấy nhất định lại rơi vào tình trạng mà bạn thấy trước đây. Có một điều làm tôi khổ tâm và có thể làm chuyến đi chậm trễ đó là lòng thương yêu thái quá của phụ vương tôi. Người chẳng bao giờ muốn cho phép tôi rời xa Người. Đó sẽ là một điều thật đau lòng cho tôi nếu bạn không tìm được cách nào khắc phục giúp. Bạn thấy đấy, Người chẳng rời mắt tôi phút nào.
Hoàng tử không ngăn nổi nước mắt khi dứt lời.
- Thưa hoàng tử - Marzavan nói- Tôi đã lường trước trở ngại to lớn đó, ngài cứ để tôi lo liệu. Ý đồ của tôi trong chuyến đi này là giúp công chúa khỏi hết bệnh tương tư, đó là vì tình bạn thân thiết của chúng tôi từ nhỏ, vì nhiệt tình và lòng thương yêu của tôi đối với công chúa hiện nay. Tôi sẽ chẳng làm tròn bổn phận nếu không đem hết khả năng của mình ra thi thố để nàng được an ủi đồng thời cũng là niềm an ủl của hoàng tử. Vậy đây là điều tôi dự định để vượt qua khó khăn được hoàng thượng cho phép như chúng ta mong mỏi. Từ ngày tôi tới đây, ngài như bị cấm cung. Hãy thưa với hoàng thượng là ngài muốn được ra bên ngoài cho thoáng khí và xin với Người được cùng với tôi làm một cuộc đi săn độ hai hoặc ba ngày, chắc hoàng thượng chẳng nỡ từ chối. Khi đã được người ưng thuận rồI thì ngài sẽ ra lệnh chuẩn bị cho mỗi người chúng ta hai con ngựa, một để cưỡi, một để thay đổi. Những việc còn lại, cứ để mặc tôi.
Ngày hôm sau, hoàng tử Camaralzaman lựa thời cơ thưa với vua cha ý muốn ra bên ngoài hóng gió mát và nếu Người thấy có thể được thì xin cho đi săn vài ba ngày cùng với Marzavan.
- Cha rất muốn - quốc vương bảo - nhưng với điều kiện là con không được ngủ ở ngoài quá một đêm. Mới ốm dậy mà hoạt động nhiều sẽ rất có hại cho sức khoẻ và sự vắng mặt lâu của con sẽ làm cho cha buồn đấy.
Nhà vua ra lệnh chọn cho chàng những con ngựa tốt nhất và tự mình chăm nom việc chuẩn bị để chàng không thiếu thứ gì. Khi mọi việc đã xong xuôi ông ôm hôn con, và dặn dò Marzavan phải chú ý chăm sóc hoàng tử rồi ông để cho chàng đi.
Hoàng tử Camaralzaman và Marzavan phóng về nông thôn và để đánh lừa hai tên giám mã dắt những con ngựa thay thế, họ làm như đi săn thật, càng đi xa thành phố càng tốt. Chập tối, họ dừng lại ở một quán trọ của khách lữ hành, ăn tối và ngủ cho đến nửa đêm. Marzavan thức giấc trước, đánh thức hoàng tử Camaralzaman dậy và không làm gì động đến hai tên giám mã. Chàng yêu cầu hoàng tử đưa cho mình bộ quần áo đang mặc và lấy bộ quần áo mà tên giám mã mang theo mặc thay vào. Họ lên ngưa và mỗi người dắt theo một con ngựa thay cùng với một ngựa của tên giám mã rồi cùng phóng nhanh.
Tang tảng sáng, hai kỵ sĩ tới một khu rừng và đến một ngã tư. Tới chỗ này, Marzavan bảo hoàng tử đợi chàng một lát và đi sâu vào trong rừng. Chàng chọc tiết con ngựa của tên giám mã, xé tan bộ áo quần của hoàng tử vừa cởi ra thấm vào máu ngựa rồi quay trở lại chỗ hoàng tử đang đợi, ném bộ quần áo bị xé rách và nhuốm đầy máu ra giữa ngã tư đường.
Hoàng tử Camaralzaman hỏi Marzavan thế là có ý gì, Marzavan đáp:
- Thưa hoàng tử, khi đức vua cha ngài chiều nay không thấy ngài trở về hoặc Người được bọn giám mã cho biết chúng ta đi trong lúc chúng còn đang ngủ thì nhất định là Người sẽ cho đuổi theo chúng ta. Bọn người nào đuổi theo hướng này sẽ thấy bộ quần áo của hoàng tử đầy máu, sẽ cho là hoàng tử đã bị thú dữ sát hại, còn tôi đã vì sợ tội mà trốn đi rồi. Nhà vua, theo lời tâu trình của họ, nghĩ là ngài không còn ở trên đời này nữa nên ngừng các cuộc tìm kiếm, thế là chúng ta có thể yên tâm tiếp tục cuộc hành trình không còn sợ rượt theo nữa. Việc đề phòng như thế quả là có phần quá mạnh mẽ, như một đòn trời giáng xuống người cha vốn thương yêu con rất mực sẽ tưởng là con mình đã bị chết thảm thương. Nhưng niềm vui của quốc vương cha ngài sẽ được nhân lên gấp bội khi được biết ngài vẫn sống mạnh khoẻ và được mãn nguyện.
- Bạn Marzavan? - Hoàng tử Camaralzaman nói - Bạn thật dũng cảm và mưu trí. Tôi chỉ còn biết hoan nghênh cái kế sách tài tình của bạn thôi. Thêm một lần nữa xin cảm ơn bạn.Hoàng tử và Marzavan đã mang theo đi nhiều châu ngọc đủ chi tiêu dọc đường, tiếp tục chuyến đi qua sông qua núi, chỉ thấy có mỗi một trở ngại là mất rất nhiều thời gian vì non sông cách trở. Cuối cùng họ đã tới kinh đô Trung Quốc ở đó đáng lẽ Marzavan đưa hoàng tử về nhà mình thì lại dừng chân ở một nơi công cộng của những người ngoại quốc. Họ ở đấy ba ngày để xua tan mệt nhọc của những ngày đi đường và trong khoảng thời gian này, Marzavan cho may một chiếc áo của các nhà chiêm tinh để cải trang cho hoàng tử. Hết ba ngày nghỉ ngơi, họ cùng nhau đi tắm rửa và sau đó hoàng tử mặc áo nhà chiêm tinh vào rồi Marzavan dẫn hoàng tử đi thẳng tới hoàng cung còn chàng thì về báo cho mẹ mình, vú nuôi của công chúa Badoure, biết là chàng đã về để mẹ báo cho công chúa.
Đến đây hoàng hậu Scheherazađe ngừng lời vì thấy trời đã rạng. Đêm sau kể tiếp, nàng nói với hoàng đế Ấn Độ:
“- Tâu hoàng thượng, hoàng tử Camaralzaman đã được Marzavan bảo cho biết phải làm gì rồi, và đã được trang bị các thứ phù hợp với một nhà chiêm tinh, với bộ quần áo như thế chàng tiến đến tận cổng hoàng cung của hoàng đế Trung Hoa, đứng lại và hô to trước mặt lính cấm vệ và lính canh cổn
- Tôi là nhà chiêm tinh, đến đây để chữa bệnh cho công chúa Badoure đáng kính lệnh ái của đức vua Gaiour cao cả và hùng mạnh, quốc vương Trung Hoa, theo đúng điều kiện mà Người đã đề ra, tức là được lấy nàng nếu thành công hoặc mất đầu nếu thất bại.
Ngoài lính cấm vệ và lính gác cổng ra, tin mới lạ này trong phút chốc đã làm cho đám đông dân chúng tới quây quanh lấy hoàng tử Camaralzaman. Sở dĩ như vậy là vì đã rất lâu rồi chẳng có một thầy lang, một nhà chiêm tinh, một pháp sư nào dám trình diện từ sau bao nhiêu tấm gương bi thảm của những người đã thất bại trong việc chữa trị. Người ta tưởng chẳng còn ai ngu ngốc như họ nữa.
- Nhìn vào khuôn mặt khôi ngô của hoàng tử, dáng điệu cao quý, vẻ trẻ trung của chàng, nhiều người tỏ ra ái ngại:
- Ngài nghĩ gì vậy, thưa ngài - Những người đứng gần nhất hỏi chàng - Vì sao lại điên rồ, dấn thân vào một cái chết chắc chắn trong khi cuộc đời tràn đầy hi vọng tất đẹp? Những cái thủ cấp mà ngài nhìn thấy bầy trên các cổng thành không làm ngài kinh sợ sao? Nhân danh Thượng đế, xin ngài hãy từ bỏ cái ý đồ tuyệt vọng ấy và hãy rút lui đi.
Trước những lời can ngăn đó, hoàng tử Camaralzaman vẫn giữ vững, không hề, nao núng và khi thấy không có ai ra dẫn mình vào, chàng lại hô lên một lần nữa với giọng cả quyết làm tất cả mọi người run lên. Và họ kêu la: ''Hắn đã quyết chết, cầu xin Thượng đế rủ lòng thương cho sự trai trẻ và linh hồn hắn?'' Chàng trai hô lên lần thứ ba và cuối cùng thì tể tướng theo lệnh của hoàng đế Trung Quốc tới nắm lấy tay chàng.
Viên tể tướng dẫn chàng đến trước hoàng đế. Hoàng tử vừa thấy ông ngồi trên ngai đã vội quỳ xuông hôn mặt đất trước mặt ông. Trong tất cả những người bạo gan dám đem đầu mình tới đặt cược dưới chân mình, nhà vua chưa từng thấy một ai xứng đáng đế mình để mắt tới, lúc này cảm thấy thực sự thương hại đối với Camaralzaman đang dấn thân mình vào hiểm hoạ. Ông cho chàng được có vinh dự hơn mọi người, muốn chàng tới gần và ngồi xuống cạnh mình:
- Hỡi chàng trai trẻ? - Ông bảo chàng - Ta thật khó tin, ở cái tuổi của chàng mà đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm để dám nhận chữa trị cho con gái ta. Ta rất muốn chàng thành công. Ta sẽ gả công chúa cho chàng không những là không bực bội mà còn hết sức vui mừng, khác vớI sự miễn cưỡng bất đắc dĩ phải gả cho những người đến trước chàng nếu họ thành công. Nhưng ta đau lòng tuyên bố là nếu chàng thất bại thì mặc dù còn rất trẻ, mặc dù cái dáng dấp cao sang của chàng, các cái đó cũng không thể ngăn ta cho chặt đầu chàng.
- Tâu bệ hạ - Hoàng tử Camaralzaman nói - Tôi vô cùng biết ơn về những ân huệ mà Người ban cho và tấm lòng nhân hậu của Người đối với một người không quen biết. Tôi không phải đến từ một đất nước quá xa để dành tính của tôi có thể đất nước của Người không biết tôi, để không thực hiện ý định đã dẫn đắt tôi đến đây. Chẳng lẽ người ta lại không bàn tán về sự nông nổi của tôi nếu tôi từ bỏ cái ý đồ thật hào hiệp đó sau bao nhiêu mệt nhọc và hiểm nguy đã phải trải qua. Phải chăng chính bệ hạ cũng mất đi lòng yêu mến mà Người đã cảm nhận được từ con người tôi? Nếu phải chết, tâu bệ hạ, tôi sẽ chết với tấm lòng thanh thản không hối tiếc vì đã không làm mất đi lòng yêu mến đã từng được cho là xứng đáng. Vậy nên tôi cầu xin bệ hạ đừng bắt tôi phải nóng lòng chờ lâu hơn nữa trong việc chứng thực sự chính xác tài năng của mình bằng cuộc thử nghiệm mà tôi đã sẵn sàng tiến hành.
Hoàng đế Trung Hoa lệnh cho viên hoạn nô canh giữ công chúa Badoure, lúc đó có mặt, đưa hoàng tử Camaralzaman tới chỗ công chúa, con gái Người. Trước khi để chàng đi, nhà vua nói là chàng hãy còn được tự do để rút lui ý định của mình. Nhưng hoàng tử im lặng đi theo viên hoạn nô một cách cả quyết hay đúng hơn là bằng một sự hăng hái đáng ngạc nhiên.
Hoạn nô dẫn đường cho hoàng tử Camaralzaman đi, và khi tới một hành lang dài mà cuối hành lang là buồng công chúa, hoàng tử lúc đó thấy mình đang rất gần con người đã làm chàng chảy bao nhiêu nước mắt và không ngừng thở ngắn than dài từ bao lâu nay chàng bỗng rảo bước vượt lên trên viên hoạn nô. .
Viên hoạn nô cũng rảo bước theo nhưng khó mà đuổi kịp.
- Ngài đi đâu mà hấp tấp vậy? - Y nói và nắm cánh tay chàng giữ lại- Không có tôi thì ngài không vào được đâu. Chắc là ngài rất muốn chết nên mới chạy nhanh đến cái chết như vậy. Không một ai trong số bao nhiêu nhà chiêm tinh mà tôi thấy và dẫn tới đây trước ngài, lại tỏ ra vội vàng như thế.
- Anh bạn ạ - Hoàng tử Camaralzaman nhìn viên hoạn nô và vừa nói vừa bước chậm lại - Đó là vì tất cả những nhà chiêm tinh mà bạn nói đề đều không vững tin vảo tài năng của họ như tôi tuyệt đối tin tưởng ở mình. Họ biết chắc là họ sẽ mất mạng nếu không đạt được kết quả mà cơ hội thành công họ lại không có. Cũng vì vậy nên họ run sợ khi tới gần nơi mà tôi đang đi đến đây, nơi mà tôi chắc chắn là tìm lại được hạnh phúc
Nói đến đây thì họ vừa tới cửa. Viên hoạn nô mở cửa và đưa hoàng tử vào một phòng rộng, ở đó đi vào phòng công chúa chỉ phải qua một bức mành ch
Trước khi vào phòng, hoàng tử Camaralzaman dừng lại và khẽ rỉ tai viên hoạn nô sợ công chúa ở bên trong có thể nghe được.
Để cho anh bạn thấy rõ - Chàng nói - Không có một chút gì là tự phụ kiêu căng, cũng không vì sự hăng hái nông nổi của tuổi trẻ mà ta cho anh chọn một trong hai cách: Anh muốn ta chữa bệnh cho công chúa trước mặt nàng, hay là ngay tại đây không cần đi thêm nữa và cũng chẳng cần nhìn thấy mặt nàng.
Viên hoạn nô cực kỳ ngạc nhiên về niềm tin chắc nịch của hoàng tử qua lời chàng nói vừa rồi. Y thôi không dám có thái độ coi thường chàng nữa mà nghiêm chỉnh bảo chàng:
- Ở trong đó hay là ngay đây thì có gì là quan trọng. Bằng cách nào thì có nghĩa gì đâu. Miễn là công chúa khỏi bệnh. Vinh quang của ngài sẽ bất tử không những ở triều đình này mà còn ở cả khắp mọi nơí có con người trên mặt đất này.
- Vậy thì tốt hơn hết - Hoàng tử tiếp .- Là ta sẽ chữa bệnh cho nàng mà chẳng cần nhìn thấy nàng để anh bạn được chứng kiến tài năng của ta. Cho là dù ta có nôn nóng tới đâu để được diện kiến một công chúa cao sang sẽ là vợ của ta chăng nữa thì cũng vì sự trọng thị một phần nào đối vớí anh mà ta cũng vui lòng gác lại niềm vui đó ít lâu.
Vì đã mang theo tất cả các thứ đã cần cho một nhà chiêm tinh, chàng lấy giấy bút ra và viết một lá thư nhỏ sau đây gửi công chúa Trung Hoa.
Thư của hoàng tử Camaralzaman gửi công chúa Trung Quôc
“Công chúa quý mến, hoàng tử Camaralzaman si tình chẳng muốn kể với nàng nỗi đau buồn khôn tả mà chàng phải chịu đựug từ cái đêm đinh mệnh mà vẻ yêu kiều của nàng đã làm cho chàng mất đi sự tự do mà chàng đã nguyện giữ suốt đời. Chàng chỉ muốn lưu ý nàng là kể từ đêm đó chàng đã dâng hiến trái tim của chàng cho giấc ngủ vô cùng quyến rũ của nàng, giấc ngủ không đúng lúc khỉến chàng chẳng được nhìn thấy vẻ long lanh của đôi mắt đẹp của nàng mặc dầu chàng đã gắng sức bắt chúng hé mở. Chàng lại còn dám cả gan trao nhẫn cho nàng làm bằng chứng của tình yêu và đổi lâý chiếc nhẫn của nàng mà chàng gõư lại kèm theo với thư này. Nêú nàng vui lòng cũng trả lại nhẫn cho chàng, coi đó là kỷ vật của tình yêu về phía nàng thì chàng sẽ cho mình là người hạnh phúc nhất trong tất cả các người đang yêu. Nêú không thì sự khước từ của nàng cũng không ngăn nổi chàng đón nhận một cái chết tức tưởi hơn là cái chết vì tình yêu đối với nàng. Chàng đang chờ câu trả lời của nàng ở phòng đợi.
Khi hoàng tử Camaralzaman viết xong những dòng trên, chàng làm thành một gói cùng với chiếc nhẫn của công chúa để bên trong không để cho viên hoạn nô thấy khi trao cái gói cho y, chàng bảo:
- Anh bạn? Anh hãy cầm cái gói này trao cho cô chủ của anh. Nếu nàng không khỏi bệnh ngay khi đọc xong lá thư này và không chạy ra tìm người chủ lá thư thì ta cho phép anh công bố ta là người tồi tệ nhất và trơ trẽn nhất trong tất cả các nhà chiêm tinh trước đây, hiện nay và cả sau này nữa.''
Ánh sáng ban ngày mà Scheherazade nhìn rõ khi kể tới đây khiến nàng đứng lại. Nàng kể tiếp câu chuyện vào đêm sau và nói với hoàng Đế Ấn Độ
“- Tâu bệ hạ, viên hoạn nô đi vào buồng công chúa Trung Quốc và đưa cho nàng cái gói của hoàng tử Camaralzaman gửi.
- Thưa công chúa - Y nói - Một nhà chiêm tính táo bạo hơn tất cả các người trước vừa tới đây và cho rằng công chúa sẽ khỏi bệnh ngay sau khi đọc lá thư này và nhìn xem cái gì đó trong gói ấy. Mong rằng anh ta không phải kẻ đối trá hoặc lừa bịp.
Công chúa Badoure cầm lấy cái gói, mở lá thư một cách thờ ơ, nhưng khi nhìn thấy chiếc nhẫn của mình thì chẳng sao mà đọc cho hết được nữa. Nàng vội vàng đứng lên, làm đứt cả sợi dây xích trói chân, chạy đến bức mành gạt ra một bên, công chúa nhận ra ngay hoàng tử, hoàng tử cũng nhận ngay ra nàng. Họ chạy lại ôm chầm lấy nhau và không nói được lời nào vì vui mừng quá đỗi, họ nhìn vào mắt nhau rất lâu, thán phục ngỡ ngàng vì đã gặp lại sau cuộc gặp gỡ đầu tiên mà họ không sao hiểu nổi. Bà vú nuôi, cùng chạy ra với công chúa, đưa cả hai vào buồng, ở đó công chúa trả lại nhẫn cho hoàng tử:
- Chàng hãy cầm lại di - Nàng bảo - Em chẳng thể giữ nó lại mà không trả nó về cho chàng mà thực ra thì em muốn giữ nó suốt đời. Những chiếc nhẫn này không sao có thể tìm được những bàn tay nào thích hợp hơn.
Viên hoạn quan lúc đó chạy cấp tốc về tâu trình với hoàng đế Trung Quốc tất cả những gì vừa xảy ra.
- Tâu bệ hạ - Y nói - Tất cả những nhà chiêm tinh, những thầy lang và những người khác từ trước tới nay dám liều lĩnh xông vào chữa trị cho cững chúa đều là những kẻ ngu đần dốt nát. Người tới sau cùng này chẳng cần đến bùa chú, phù phép để tiêu trừ yêu ma, cũng chẳng cần phải đụng tới hương thơm hay các thứ khác. Ông ta đã chữa khỏi bệnh cho công chúa mà chẳng cần nhìn tớI người bệnh.
Viên hoạn nô kể lại tất cả cách thức đã làm của nhà chiêm tinh mới tới này, và nhà vua ngạc nhiên một cách thích thú, lập tức tới nơi ở của công chúa. Ông ôm hôn con gái, ôm hôn cả hoàng tử và cầm bàn tay chàng đặt vào bàn tay công chúa, ông nói với chàng:
- Hỡi người khách phương xa may mắn? Dù chàng là ai, ta cũng giữ lời hứa gả con gái ta cho chàng. Cứ nhìn chàng ta không sao có thể tin là một nhà chiêm tinh mà chàng cũng đang muốn cho ta tin như vậy.
Hoàng tử Camaralzaman cảm tạ nhà vua bằng những lời lẽ thật nhũn nhặn để tỏ rõ sự blết ơn của mình:
- Tâu hoàng thượng, về con người đúng là tôi không phải là nhà chiêm tinh như Người đã xét đoán. Tôi chỉ mang bộ quần áo này để thành công hơn trong việc đáng được nhận làm phò mã của một vị hoàng đế hùng mạnh nhất thiên hạ. Tôi vốn là hoàng tử, con của quốc vương và hoàng hậu, có tên là Camaralzaman. Cha tôi là Schahzaman trị vì đảo quốc khá nổi tiếng có tên là Nhũng Đứa Con Của Khaledan .
Rồi chàng kể chuyện của mình và cho hoàng đế biết xuất phát mối tình của chàng thật vô cùng kỳ lạ cũng như mối tình của công chúa vậy là điều này đã được chứng minh sự xác thực bằng hai chiếc nhẫn trao đổi giữa hai người.
Khi hoàng tử Camaralzaman dứt lời, nhà vua kêu lên thán phục:
Một câu chuyện thật kỳ lạ đáng lưu lại cho hậu thế. Ta sẽ ghi lại và sau khi đã lưu trữ bản chính vào văn khố quốc gia, ta sẽ cho công bố rộng rãi dể từ đất nước ta có thể lan truyền ra những quốc gia khác.
Hôn lễ được cử hành ngay trong ngày hôm đó, và những cuộc vui chơi long trọng được tổ chức trong toàn vương quốc Trung Hoa rộng lớn. Marzavan không bị quên. Hoàng đế Trung Hoa phong tước vị, đưa chàng vào triều và hứa hẹn sau này sẽ cân nhắc đưa lên những cương vị cao hơn.
Hoàng tử Camaralzaman và công chúa Badoure cực kỳ mãn nguyện, vui hưởng tuần trăng mật êm đềm và trong nhiều tháng, hoàng đế Trung Quốc không ngừng thể hiện niềm vui bằng lễ hội liên miên.
Giữa những ngày vui ấy, một đêm hoàng tử Camaralzaman chiêm bao thấy vua Schahzaman cha chàng nằm hấp hối trên giường thều thào nói: ''Người con trai ta đã sinh ra mà ta hết lòng yêu quý đã bỏ ta rồi và nó cũng chính là nguyên nhân cái chết của ta.'' Chàng tỉnh dậy và thốt tiếng thở dài làm công chúa cũng thức giấc. Công chúa Badoure hỏi vì sao chàng thở dài. Hoàng tử nói:
- Chao ôi! Có lẽ trong lúc ta nói đây thì quốc vương cha ta đã từ trần rồi.
Và chàng kể cho công chúa nghe nguyên nhân làm cho chàng băn khoăn sầu muộn. Nghe chàng nói, công chúa nảy ra một ý nhưng không cho chàng hay vì nàng luôn luôn muốn làm cho chàng vừa lòng. Biết được ý muốn của chàng là muốn về thăm cha và cũng vì nung nấu ý muốn đó nên cuộc sống với nàng ở chốn xa xôi này cũng bớt đi đôi phần vui thú. Cũng ngày hôm đó, lợi dụng thời cơ, công chúa đã tâu riêng với vua cha:
- Tâu phụ hoàng - Nàng hôn tay cha và nói – Con muốn xin Người ban ơn cho con một điều và cầu mong là không bị từ chối. Nhưng xin Người đừng cho rằng con xin điều này là do hoàng tử, chồng con khẩn khoản. Chàng không can dự gì vào đây cả, thưa cha. Điều con muốn Người ban cho đó là được phép cùng chồng con đi thăm quốc vương Schahzaman, cha chàng và là bố chồng của con.
- Con gái của cha - Nhà vua nói- Dù có buồn vì phải xa con, cha cũng không thể không tán thành quyết định đó. Con xử sự như thế là đúng, cho dù chuyến đi xa như vậy mệt mỏi nhiều. Con đi đi, cha đồng ý nhưng với điều kiện là con ở lại triều đình quốc vương không quá một năm. Chắc lậ nhà vua Schahzaman cũng muốn, như cha làm theo cách ấy nghĩa là lần lượt con trai và con dâu về thăm bố mẹ chồng rồi sau một năm con gái và con rể về thăm bố mẹ vợ.
Công chúa báo cho chồng biết là quốc vương Trung Quốc đã cho phép về thăm cha chàng. Hoàng tử vui mừng vô hạn và cảm ơn nàng về biểu hiện mới của tình yêu đối với chàng.
Hoàng đế Trung Quốc ra lệnh chuẩn bị cho chuyến đi của hai con và khi đã hoàn tất, ông lên đường cùng với họ, đi theo họ vài ba ngày. Cuộc tạm chia tay làm mất nhiều nước mắt ở cả hai phía. Nhà vua âu yếm hôn hai vợ chồng trẻ và sau khi khuyên hoàng tử hãy yêu thương mãi mãi công chúa, con ông cũng như ông yêu thương con gái rồi ông để cho họ tiếp tục cuộc hành trình còn ông thì vừa đi trở về kinh đô vừa lấy săn bắn làm vui.
Hoàng tử Camaralzaman và công chúa Badoure chỉ vừa lau khô nước mắt thì đã nghĩ đến niềm vui mà họ sẽ mang đến cho quốc vương Schahzaman. Trông thấy họ hẳn là nhà vua sẽ ôm hôn họ thật thắm thiết và hai người hẳn cũng sẽ vui mừng rộn rã.
Đi đường được khoảng một tháng, họ tới một bãi cỏ rộng, từng quãng từng quãng lại có những gốc cây lớn toả bóng mát thật dễ chịu. Ngày hôm đó lại oi bức nên hoàng tử Camaralzaman cho là rất đúng lúc nên hạ trại tạm nghỉ tại đây. Hỏi ý kiến công chúa Badoure, nàng đồng ý ngay vì chính nàng cũng đang muốn nói với chàng như thế. Mọi người xuống ngựa chon một nơi đẹp dựng lều. Công chúa đang ngồi nghỉ dưới bóng râm thấy lều đã dựng xong bèn đi vào, trong khi hoàng tử Camaralzaman còn đang bận ra lệnh cho bọn người hầu hoàn tất việc cắm tại. Trong lều, để cho thoải mái, công chúa cởi bỏ thắt lưng mà những cô người hầu cầm láy đặt bên cạnh nàng. Sau đó vì mỏi mệt nàng nằm xuống nghỉ, những người hầu để nàng một mình trong lều và đi ra ngoài.
Khi việc hạ trại được sắp xếp ổn định, hoàng tử Camaralzaman đi vào lều, thấy công chúa đang ngủ chàng lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh. Thấy chiếc thắt lưng của công chúa, chàng cầm lấy xem lần lượt ngắm nghía những viên kim cương, những viên hồng ngọc mà công chúa đính vào đấy, chàng lại thấy một cái,túi nhỏ bằng vải rất sạch, miệng túi buộc lại bằng một sợi dây. Chàng nắn nắn cái túi cảm thấy có vật gì đó răn rắn bên trong. Tò mò muốn biết đó là vật gì, chàng mở túi và lấy ra một mảnh mã não trên đó có khắc nhũng hình tượng và chữ viết chàng không đọc được Chàng nghĩ thầm: 'Tấm mã não này hẳn là quý lắm đây, nếu không thì sao mà công chúa của ta lại phải đeo luôn bên mình sợ mất.
Quả vậy, đó là một tấm bùa mà hoàng hậu tặng cho công chúa con gái để bà cho nàng được hạnh phúc, theo bà, chừng nào nàng luôn mang theo nó trong người.
Để xem cho rõ tấm bùa đó, hoàng tử Camaralzaman đi ra ngoài lều, vì bên trong rất tối. Chàng để tấm bùa vào giữa bàn tay giơ ra ánh sáng, bất ngờ một com chim ở đâu bay xà tới, cắp tấm bùa bay đi.''
Trời đã hửng sáng khi Scheherzade kể tới đây. Nàng ngừng lại và đêm sau kể tiếp vẫn chuyện này. Nàng nói với hoàng đế Schahriar:
- Tâu bệ hạ, Người có thể thấy được sự kinh ngạc và đau khổ của Camaralzaman mà thiếp cũng khó mà diễn tả được khi bị con chim cướp mất cái bùa trong tay. Trước chuyện xảy ra rất đáng buồn không thể tưởng tượng được chỉ vì cái tính tò mò không phải chỗ làm cho công chúa mất đi một vật báu, chàng lặng người đi mất một lúc.
Chương 22: Sự chia ly hoàng tử và công chúa
Con chim, sau hành động ăn cướp đó, đậu xuống một mô đất cách đấy không xa, mỏ vẫn ngậm cái bùa.
Hoàng tử bước tới hy vọng là nó sẽ nhả cái bùa ra, nhưng khi chàng đến gần, con chim lại cất cánh bay một quãng ngắn rồi lại đậu xuống đất lần hai. Chàng tiếp tục đuổi theo. Con chim sau khi nuốt chửng tấm bùa, bay đi xa hơn.
Hoàng tử vốn rất khéo tay, hy vọng là sẽ ném đá giết chết nó nên vẫn cứ đuổi theo. Con chim càng bay xa, chàng càng cố sức ra công đuổi không để hút tầm mắt. Từ thung lũng lên đồi rồi lại từ đồi xuống thung lũng, con chim lôi hoàng tử Camaralzaman đi suốt ngày, mỗi lúc một xa bãi cỏ dựng lều và công Chúa Badoure. Đến chiều tối đáng lẽ nó chui vào một bụi rậm thì Camaralzaman có thể nhờ bóng tối có thể tóm được thì nó lại đậu tít trên một cành cây cao, ở đó nó thật an toàn. Hoàng tử thất vọng vì đã bỏ ra biết bao công sức hoàn toàn vô ích nghĩ có nên quay lại chỗ hạ trại không. ''Nhưng - Chàng thầm nghĩ - Quay về lối nào đây? Trèo lên, tụt xuống hết thung lũng này rồi lại đồi cao nọ, trong bóng đêm này liệu có khỏi đi lạc và sức khoẻ ta có cho phép không? Và nếu tìm được đường về thì liệu ta có dám chường mặt ra trước công chúa mà không mang được về cho nàng chiếc bùa đó không?'' Chìm đắm trong những ý nghĩ nặng nề đó, và rã rời vì mệt mỏi, vì đói, vì khát, vì buồn ngủ, chàng nằm xuống và ngủ qua đêm dưới gốc cây.
Sáng hôm sau, Camaralzaman thức dậy trước lúc con chim rời cái cây. Vừa trông thấy nó cất cánh, chàng quan sát và rượt theo nó suốt cả ngày và cũng chẳng có kết quả gì hơn ngày hôm trước. Sống bằng quả cây và cỏ dại hái bên đường và cứ đuổi theo con chim như thế từ sáng đến tối và đêm thì ngủ bên gốc cây trên đó con chim đậu, cho đến ngày thứ mười.
Đến ngày thứ mười một con chim vẫn bay. Camaralzaman không ngừng quan sát và bám theo cho đến lúc tới một thành phố lớn. Khi con chim đến gần một bức tường, nó bay lên cao và vụt qua tường sang phía bên kia mất hút. Camaralzaman hết hy vọng tìm được lại nó và chẳng còn bao giờ mong lấy lại được tấm bùa mã não về cho công chúa Badoure.
Buồn nản vì bao nhiêu điều không sao tả xiết, hoàng tử Camaralzaman đi vào thành phố. Thành phố này được xây dựng trên bờ biển và có một bến cảng rất đẹp. Chàng lang thang trên các đường phố chẳng biết đi đâu, đừng lại đâu thì chợt đã tới bến cảng. Hãy còn đang không biết làm , gì bây giờ, chàng đi dọc theo bờ biển tới cổng một khu vườn để ngỏ. Chàng bước vào cất tiếng chào một ông già đang mải cuốc xới, ngẩng đầu lên, thoạt nhìn, ông đã thấy đó là một người khách lạ, theo đạo Hồi nên vội mời chàng vào trong và đóng cửa vườn lại.
Camaralzaman hỏi ông vì sao lại phải cẩn thận như vậỳ, ông già đáp:
- Vì tôi thấy anh là một người lạ mới tới đây lại là người Hồi giáo mà ở thành phố này đại đa số dân cư thờ cúng tà thần. Họ ghét cay ghét đắng những tín đồ Hồi giáo và đối xử rất tồi tệ với số ít chúng tôi theo đạo của đấng tiên tri của chúng ta. Chắc là anh không biết điều đó, nên thật là hết sức may mắn mà anh đã tới được tận đây mà không có một sự đụng độ xấu nào. Quả vậy, chúng theo dõì sát những người theo đạo Hồi ở xa tới, chưa thể biết hết những hành vi độc ác của chúng, để đưa họ vào một cái bẫy nào đó. Ca ngợi Thượng đế là đã đưa arth tới một nơi đảm bảo.
Camaralzaman cám ơn rất nhiều ông già tốt bụng đã hào hiệp cho chàng một chỗ ẩn náu để tránh mọi sự nhục mạ. Anh muốn nói thêm nữa nhưng ông già làm vườn vội bảo:
- Hãy để những lời khen tặng đó lại? anh còn đói mệt, cần phải ăn uống nghỉ ngơi đã.
Ông đưa anh vào ngôi nhà nhỏ của ông và sau khi đã ăn uống đầy đủ các món ăn mà ông già đưa cho anh một cách thân tình làm anh cảm động, ông già mới yêu cầu anh cho biết lý do việc anh đến đây.
Camaralzaman thoả mãn ý muốn của ông và khi đã kể hết chuyện của mình không hề giấu giếm một tí gì, anh hỏi ông đường trở về vương quốc của cha. anh vì, anh nói thêm:
- Nếu tính đến chuyện gặp lại công chúa thì biết tin nàng ở đâu sau mười một ngày xa cách nhau vì một sự cố thật lạ lùng? Không biết là nàng có sống hay không nữa?
Nói tới đây, chàng không sao cầm được nước mắt.
Để trả lời cho câu hỏi của Camaralzaman, ông già làm vườn bảo chàng là từ thành phố này ra đi thì phải mất tròn một năm trời mới tới được những xứ sở mà ở đó chỉ có toàn những tín đồ Hồi giáo được chăn dắt bởi những quốc vương đồng đạo. Nhưng nếu theo đường thuỷ đi tới đảo Gỗ Mun thì mất ít thời gian hơn rất nhiều và từ đó đi sang đảo Những Đứa Con Của Khalédan thì lại vô cùng dễ dàng. Hàng năm đều có một tàu buôn nhổ neo đi tới đảo Gỗ Mun và chàng có thể đáp tàu này để từ đó mà về đảo Những Đứa Con Của Khalédan. Ông nói thêm:
Nếu anh tới đây sớm hơn vài ba ngày thì đã có thể lên tàu hằng năm đi đảo Gỗ Mun rồi. Trong thời gian chờ đợi lên chuyến tàu sau, nếu anh đồng ý ở lại thì tôi rất vui lòng nhường căn nhà nhỏ này cho anh ở tạm.
Hoàng tử Camaralzaman thấy rất hài lòng tìm được chỗ ẩn trú ở một nơi không một người quen biết, trong tay không có một chút gì. Chàng nhận lời ở cùng với ông già làm vườn. Trong thời gian chờ đợi chuyến tàu buôn sau đi tới đảo Gỗ Mun, ban ngày chàng làm vườn, còn ban đêm, không có gì ngăn chàng không được nghĩ tới công chúa Badoure thương yêu của mình. Chàng qua đêm bằng những tiếng thở dài, bằng sự tiếc nuối và bằng nước mắt.
Nhưng chúng ta hãy để hoàng tử Camaralzaman tại đây để quay về với công chúa Badoure mà chúng ta đã để nàng nằm ngủ trong lều.
Chương 23: Công chúa sau khi xa cách hoàng tử
Chỉ có công chúa và những người hẩu trong trại biết chuyện Camaralzaman mất tích vì lúc đó tất cả những người khác đều đã vào trong các lều để ngủ hoặc nghỉ ngơi.
Công chúa nằm ngủ khá lâu và khi thức dậy, nàng rất ngạc nhiên vì không thấy hoàng tử ở bên mình. Nàng gọi người hầu và hỏi họ xem chàng ở đâu. Trong khi bọn chúng nói với nàng là có thấy chàng vào trong lều nhưng đi ra lúc nào thì không biết, nàng với tay cầm lấy chiếc thắt lưng của mình, thì thấy cái túi vải nhỏ bị mở ra và tấm bùa thì không còn ở trong đó. Nàng không tin là Camaralzaman lấy ra xem mà lại không mang trả lại nàng. Nàng chờ mãi tới buổi chiều lòng nóng như lửa đốt và không hiểu cái gì đã buộc chàng phải xa nàng lâu như vậy. Mãi tới tối mịt cũng không thấy chàng về, nàng lo buồn không sao tả xiết. Nàng nguyền rủa không biết bao nhiêu lần tấm bùa và kẻ làm ra nó. Nếu không vì lòng kính trọng ngăn giữ thì nàng còn lầm bầm trách oán cả hoàng hậu mẹ nàng đã cho nàng một tặng vật tai hại. Tuy hết sức buồn bực vì chuyện xảy ra và nhất là không hiểu do đâu mà tấm bùa lại có thể là nguyên nhân làm cho hoàng tử xa cách nàng. Nhưng vẫn tỉnh táo trong nhận định, nàng đi đến một quyết định dũng cảm, ít có đối với những người cùng giới.
Chỉ có công chúa và những người hẩu trong trại biết chuyện Camaralzaman mất tích vì lúc đó tất cả những người khác đều đã vào trong các lều để ngủ hoặc nghỉ ngơi. Vì nàng sợ chúng có thể đem lòng phản bội khi biết rõ chuyện xảy ra, trước hết nàng kiềm chế bớt nỗi đau của mình và cấm tất cả các nữ tì là không được nói hoặc làm gì để gây sự nghi ngờ cho mọi người khác. Rồi nàng cởi bỏ y phục của mình, mặc vào bộ của Camaralzaman. Nàng giống chàng kỳ lạ nên sáng hôm sau, khi bọn tuỳ tùng thấy chàng xuất hiện ra lệnh cho chúng hạ lều gấp gọn hành lý để lên đường thì chúng tưởng chính là hoàng tử Camaralzaman. Khi tất cả đã sẵn sàng, nàng cho một trong các cô hầu nằm vào giường cáng, còn nàng thì lên ngựa và cuộc hành trình bắt đầu.
Sau nhiều tháng rong ruổi trên bộ, trên biển, công chúa điều hành chuyến đi dưới cái tên hoàng tử Camaralzaman. Để đến đảo Những Đứa Con Của Khalédan nàng đã phải tạt vào kinh đô của đảo Gỗ Mun mà quốc vương trị vì lúc đó là Armanos. Những người tuỳ tùng đầu tiên lên bộ để kiếm nhà trọ đã nói cho nhiều người biết là tàu chở hoàng tử Camaral-zaman từ một chuyến du lịch dài ngày trở về, vì thời tiết xấu buộc phải lưu lại. Tiếng đồn chẳng mấy chốc đã lan tới tận hoàng cung.
Nhà vua Armanos với phần lớn các triều thần bèn tới trước công chúa và gặp nàng vừa lên bờ để tới nơi nghỉ trọ đã được giữ lại cho nàng. Nhà vua đón tiếp nàng như một quốc vương nước bạn mà từ xưa tới nay vẫn sống hữu hảo. Ông đưa nàng về hoàng cung, sắp xếp chỗ ở cho nàng và cho cả đoàn người tuỳ tùng, nhất định không chịu nghe những lời nàng khẩn khoản cho được ở nơi quán trọ. Nhà vua lại chiêu đãi nàng rất linh đình suốt ba ngày, trong những bữa tiệc thật huy hoàng thịnh soạn.
Khi ba ngày đã trôi qua, vì nhà vua Armanos vẫn tưởng công chúa là hoàng tử Camaralzaman, ông thật thán phục thấy một hoàng tử khôi ngô tuấn tú, dáng điệu hoà nhã và rất thông minh nên khi nàng nói đến chuyện trở lại tàu tiếp tục cuộc hành trình thì ông gọi riêng ra nói:
- Hoàng tử ạ - Ông bảo công chúa - Ta thì tuổi đã cao như chàng thấy đó, ít có hi vọng là có thể sống lâu hơn nữa. Ta có một nỗi buồn là không có con trai để nối ngôi báu. Ông trời chỉ cho ta duy nhất một mụn con gái cũng có chút nhan sắc có thể xứng đôi vừa lứa được với chàng, một hoàng tử xuất thân quyền quý và hoàn hảo về mọi mặt. Thay vì cho việc trở lạl quê hương, chàng hãy nhận lấy con gái ta từ tay ta trao cho chàng cùng với ngôi báu mà ta sẵn sàng thoái vị ngay lúc này nhường cho chàng. Hãy ở lại đây với chúng ta. Đã đến lúc ta cần tìm đến sự nghỉ ngơi yên tĩnh sau bao nhiêu năm gánh vác công việc quốc gia và ta có thể yên tâm khi thấy đất nước mình được một người kế vị xứng đáng trị vì.''
Hoàng hậu Scheherazade muốn kể tiếp nhưng ánh sáng ban ngày chiếu rọi đã ngăn nàng lại. Đêm sau, nàng kể tiếp cũng chuyện đó và nói với hoàng Đế Ấn Độ:
- Tâu bệ hạ, lòng hào hiệp của quốc vương đảo Gỗ Mun muốn gả cô con gái độc nhất của mình cho công chúa Badoure thì làm sao mà nàng nhận được vì mình cũng là gái, và lại còn muốn nhường ngôi cho nàng đưa nàng vào một tình thế thật khó xử mà nàng không chờ đợi. Nói thật là nàng không phải là hoàng tử Camaralzaman mà là vợ của chàng thì thật đáng xấu hổ cho một công chúa đã làm cái trò lừa bịp tự nhận mình là hoàng tử và đã đóng vai này rất đạt cho tới lúc này. Nếu từ chối thì lại lại lo sợ là, nhà vua quá thiết tha cho cuộc hôn nhân của con gái, sẽ khiến cho nàng có thể nguy hiểm tới tính mạng. Hơn nữa, không biết là nàng có gặp lại được hoàng tử Camaralzaman nơi quốc vương Schahzaman cha chàng hay không.
Cân nhắc như vậy cộng với ý muốn tạo lập cho hoàng tử chồng mình một giang sơn riêng trong trường hợp tìm lại được nhau đã khiến công chúa quyết định nhận lời đề nghị của quốc vương Armanos. Vì vậy sau một hồi im lặng, với một sắc hồng hồng trên vẻ mặt mà nhà vua cho là đức tính khiêm nhường, nàng thưa:
- Tâu bệ hạ, tôi vô cùng biết ơn Người đã có những lời nói tết đẹp về bản thân tôi, đã ban cho vinh dự và sự ưu ái lớn, quá với sự xứng đáng mà tôi chẳng dám chối từ. Nhưng tâu bệ hạ nàng thêm tôi sẽ chỉ nhận sự liên kết vĩ đại này với điều kiện là được Người khuyên bảo trong tất cả mọi việc và tôi sẽ không làm bất cứ một điều gì mà không được Người chấp thuận trước.
Cuộc hôn nhân được sắp xếp và thoả thuận như vậy, hôn lễ được lui vào hôm sau và công Chúa Badoure tranh thủ thời gian đó để thông báo với những quan chức tuỳ tùng của mình, vẫn tưởng nàng là hoàng tử Camaralzaman, biết rõ sự tình để họ khỏi có sự ngỡ ngàng và đồng thời nàng cũng bảo với họ là việc này cũng đã được sự đồng ý của công chúa Badoure. Nàng cũng nói như thế với các nữ tì của mình và bảo chúng vẫn phải tiếp tục giữ kín.
Quốc vương đảo Gỗ Mun, vui mừng vì có đưởc một phò mã ưng ý, đã cho thiết triều ngay hôm sau để tuyên bố công chúa con gái ông kết hôn với hoàng tử Camarạlzaman mà ông đã dẫn theo và cho ngồi bên cạnh mình. Rồi ông tuyên bố truyền ngôi báu cho chàng, phủ dụ triều thần tuân phục vua mới và dâng lời chúc tụng. Nói xong ông bước xuống, dắt công chúa Badoure ngồi lên ngai vàng thay ông. Công chúa an toạ và nhận lời thề trung thành cùng những lời chúc tụng của các đại thần có thế lực nhất của quốc đảo Gỗ Mun có mặt tại triều đình lúc đó.
Sau buổi thiết triều, tin vua mới đăng quang được long trọng bố cáo toàn thành phố. Những cuộc vui chơi được tổ chức nhiều ngày trong toàn vương quốc để khắp nơi cùng mở hội hè biểu thị sự mừng vui cùng một lúc với kinh thành.
Buổi chiều, tất cả hoàng cung tưng bừng dạ hội, công chúa Haiatalnefous (đó là tên công chúa quốc đảo Gỗ Mun) được dẫn đến với công chúa Badoure mà tất cả mọi ngườI đều vẫn tưởng là một đấng nam nhi trong một đám rước thực sự là vương giả. Nghi lễ kết thúc, họ để lại hai người với nhau và hai nàng đi ngủ.
Sáng hôm sau, trong lúc công chúa Badoure đang nhận lời chúc tụng tại triều đình của tất cả triều thần về cuộc hôn nhân và về việc đăng quang của mình thì quốc vương Armanos và hoàng hậu tới hậu cung thăm tân hoàng hậu, con gái của họ và hỏi xem đêm tân hôn của nàng có vui vẻ không. Thay vì đáp lại câu hỏi của phụ hoàng và mẫu hậu, nàng cứ nhìn xuống và nét buồn hiện trên vẻ mặt cho biết khá rõ là nàng chẳng được hài lòng.
Để an ủi công chúa Haiatalnefous, vua Armanos bảo nàng:
- Con chẳng nên buồn vì điều đó. Hoàng tử Camaralzaman khi ghé đây chỉ nghĩ tới về càng sớm càng hay với phụ hoàng của chàng là Schahzaman. Dù rằng chúng ta giữ chàng lại một điểm có thể làm cho chàng thoả lòng mãn ý đấy, nhưng ít ra chúng ta phải thấy là chàng có một tiếc nuối lớn lao là bỗng chốc mất đi hi vọng được thấy lại cả cha chàng, cả những người thân trong gia đình. Con hãy an lòng chờ cho đến lúc những tình cảm yêu thương của tình phụ tử dần dần lắng bớt đi thì chắc là chàng sẽ đối xử với con đúng như một người chồng tốt.
Công chúa Badoure, dưới cái tên Camaralzaman và quốc vương đảo quốc Gỗ Mun không những cả ngày bận rộn với những lời chúc tụng của triều thần mà còn phải đi duyệt quân đội và các quan chức khác của hoàng tử với vẻ đàng hoàng chững chạc đầy tài năng khiến cho tất cả những ai được chứng kiến đều phải ngưỡng mộ và hoan nghênh.
Đến tối nàng mới trở về cung thất của hoàng hậu Haiatalnefous, thấy vẻ miễn cưỡng tiếp đón của công chúa, nàng nhớ lại đêm hôm trước. Nàng cố gắng xua tan nỗI buồn đó của công chúa bằng một cuộc chuyện trò kéo dài với nàng, trong đó, nàng vận dụng hết trí thông minh mà nàng có thừa để khẳng định là rất yêu nàng. Rồi cuối cùng nàng nói cho công chúa đi ngủ, và trong lúc đó thì nàng cầu nguyện, nhưng cầu nguyện lâu đến nỗi công chúa Haiatalnefous chờ không được, ngủ trước mất. Lúc đó nàng mới ngừng cầu nguyện và khẽ nằm xuống cạnh không để nàng bị thức giấc, buồn rầu vì phải đóng một vai trò không thích hợp chẳng kém nỗi buồn đã để mất chàng Camaralzaman vô vàn yêu thương đến mức không ngừng thở vắn than dài. Nàng trở dậy từ tờ mờ sáng, trước khi Haiatalnefous thức giấc, mặc triều phục bước ra điện thiết triều.
Quốc vương không quên lại đến thăm hoàng hậu con gái mình ngày hôm đó. Ông thấy nàng đầm đìa nước mắt. Nhà vua nhanh chóng hiểu nguyên nhân của nỗi buồn khổ đó. Bất bình về sự khinh khi đối với con gái mình, ông cho là như vậy, mà ông cũng không rõ nguyên nhân, ông bảo nàng:
- Con gái của cha, hãy kiên nhẫn cho đến đêm sau nữa, cha biết đưa chồng con lên ngôi báu thì cha cũng biết hạ bệ và tống cổ nó đi nếu nó không làm tròn bổn phận của một người chồng. Trong cơn bực bội thấy con bị đốl xê không xứng đáng như vậy cha cũng không biết là mình đã bằng lòng với một sự trừng phạt nhẹ nhàng như thế chưa. Không phải là với con, mà chính là với bản thân cha đây, nó đã làm một sự mạo phạm ghê gớm.
Cũng ngày hôm đó, công chúa Badoure về với nàng Haiatalnefous rất muộn. Cũng như đêm trước, Badoure chuyện trò một lát với Haiatalnefous và lại muốn đi cầu nguyện trong khi Haiatalnefous nằm ngủ. Nhưng Haiatalnefous giữ lại và bắt nàng ngồi xuống.
- Sao! - Nàng bảo Badoure - Theo như em thấy thì chàng định lại xử sự với em như hai đêm trước phảI không? Chàng hãy nói đi, em van chàng, em đã làm gì để chàng không được hài lòng, một công chúa như em chắng những yêu mà còn tôn thờ chàng. Em tự cho mình là một công chúa hạnh phúc nhất trong các công chúa ngang hàng, được có một chàng hoàng tử đáng yêu như chàng làm chồng. Một người khác, em không nói là bị xúc phạm, mà ìà bị nhục mạ ở cái điểm rất nhạy cảm đó, hẳn là đã tìm cơ hội tất để trả thù, cho chàng phải chịu đựng số phận hẩm hiu. Nhưng dù em có không yêu chàng tới mức như hiện nay em yêu, thì bản tính tốt và dễ xúc động trước bất hạnh của những người chẳng liên quan gì tới mình cũng không cho phép em không báo trước cho chàng hay là phụ vương em vô cùng giận dữ về cách thức xử sự của chàng. Người chỉ chờ đến ngày mai là trút lên đầu chàng cơn thịnh nộ cần phảỉ có nếu chàng cứ tiếp tục như thế. Xin chàng hãy suy nghĩ để đừng đưa một công chúa như em đây phải lâm vào tình trạng tuyệt vọng, một công chúa không sao có thể tự ngăn mình lại là không yêu chàng.
Những lời trên đây làm công chúa Badoure vô cùng bối rối. Nàng không một chút nghi ngờ sự thành thực của Haiatalnefous. Thái độ lạnh nhạt của quốc vương Armanos hôm đó đối với nàng đã nói lên rất rõ sự bất như ý của Người. Cách duy nhất để biện minh tư cách của nàng là tâm sự cùng Halatalnefous nói rõ giới tính của mình. Mặc dù đã dự kiến sớm hay muộn cũng bắt buộc phải nói ra điều này, nhưng rồi đây công chúa sẽ đánh giá ra sao, tốt hay xấu, nàng lại thấy run sợ. Khi nàng đã cân nhắc kỹ, trường hợp mà hoàng tử Camaralzaman còn sống thì thể nào cũng phải tới đảo Gỗ Mun trước khi về vương quốc của nhà vua Schahzaman, nàng phải tụ giữ mình nguyên vẹn cho chàng. Nàng chỉ có thể làm được việc đó bằng cách nói thật tất cả sự tình với công chúa Haiatalnefous mà thôi. Và nàng đánh liều đi theo con đường đó.
Vì công chúa còn đang mải suy nghĩ chưa nói gì cả, Haiatalnefous sốt ruột vừa định nói nữa thì Badouré ngăn lại:
- Thưa công chúa đáng yêu và vô cùng xinh đẹp - nàng nói - Xin thú thực là tôi đã sai và tôi phải tự lên án mình, nhưng hi vọng là nàng sẽ tha thứ và hãy giữ kín cho về chuyện tôi sẽ tiết lộ với nàng để thanh minh về thái độ của mình.
Cùng lúc, công chúa Badoure mở ngực áo:
Công chúa hãy trông đây - Nàng nói tiếp - Nếu một công chúa, cũng là đàn bà như nàng mà không xứng đáng được nàng tha thứ thì sẽ ra sao đây? Tôi chắc chắn là nàng sẽ vui lòng làm việc đó sau khi nghe hết câu chuyện của tôi và nhất là thấy được sự rủi ro hết sức phiền não đã bắt buộc tôi phải sắm vai mà nàng thấy đó.
Khi công chúa Badoure đã kể cho công chúa quốc đảo Gỗ Mun nghe hết cả tình tiết câu chuyện của mình và một lần nữa xin nàng giữ kín và làm như Badoure đích thực là một người chồng biết giữ và làm tròn bổn phận của mình cho đến ngày trở về của hoàng tử Camaralzaman mà nàng hi vọng là sớm được gặp lại.
- Công chúa ạ - Công chúa quốc đảo Gỗ Mun nói - Đúng là số mệnh thật kỳ lạ. Một cuộc hôn nhân tuyệt vời như thế mà sao lại ngắn ngủi, sau một cuộc tình đầy chuyện thần kỳ! Tôi chúc chị là ông trời sẽ sớm cho hai người sum họp. Chị hãy tin là tôi sẽ giữ kín một cách cẩn trọng điều bí mật chị trao. Tôi sẽ có một niềm vui lớn nhất thế gian vì là người duy nhất được biết chị là ai trong một vương quốc rộng lớn của đảo Gỗ Mun này, trong khi chị trị vì cũng xuất sắc như lúc khởi đầu. Tôi đã đòi ở chị tình yêu, và lúc này thì tôi có thể tuyên bố mình là người hài lòng nhất thế gian nếu được chị hạ cố ban cho tình bạn của chị.
Sau những câu nói đó, hai nàng công chúa ôm lấy nhau vô cùng âu yếm và sau hàng nghìn biểu hiện tình cảm bạn bè qua lại, họ cùng nhau đi ngủ. Theo phong tục của xứ sở thì dấu hiệu của một cuộc hôn nhân vui vẻ phải được bày tỏ công khai. Hai nàng công chúa đã tìm cách vượt qua được thử thách đó. Vì vậy những nữ tì hầu cận của công chúa Haiatalnefous cũng bị lừa vào sáng hôm sau, kể cả vua Armanos, hoàng hậu và toàn thể triều thần. Cứ như thế, công chúa Badoure tiếp tục trị vì yên ổn với sự hài lòng của nhà vua và toàn vương quốc''
Hoàng hậu scheherazade đêm nay không kể thêm nữa vì mặt trời đã nhô lên. Nàng kể tiếp vào đêm sau và nói với hoàng Đế Ấn Độ thế này:
Chương 24: Những ngày tiếp theo
Khi công chúa Badoure nói xong, nàng yêu cầu hoàng tử cho nàng biết vì sao tấm bùa lại là nguyên nhân của sự phân ly giữa hai người.
“- Tâu bệ hạ, trong lúc ở quốc đảo Gỗ Mun, sự thể giữa công chúa Badoure, công chúa Haiatalnefous và quốc vương Armanos cùng với hoàng hậu, triều đình và các thần dân của vương quốc trong tình trạng như thế thì hoàng tử Camaralzaman vẫn sống ở thành phố của những người theo tà đạo, tại nhà ông già làm vườn đã cho chàng trú ngụ. Một hôm vào buổi sáng sớm, hoàng tử sắp sửa đi ra vườn làm việc theo thói quen thì ông già làm vườn tốt bụng ngăn chàng lại bảo:
- Những người theo tà giáo hôm nay có lễ hội lớn và tất cả đều nghỉ việc để họp hội và vui chơi nơi công cộng. Họ cũng không muốn những người Hồi giáo làm việc trong ngày này. Để giữ hoà khí với họ, những người theo đạo HồI cũng nên tham gia trong những cuộc vui chơi với họ, kể cũng đáng xem đấy. Vậy anh cũng nên nghỉ ngày hôm nay. Còn tôi, tôi sẽ đến thăm một vài người bạn và hỏi tin tức cho anh xem ngày nào thì chuyến tàu buôn đi đảo Gỗ Mun giương buồm vì cũng đã gần tới hạn rồi đấy. Và đồng thời tôi cũng sửa soạn cho anh đáp tàu cho kịp.
Ông gìa làm vườn thay y phục mặc vào bộ thật đẹp rồi đi ra.
Khi hoàng tử Camaralzaman còn lại một mình. Chàng cũng chẳng buồn đÌ ra ngoài tham gia vào các cuộc vui chơi công cộng đang vang dội khắp thành phố. Sự nhàn nhã lúc này làm chàng càng nhớ một cách mãnh liệt hơn bao giờ hết tới kỷ niệm buồn về nàng công chúa thân yêu của mình. Tĩnh tâm lại, chàng thở dài rên rỉ và đứng lên đi dạo trong vườn, bỗng trên cây có tiếng động khá bất thường do hai con chim gây ra làm chàng dừng bước, ngẩng đầu lên quan sát.
Camaralzaman ngạc nhiên thấy chúng hung hăng mổ nhau rất dữ và chỉ một lát sau một trong hai con chim lăn xuống chết bên gốc cây. Con kia thắng trận bay vù đi mất.
Ngay lúc đó, hai con chim khác lớn hơn, nhìn thấy trận chiến từ xa, đã từ một ngả khác bay lại, đỗ xuống, một con phía đầu, một con phía chân của con chim bị chết, nhìn nó một lát lắc lắc đầu tỏ vẻ đau xót. Rồi chúng dùng chân có móng bới đất làm thành một cái hố, đẩy xác con chim xuống và lấp đất lên.
Xong việc chúng bay vù đi và chỉ một thoáng sau chúng quay về cặp ở mỏ, con này cái cánh, con kia cái chân con chim hung thủ đang kêu lên những tiếng thảm thiết và cố sức vùng vẫy mong cố thoát. Hai con chim lớn mổ toạc bụng, lôi gan ruột ra, rồi để xác nó tại chỗ và bay đi.
Camaralzaman đứng lặng người xem, đầy vẻ thán phục cái cảnh tượng lạ lùng đó. Chàng tới gần gốc cây mà cảnh vừa rồi diễn ra, nhìn đống gan ruột chim bầy ra bừa bãi, chàng nhận thấy có một vật gì đo đỏ trồi ra từ cái mề con chim bị hai con chim báo thù kia mổ rách. Chàng lượm cái mề đó lên, đưa tay kéo cái vật màu đo đỏ ấy ra và nhận thấy đó là tấm bùa của công chúa Badoure người yêu dấu của chàng mà chàng đã phải trả giá bằng bao nhiêu niềm tiếc nuối, bao nhiêu sầu tủi, bao nhiêu tiếng thở dài não một từ ngày con chim đó cướp đi của chàng.
- Quân độc ác? - Chàng nhìn con chim thốt kêu lên - Mày thích làm điều ác thì phải gặp điều ác. Cái chết của mày cũng làm dịu đi phần nào nỗi tức bực về tai hoạ mày đã gây cho ta. Ta chúc điều tốt lành cho những kẻ đã báo thù cho cái chết của đồng loại đồng thời cũng trả thù cả cho ta nữa.
Không sao có thể tả được nỗi vui mừng của hoàng tử Camaralzaman:
Công chúa thương yêu - Chàng kêu lên - Cái thời điểm may mắn này đã trả lại cho ta vật quý của em phải chăng đó cũng là điềm báo trước ta sẽ gặp lại em sớm hơn là ta tưởng. Tạ ơn trời đã ban cho tôi cái may mắn này đồng thời cũng cho tôi niềm hi vọng lớn hơn cả điều tôi mong đợi.
Nói đoạn, Camaralzaman hôn tấm bùa, bọc nó lại và buộc chặt vào cánh tay mình. Trong nỗi buồn chán cùng cực, hầu hết các đêm, bị đằn vặt khổ sở, chàng không hề nhắm mắt. Sau cái sự cố vui vẻ bất ngờ này, chàng ngủ một giấc ngon lành và hôm sau, chàng mặc quần áo lao động vào rồi, từ tờ mờ sáng, đến gặp ông già làm vườn để nhận việc. Ông trao cho chàng việc đốn hạ và đánh bật rễ một cây cổ thụ không còn ra hoa quả nữa.
Camaralzaman cầm theo một lưỡi rìu và bắt đầu vào việc. Lúc chặt một khúc rễ cây, chàng cảm thấy đụng vào một vật gì cứng rắn và kêu xoang xoảng, gạt đất vụn sang một bên chàng phát hiện thấy một tấm đồng to. Lật lên thì thấy một cầu thang có tất cả mười bậc. Chàng bèn bước xuống và khi đã ở dưới cùng chàng thấy một cái hầm vuông rộng khoảng hai, ba thước, ở đó chàng đếm thấy năm chục chiếc vại bằng đồng xếp xung quanh hầm, vại nào cũng có nắp đậy kín. Chàng lần lượt mở nắp từng cái một và thấy cái nào cũng đầy bột vàng. Chàng lên khỏi hầm, cực kỳ sung sướng đã phát hiện ra một kho vàng giàu có. Chàng đặt cái tấm đồng vào chỗ cũ, đào nốt rễ cây và chờ ông già làm vườn trở về. Ông già làm vườn hôm trước được biết là con tàu hằng năm, đi tới đảo Gỗ Mun sẽ nhổ neo vào vài ngày tới nhưng chưa biết chính xác ngày nào và họ bảo sẽ trả lời ông vào ngày hôm sau. Ông trở về và vui mừng báo cho Camaralzaman:
- Con trai ạ - Ông thân mật bảo chàng - Hãy vui đi và chuẩn bị sẵn sàng ba ngày nữa tàu sẽ giương buồm, ta đã thoả thuận với thuyền trưởng cho con lên tàu và quá giang rôi.
- Với tình cảnh của con hiện nay - Camaralzaman nói - Không có gì dễ chịu hơn là tin bác vừa cho biết đấy. Và đổi lại, con cũng có một tin chắc sẽ làm bác vui. Bác hãy chịu khó đi ra đây với con và bác sẽ thấy ông trời vừa ban cho bác một tài sản khổng lồ.
Camaralzaman dẫn ông già làm vườn tới chỗ chàng đào rễ cây, đưa ông xuống hầm và chỉ cho ông thấy năm chục cái vại chứa đầy bột vàng và vui vẻ bảo đó là Thượng đế đã thưởng công cho đức hạnh và bao năm khó nhọc của ông chăm sóc khu vườn.
- Anh bảo sao? - Ông già nói - Vậy là anh tưởng là ta tự cho mình được sở hữu cái kho báu này ư? Tất cả là của anh, ta chẳng có chút gì ở đó cả. Tám chục năm rồi, từ ngày cha ta mất, hàng ngày ta đào xới khu vườn này mà nào có thấy gì đâu. Đúng là số phận đã định trước cho anh bởi vì Thượng đế đã cho phép anh tìm thấy kho báu đó. Nó thích hợp với một hoàng tử như anh hơn là cho ta đã gần kề miệng lỗ, chẳng còn nhu cầu gì nữa. Thượng đế đã ban cho anh đúng lúc anh trở về cố quốc. Nó phải thuộc về anh và anh sẽ sử dụng nó thật hữu ích.
Hoàng tử Camaralzaman không nhượng bộ trước một ông già vô tư và hào hiệp nên tranh cãi quyết liệt. CuốI cùng chàng bảo sẽ không lấy một tí gì nếu ông già không nhận cho phần mình một nửa kho báu. Ông già làm vườn dành chịu nghe và họ chia nhau: Mỗi người hai mươi lăm vại. Chia xong, ông già bảo Camaralzaman:
- Con trai ạ, thế cũng chưa xong đâu. Bây giờ phải mang tất cả xuống tàu và phải chuyển đi bí,mật để không ai biết, nếu không sẽ bị mất như chơi đấy. Ở đảo Gỗ Mun không có quả ô liu, nếu mang từ đây về đấy thì rất có giá. Anh biết đấy, tôi có một kho dự trữ những quả ô liu hái ngay trong vườn nhà. Bây giờ anh phải kiếm năm chục chiếc bình, chứa một nửa bình bột vàng, còn lại nửa trên thì chứa quả ô liu. Cả năm chục bình đều làm như thế và tôi sẽ cho chuyển lên tàu, hôm nào anh đi.
Camaralzaman làm theo lời khuyên đó và đùng nửa ngày còn lại để thu xếp năm chục chiếc bình và anh sợ là tấm bùa đeo ở cánh tay mình có thể vô tình đánh rơi nên đã cẩn thận nhét nó vào một chiếc bình mà anh đánh đấu để cho dễ nhận thấy. Khi đã chuẩn bị xong xuôi cho tất cả các bình rồi, vì trời cũng đã tối nên anh cùng ông già làm vườn trở về, anh kể cho ông già nghe chuyện hai con chim đánh nhau vì thế anh tìm lại được tấm bùa của công chúa Bađoure. Ông tỏ vẻ ngạc nhiên và cũng rất mừng cho anh.
Có thể vì tuổi cao, cũng có thể vì ông đã hoạt động quá sức ngày hôm đó nên ông già làm vườn đêm ấy thấy khó thở và không ngủ được. Khó chịu trong người kéo dài đến cả ngày hôm sau và sang đến ngày thứ ba thì bệnh càng nặng thêm. Trời vừa sáng thì tự thân người thuyền trưởng và nhiều thuỷ thủ tới gõ cửa khu vườn. Camaralzaman ra mở cửa, họ hỏi ai là người khách sẽ đáp tàu của họ. Chàng đáp:
- Chính là tôi đây. Ông già làm vườn, người đã xin cho tôi quá giang, lúc này đang bị ốm không gặp ngài được. Dù vậy xin mời cứ vào nhà và nhờ các vị mang hộ tôi những bình chứa ô liu kia và cả áo quần của tôi nữa. Tôi sẽ theo chân các vị ngay sau khi đã cáo biệt ông già làm vườn.
Các thuỷ thủ bê các bình ô liu và mang quần áo đi. Chia tay Camaralzaman, viên thuyền trưởng bảo:
- Xin ông ra bến ngay cho, trời đã thuận gió và tôi chỉ chờ có ông thôi là giương buồm đ
Ngay khi người thuyền trưởng và các thuỷ thủ vừa đi khuất, Camaralzaman trở vào nhà để cáo biệt và cảm tạ sự giúp đỡ tận tình của ông. Nhưng thấy ông đang hấp hối, chẳng kịp xưng tội, theo tập quán của những tín đồ Hồi giáo trung thành, ông đã thở hơi thồ cuối cùng.
Trong hoàn cảnh phải xuống tàu gấp, hoàng tử Camaralzaman khẩn trương làm đầy đủ bổn phận đối với người quá cố. Chàng lau rửa thân thể, khâm liệm cho ông và sau khi đào một hố sâu trong vườn (vì những người theo đạo Hồi chỉ là số ít trong thành phố của những người theo tà giáo nên không có nghĩa địa chung) Chàng một mình chôn cất ông và chỉ hoàn tất khi trời đã ngả về chiều. Chàng không để mất thì giờ, vội vàng đi ngay để xuống tàu. Nhưng tới bến cảng, chàng được biết là tàu đã nhổ neo từ lâu và lúc này cũng đã mết hút rồi. Người ta còn cho hay là tàu chỉ giương buồm đi sau khi chờ anh tròn ba tiếng đồng hồ.''
Scheherazade muốn kể tiếp nhưng nhìn thấy mặt trời đã nhô lên nên nàng ngừng lại. Nàng kể tiếp chuyện của Camaralzaman vào đêm sau và nói với hoàng đế đất nước Ấn Độ:
- Tâu bệ hạ, hoàng tử Camaralzaman, cũng dễ hiểu thôi, cực kỳ buồn nản thấy buộc phải nán ở lại trong một xứ sở không quen ai và cũng chẳng muốn làm quen với một ai suốt một năm trường nữa chỉ vì đê lỡ cơ hội vừa qua. Điều làm cho chàng lo âu hơn nữa là đã tuột khỏi tay mình tấm bùa của công chúa Badoure và ehàng cho thế là đã mất hẳn. Không còn cách nào hơn là quay trở lại khu vườn cũ, tiếp tục trồng trọt và than thở cho số phận hẩm hiu. Để đỡ nhọc mệt trong công việc, chàng mướn thêm một thanh niên để đỡ chân tay. Và để khỏi mất hết nửa phần kia của kho báu lúc này cũng thuộc về chàng vì ông già làm vườn mất đi không có người thừa tự. Chàng cho bột vàng vào năm chục chiếc bình khác, đặt lên trên đầy những quả ô liu mỗi bình như lần trước và sẽ cho chuyển lên tàu cùng với mình khi có chuyến đi tới đảo Gỗ Mun
Trong khi hoàng tử Camaralzaman bắt đầu lại một năm khác đầy vất vả, đau thương và sốt ruột thì con tàu tlếp tục cuộc hành trình với làn gió rất thuận và cặp bến an toàn ở Kinh đô đảo quốc Gỗ Mun.
Vì hoàng cung được xây dựng ngay trên bờ biển và tân vương, rõ hơn là công chúa Badoure nhìn thấy con tàu giữa lúc nó đi vào bến với tất cả các cờ xí gió thổi phần phật, bèn hỏi là tàu gì và được trả lời đó là một chiếc tàu buôn chở nhiều hàng hoá quý cứ đến cữ này là từ thành phố của những người theo tà giáo tới.
Công chúa, dù được sống giữa những cảnh tráng lệ huy hoàng nhưng không lúc nào không nhớ tới Camaralzaman vì vậy cho rằng chàng có thể có mặt trên tàu này nên nảy ra ý muốn là đi ra đón không phải muốn cho chàng nhận ra mình (vì nàng tin là chàng chẳng thể nhận ra) mà để xem đúng là có chàng không ngõ hầu có những blện pháp đúng lúc để cùng nhận ra nhau. Dưới cái cớ là tự mình muốn tìm hiểu về hàng hoá, được thấy trước mọi người để chọn được những thứ hàng quý thích hợp, nàng sai mang ngựa đến. Nàng đi ra bến, có nhiều quan chức đứng cạnh nàng lúc đó tháp tùng. Ra tới bến cảng giữa lúc người thuyền trưởng bước lên bờ, nàng gọi y đến, và hỏi y từ đâu tới, hết bao nhiêu thời gian thì đến đây, trong cuộc hành trình gặp những điều gì tốt xấu, có đưa theo người khách nào sang trọng và nhất là tàu chở hàng gì. Người thuyền trưởng trả lời tất cả câu hỏi của nàng, còn về những khách quá giang, y quả quyết chỉ có những nhà buôn vẫn quen tới đây và họ mang theo rất nhiều loại vải quý của nhiều nước khác nhau, những tấm vải đẹp nhất, có nhuộm màu hoặc để mộc, rồi ngọc ngà xạ hương, long não, hàng tạp hoá, thuốc chữa bệnh, quả ô liu và nhiều thứ khác.
Công chúa Badoure rất thích quả ô liu. Nghe nói có quả đó, lập tức nàng bảo thuyền trưởng:
- Hãy cho rỡ tất cả quả ô liu lên đây ngay, ta sẽ mua hết. Còn những thứ hàng hoá khác, ngươi báo cho các thương nhân mang lên cho ta những hàng đẹp nhất trước khi để cho những người khác xem.
Tâu bệ hạ - Thuyền trưởng cho nàng là vua quốc đảo Gỗ Mun vì quả thật là nàng đang mặc hoàng bào – Có tất cả năm chục bình lớn chứa quả ô liu nhưng lại thuộc về một nhà buôn còn lại ở trên đất liền. Chính tôi đã đến báo cho ông ta giờ nhổ neo và đã chờ rất lâu. Thấy ông ta không tới và nếu chậm trễ thì không lợi dụng được cơn gió thuận, không kiên nhẫn được nữa, tôi đành phải cho giương buồm.
- Mặc dù vậy, ngươi cũng cứ cho bốc lên - Công chúa bảo - Cái đó cũng chẳng trở ngại gì cho việc múa bán cả.
Viên thuyền trưởng cho xuồng bơi ra con tàu và chẳng mấy chốc đã quay về chở đầy xuồng các bình chứa quả ô liu. Công chúa hỏi năm chục bình đó đáng giá bao nhiêu ở đảo Gỗ Mun này.
Tâu bệ hạ - Thuyền trưởng đáp- Thương nhân đó nhà rất nghèo. Người sẽ ban ơn lớn cho ông ta, nếu trả cho ông ta một nghìn đồng tiền bạc.
Để cho ông ta hài lòng và theo nhà ngươi nói thì nhà ông ta nghèo vậy ta sẽ cho chi ra một nghìn đồng tiền vàng, nhà ngươi có trách nhiệm trao lại cho ông ta.
Nàng ra lệnh trả tiền rồi cho mang đi tất cả những chiếc bình về cung, và nàng cũng quay gót.
Đêm tới gần, công chúa Badoure trước hết lui về hậu cung đến thẳng phòng của công chúa Haiatalnefous và sai mang tới năm chục chiếc bình ô liu vừa mua. Mở ra một bình để nếm thử, nàng đổ một ít ra đia và rất ngạc nhiên thấy các quả ô liu đều dính bụi vàng.
- Sao lạ thế này! Thật là kỳ diệu! - Nàng kêu lên.
Nàng cho: các thị nữ của Haiatalnefous mở hết các bình và dốc tất cả ra trước mặt mình và sự thán phục của nàng càng tăng khi thấy dưới đáy mỗi bình chứa toàn bột vàng. Nhưng khi mở tới chiếc bình mà Camaralzaman giấu tấm bùa vào đó, khi dốc ra, nàng nhìn thấy thì vô cùng sửng sốt và lăn ra bất tỉnh.
Công chúa Haiatalnefous cùng các thị nữ vội vàng ra sức cấp cứu, vỗ nước lạnh vào mặt. Nàng từ từ tỉnh dậy, cầm lấy tấm bùa và hôn lấy hôn để. Nhưng vì nàng không muốn nói gì cả trước mặt các thị nữ của công chúa Haiatalnefòus vẫn chưa biết nàng cải trang vả lại cũng đã đến giờ đi ngủ, nàng liền cho họ lui.
- Công chúa ạ - Nàng bảo Haiatalnefous khi thấy chỉ còn hai người - Sau khi đã được nghe chuyện của chị rồi, chắc là em cũng thấy sở dĩ chị quá xúc động ngất đi là vì tấm bùa này đây. Nó là nguyên nhân của sự chia ly đau khổ giữa chị và chàng, hoàng tử Camaralzaman. Nó sẽ là, chị chắc thế, điềm báo cuộc sum họp của chúng mình sắp tới.
Hôm sau mới tang tảng sáng, công chúa Badoure đã đòi viên thuyền trưởng tới. Khi ông đến, công chúa bảo:
- Nhà ngươi hãy nói thêm về người thương nhân chủ những bình quả ô liu mà ta mua hôm qua. Ngươi đã nói, hình như thế, là nhà ngươi đã để ông ta ở lại trên đất liền trong thành phố của những người theo tà giáo. Nhà ngươi có thể cho biết ông ta làm gì ở đó không
- Tâu bệ hạ - Thuyền trưởng đáp- Tôi có thể khẳng định với bệ hạ một điều mà tôi biết rõ. Tôi đã thoả thuận về việc quá giang của ông ta với một người làm vườn rất già. Ông cụ già bảo là tôi đến tìm ông ta tại vườn của cụ mà cụ cho tôi địa điểm cũng là nơi ông ta làm thuê cho ông cụ. Cũng biết như vậy nên tôi đã nói với Người là ông ta rất aghèo. Tôi đã tự mình đến tìm ông ta tại khu vườn đỡ nói chuyện với ông ta và bảo ông xuống tàu ngay.
- Nếu đúng như vậy - Công chúa Badoure nói – Thì nhà ngươi ngay ngày hôm nay phải giương buồm quay về thành phố của những người theo tà giáo, dẫn tới đây cho ta chàng trai làm vườn đó. Y là người mắc nợ ta. Nếu không thì ta tuyên bố tịch thu không những hàng hoá thuộc về ngươi và những nhà buôn trên tàu của ngươi mà cả tính mạng của ngươi và cả những nhà buôn trên tàu nhà ngươi nữa cũng do ta định đoạt. Ngay từ bây giờ, theo lệnh ta, tất cả các kho chứa hàng sẽ bị niêm phong và chỉ bỏ dấu niêm khi nào nhà ngươi trao cho ta người mà ta đòi hỏi. Đó là những gì ta muốn nói với ngươi. Đi đi, hãy làm những gì ta ra lệnh.
Viên thuyền trưởng không còn biết nói sao được nữa. Nếu không thực hiện thì sẽ rước tai hoạ lớn cho công việc làm ăn của mình và của các thương gia. Ông nói cho họ biết điều đó và cũng như ông, họ vội vàng lấy thêm thức ăn nước uống cần thiết cho chuyến đi đưa ngay xuống tàu. Tất cả được làm khẩn trương nên tàu đã nhổ neo ngay ngày hôm đó.
Cuộc hành trình có nhiều thuận lợi, viên thuyền trưởng tính toán lộ trình rất sát nên ngay trong đẽm đã tới thành phố của những người theo tà giáo. Khi lái vào bờ xét thấy là thuận tiện, ông không cho thả neo, nhưng trong khi con tàu đứng yên tại chỗ không xa bến mấy, từ chỗ đó ông đi thẳng tới khu vườn của Camaralzaman cùng vớI sáu thuỷ thủ lực lưỡng nhất.
Lúc đó Camaralzaman vẫn chưa ngủ. Cuộc chia ly với công chúa Trung Quốc xinh đẹp vợ của chàng, vẫn làm chàng buồn rầu như mọi ngày, chàng căm ghét cái lúc để cho tính tò mò thúc đẩy mà đụng đến cái thắt lưng của nàng. Chàng đang thao thức tư lư trong những lúc đáng lẽ để nghỉ ngơi thư giãn như thế thì nghe thấy tiếng gõ cửa ngoài vườn. Chàng vội chạy ra, chưa kịp mặc áo, vừa mở hé cửa thì không nói một tiếng nào, thuyền trưởng và sáu thuỷ thủ túm ngay lấy chàng, dùng sức mạnh đẩy chàng xuống xuồng, đưa lên tàu và giương buồm ngay tức khắc.
Camaralzaman im tlếng tới tận lúc đó cũng như thuyền trưởng và các thuỷ thủ, bấy giờ mới hỏi thuyền trưởng mà chàng đã nhận ra, vì sao mà lại dùng bạo lực như vậy để bắt cóc chàng.
- Ông chẳng phải là con nợ của quốc vương đảo Gỗ Mun sao? - Thuyền trưởng hỏi lại chàng.
- Tôi, con nợ của quốc vương đảo Gỗ Mun? - Camaralzaman kinh ngạc nói - Tôi đâu có biết nhà vua này, chưa bao giờ tôi giao thiệp và chưa bao giờ tôi đặt chân lên đất nước ông ấy.
- Đó là điều ông phải biết hơn tôi - Thuyền trưởng nói - Ông sẽ tự nói với Người. Tuy vậy lúc này ông hãy cứ kiên nhẫn ở yên đây đã.
Scheherazade ngừng lại ở chỗ này để cho hoàng đế Ấn Độ đi thiết triều. Nàng kể tiếp vào đêm sau và nói với ông
“- Tâu bệ hạ, hoàng tử Camaralzaman thế là bị bắt đi từ khu vườn của chàng như thiếp đã kể cho Người nghe hôm qua. Con tàu đi cũng chẳng kém thuận buồm xuôi gió như chuyến về để bắt cóc chàng trong thành phố tà đạo. Dù tới bến đã là ban đêm, nhưng viên thuyền trưởng cững lên ngay trên bờ đưa hoàng tử Camalalzaman tới hoàng cung và xin được bệ kiến.
Công chúa Badoure, đã rút về hậu cung, vừa nghe thấy báo là viên thuyền trưởng đã về và có cả Camaralzaman tới, vội ra gặp y ngay. Trước hết, nàng liếc nhìn sang hoàng tử Camaralzaman, người mà nàng đã rỏ biết bao nhiêu nước mắt từ ngày xa cách, và nàng nhận ra ngay dù chàng đang ăn mặc thật tồi tàn. Còn về hoàng tử, chàng run sợ trước một quốc vương, chàng tưởng vậy, và với ông -này chàng là một con nợ theo ông ta tưởng tượng. Chàng không có một chút ý nghĩ nào đó là người mà chàng thiết tha mong được thấy lại. Nếu công chúa buông theo tình cảm của mình thì nàng đã chạy bổ tới chàng, để lộ hình tích của mình và ôm hôn ehàng. Nhưng nàng tự kiềm chế và thấy rằng cần phải giữ vai trò quốc vương một thời glan nữa trước khi tự mình lộ diện vì lợi ích của cả hai người. Nàng phải tạm bằng lòng trao phó chàng cho một viên quan lúc đó có mặt bắt phải chăm sóc và đối xử tốt với chàng cho đến hôm sau.
Khi công chúa Badoure đã thấy được nghiêm chỉnh tuân lệnh và đã có hoàng tử Camaralzaman rồi, nàng quay về phía viên thuyền trưởng xác nhận công lao của ông ta và phái một viên quan khác lập tức đi rỡ hết dấu niêm đóng trên các hàng hoá của ông ta và của cả các nhà buôn khác. Rồi nàng cho ông ta về với một viên kim cương làm tặng phẩm. Phần thưởng này đã vượt quá cả chi phí cho chuyến đi của ông vừa rồi. Nàng còn bảo thêm là ông cứ giữ lại cả một nghìn đồng tiền vàng đã trả cho khoản mua các bình ô liu và nàng đã có cách thoả thuận với nhà buôn mà ông vừa đưa tới.
Cuối cùng nàng trở về hậu cung nơi ở của công chúa đảo quốc Gỗ Mun chia sẻ với công chúa niềm vui của mình và yêu cầu nàng vẫn phải giữ kín - Nàng cũng trao đổI tâm sự với công chúa những biện pháp cần thiết phải thực hiện trước khi tự để lộ mình ( ra với hoàng tử Camaralzaman và để cho hoàng tử tự nói cho mọi ngườI biết mình là ai.
- Có một sự cách biệt lớn giữa một người làm vườn và một hoàng tử - Nàng nói thêm . Nên sẽ có thể nguy hiểm vì chỉ trong chốc lát mà đưa một người đang ở địa vị quá thấp kém lên một địa vị quá cao sang, dù có công bằng tới đâu đi nữa.
Công chúa đảo quốc Gỗ Mun dễ dàng có sự đồng tình ngay vì nàng rất yêu mến và khâm phục nàng Badoure. Công chúa còn cho biết nàng sẽ rất vui sướng được tham gia vào việc này, công chúa Badoure chỉ cần cho biết nàng cần phải làm gì.
Ngày hôm sau, công chúa Trung Hoa, trong bộ long cổn và uy quyền quốc vương đảo Gỗ Mun, sau khi đã chú ý cho đưa Camaralzaman đi tắm rửa từ sáng sớm, mặc cho chàng bộ phẩm phục quan đại thần và đứa chàng vào triều. Vẻ mặt khôi ngô tuấn tú và dáng diệu đường bệ của chàng khiến tất cả triều thần chú ý.
Công chúa Badoure cũng thấy hoan hỉ trông thấy chàng cũng vẫn đáng yêu như thấy bao lần trước kia và điều này càng làm nàng thêm phấn hứng khi ca ngợI chàng trước triều đình. Sau khi chàng ngồi xuống ở hàng các đại thần theo lệnh nàng, nàng nói với cả triều thần:
- Thưa các ngài, ngài Camaralzalnan mà tôi đưa hôm nay vào hàng ngũ đồng liêu của các ngài, không phải là không xứng đáng với cương vị ấy. Trong các chuyến du hành tôi biết khá rõ về ông ta và có thể chịu phần trách nhiệm. Tôi có thể đoan chắc vôi các vị là rồi đây ông ta sẽ tự bộc lộ cho các ngài rõ khả năng, đức hạnh yà thiên tài, của ông ta. Camaralzaman cực kỳ ngạc nhiên khi thấy vua đảo Gỗ Mun mà chàng không sao có thể ngờ được đó là một phụ nũ, càng không ngờ được đó lại là nàng công chúa thương yêu của mình, gọi đích danh mình và quả quyết là biết rõ mình. Còn chàng thì chắc chắn là chưa từng gặp ông ta ở bất cứ đâu. Chàng càng ngạc nhiên hơn nữa khi phải tiếp nhận biết bao lời khen tụng quá đáng. Tuy nhiên những lời khen đó thốt ra từ miệng một người đầy vẻ oai vệ không làm cho chàng sửng sốt. Chàng đón nhận với vẻ khiêm nhường tỏ ra là mình xứng đáng nhưng không do đó mà kiêu ngạo chàng quỳ xuống bên ngai vua và khi đứng lên, chàng nói:
- Tâu bệ hạ, tôi không đủ lời để nói lên tấm lòng biết ơn Người đã ban cho vinh dự lớn như Người đã làm với bao mối từ tâm. Tôi nguyện sẽ làm tất cả những gì trong quyền hạn và khả năng của mình để xứng đáng với ân huệ đó
Ra khỏi triều đình, hoàng tử được một viên quan dẫn tới một toà dinh thự mà công chúa Badoure đã sắm sửa đủ thứ dành riêng cho chàng. Chàng thấy ở đó nhiều quan hầu và đầy tô sẵn sàng tuân lệnh chàng và một chuồng ngựa có rất nhiều con ngựa tuyệt đẹp, tất cả những cái đó đều xứng đáng với tước vị đại thần chàng vừa được phong. Khi bước vào căn phòng, người quản gia đưa tới cho chàng một rương chứa đầy vàng để dùng vào việc chi tiêu. Càng không rõ từ đâu mà hạnh phúc lớn lao này đến với mình, chàng càng ngất ngây thán phục, nhưng không một chút nào chàng nghĩ chính là công chúa Trung Quốc đã bày ra tất cả.
Sau hai hoặc ba hôm, công chúa Badoure, muốn tạo cho hoàng tử Camaralzaman có điều kiện gần gũi mình hơn và đồng thời cũng để cho chàng được trọng thị hơn, đã cử chàng làm tổng quản ngân khố quốc gia vừa khuyết. Chàng đảm đương công việc này một cách thật thông minh chính trực khiến tất cả mọi người đều hàm ơn, tranh thủ được tình cảm không những của các triều thần mà được lòng tất cả toàn dân vì đức tính cương trực và rộng rãi của mình
Camaralzaman lẽ ra là người hạnh phúc nhất trong tất cả mọi người với sự ưu ái hiếm có cạnh một ông vua xa lạ như chàng tưởng thế, và trong sự kính nể mỗi ngày mỗi ngày một tăng của mọi người, nếu chàng có công chúa thân thương của mình bên cạnh. Giữa cảnh vàng son đó, chàng không lúc nào thôi buồn rầu về việc không có một tin tức gì của nàng ở một xứ sở mà đáng ra nàng đã phảI đi qua từ ngày xa cách nhau một cách nẫu ruột với cả hai người. Chàng có thể đặt vấn đề nghi ngờ đôi chút nếu công chúa Bàdoure còn giữ cái tên Camaralzaman cùng với bộ quần áo của chàng mà nàng lấy mặc. Nhưng nàng đã đổi tất cả khi lên ngôi, cả áo quần và tên họ. Tên của nàng lúc này là Ármanos để nhô ơn cựu vương, ''bố vợ'' nàng. Vì vậy, mọi người chỉ biết nàng dưới cái tên là Armanos trẻ, chỉ có một vài đại thần là còn nhớ đến cái tên Camaralzaman mà nàng tự đặt cho mình khi bước chân tới triều đinh quốc đảo Gỗ Mun mà thôi. Camaralzaman chưa thân mật nhiều với những vị đại thần này để dò hỏì, nhưng rồi chàng cũng sẽ hiểu thôi.
Vì công chúa Badoure cũng e ngại là việc này có thể xảy rà và nàng thấy là sẽ vui thích hơn nếu chỉ nhờ riêng có mình thôi mà làm cho Camaralzaman nhận ra người vợ thương yêu của mình. Nàng quyết định chấm dứt những dằn vặt của chính mình và cả của chàng mà nàng biết cũng đang đau khổ. Quả vậy, nàng nhận thấy là trong tất cả những lần mà nàng trao đổi về công việc chàng đang phụ trách, chàng thường có những cái thở đài não nuột chắc , chỉ là hướng về nàng. Chính nàng cũng đang sống trong một tình trạng ép buộc mà quyết định phải tự thoát ra không thể chần chừ được nữa. Vả lại tình thân mật của các đại thần, nhiệt tình và lòng yêu mến của dân chúng, tất cả đều dọn đường cho việc đặt vương miện của đảo quốc Gỗ Mun lên đầu chàng không còn trở ngại.
Công chúa Badoure vừa cùng với công chứa Haiatalnefous đồng tình với quyết định đó thì cũng cùng ngày hôm đó nàng gặp riêng hoàng tử Camaralzaman:
- Camaralzaman - Nàng bảo chàng - Ta cần trao đổi với ông một công việc cần phải bàn bạc lâu, rất cần ý kiến của ông. Vì ta thấy chỉ có thể làm việc đó thuận tiện vào ban đêm, -vậy chiều này ông tới đây, báo cho người nhà không phải chờ, ta sẽ kiếm cho ông một chỗ để nghỉ lại.
Camaralzaman.không quên có mặt ở hoàng cung vào giờ đã hẹn. Nàng đưa chàng cùng vớI mình vào hậu cung. Sau khi bảo cho người tổng quản các hoạn nô đang chuẩn bị đi theo là không cần tới sự trực hầu của y đêm nay mà chỉ cần y đóng chặt cửa lại, nàng đưa chàng tới một phòng khác chứ không phải phòng của Haiatalnefous mà nàng thường quen ngủ tại đó.
Khi hai người đã vào trong phòng, ở đây có kê một cái giường và khi cửa đã đóng chặt lại, công chùa lấy tấm bùa từ trong một cái hộp nhở ra và giơ cho Camaralzaman:
- Cách đây chưa lâu.- Nàng nói- Một nhà chlêm tinh tặng cho ta tấm bùa này. Vì thấy ông là người hiểu biết nhiều, ông có thể nói cho ta biết tác dụng của nó như thế nào không.
Camaralzaman cầm lấy tấm bùa đưa gần tới một ngọn nến ngắm kỹ. Khi nhận ra, chàng sửng sốt kinh ngạc làm công chúa cố che cái mỉm cười.
- Tâu bệ hạ - Chàng kêu lên - Người có hỏi tôi tác dụng của tấm bùa này. Chao ôi! Tác dụng của nó là làm cho tôi chết vì đau đớn buồn khổ nếu tôi không mau chóng tìm lại được nàng công chúa yêu kiều diễm lệ nhất ở dưới bầu trời này. Vật đó là của nàng mà nó đã làm tôi điêu đứng, phải xa cách nàng. Một sự kiện lạ lùng đã gây ra cuộc phân ly đó. Câu chuyện chắc sẽ làm cho bệ hạ phải xúc động và thương cảm một người chồng, một ngườỉ si tình bất hạnh như tôi đây, nếu người vui lòng muốn nghe.
- Ông sẽ kể cho tôi nghe chuyện đó vào một lần khác - Công chúa bảo - Nhưng tôi rất vui - Nàng thêm- để nói với ông là chuyện đó tôi cũng biết ít nhiều. Ông hãy chờ tôi một lát nhé, tôi sẽ trở lại mau thôi.
Nói xong, công chúa Badoure bước vào một phòng làm việc, ở đó nàng bỏ vương miện ra và chỉ một loáng, nàng mặc vào mình bộ áo quần phụ nữ với chiếc thắt lưng nàng đã mang hôm bị chia ly, rồi trở lại buồng.
Hoàng tử Camaralzaman nhận ra ngay nàng công chúa yêu thương của mình, chạy tới và ôm hôn nàng thật dịu dàng âu yếm.
- Ôi! - Chàng kêu lên - Vô vàn đội ơn đức vua đã cho tôi giây phút ngạc nhiên dễ chịu biết bao?
- Chớ có chờ đợi để thấy lại nhà vua - Công chúa vừa nói vừa cũng đến lượt mình ôm hôn chàng, đôi mắt rớm lệ. Nhìn em tức là chàng đã thấy nhà vua rồi. Chúng ta hãy ngồi xuống đi, thiếp sẽ nói rõ cho chàng rõ bí ẩn đó.
Họ ngồi xuống và công chúa nói cho chàng biết quyết định của mình, sau khi chờ đợi không thấy chàng về lúc cùng nhau hạ trại trên bãi cỏ lần cuối nàng đã hành động như thế nào cho đến khi tới đảo Gỗ Mun và ở đó nàng phải cưới công chúa Haiatalnefous và nhận ngôi báu của quốc vương Armanos trao cho sau hôn lễ; nàng công chúa mà nàng ca ngợi hết lời đã có thái độ như thế nào khi được blết chính nàng cũng là gái; và cuối cùng là chuyện về tấm bùa tìm thấy trong chiếc bình chứa quả ô liu lẫn với bột vàng mà nàng đã cho mua tất cả. Chính vì vậy mà nàng đã cho tàu quay trở lại thành phố của những người theo tà giáo đón chảng.
Chàng nói hết cho nàng rõ và nhẹ nhàng trách nàng để chàng phải phiền não quá lâu. Nàng giãi bày những lý do mà chúng ta đã nói tới, sau đó vì đã quá khuya nên hai người đi ngủ.''
Scheherazade thấy trời đã sáng nên dừng lại ở đoạn này. Nàng kể tiếp vào đêm sau, và nói với hoàng Đế Ấn Độ:
“- Tâu bệ hạ, công chúa . Badoure và hoàng tử Camaralzaman thức dậy lúc sáng sớm. Nhưng công chúa không mặc triều phục hoàng gia nữa mà mặc lại áo quần nữ giới. Sau khi đã tề chỉnh, nàng phái viên trưởng hoạn nô tới thỉnh nhà vua Armanos, nhạc phụ của mình xin hãy hạ cố đến phòng riêng của nàng
Quốc vương Ar.manos tới và vô cùng ngạc nhiên thấy một người phụ nữ lạ mặt và ông tổng quản ngân khố trong phòng ngủ ở hậu cung mà theo lệ luật thì cấm không được vào đây kể cả bất cứ một đại quan nào của triều đình. Vừa ngồi xuống ông vừa hỏi nhà vua đâu.
- Tâu bệ hạ - Công chúa nói - Hôm qua tôi là quốc vương, và bây giờ tôi chỉ là công chúa Trung Quốc, vợ của hoàng tử Camaralzaman đích thực, con trai đích thực của quốc vương Schahzaman. Nếu bệ hạ vui lòng và chịu khó nghe tôi trình bày tất cả chuyện trên đây, tôi hi vọng là Người sẽ không kết tội là đã lừa ngài một cách thật ngây thơ vô tội.
Quốc vương Armanoscho phép kể và lắng nghe một cách vô cùng kinh ngạc từ đầu đến cuối chuyện.
Để kết thúc, công chúa nói thêm:
- Tâu bệ hạ, dù trong tôn giáo của chúng ta, đàn bà ít khi đồng tình cho người chồng của mình lấy nhiều vợ, tuy nhiên nếu bệ hạ bằng lòng cho công chúa Haiatalnefous, lệnh ái của Người, kết hôn với hoàng tử, tôi xin tự nguyện nhường ngôi chính cung hoàng hậu cho nàng, vì nàng có quyền như thế. Còn tôi xin lui xuống hàng thứ phi. Dù công chúa không muốn vậy, tôi cũng vẫn cứ xin nhường để cảm tạ nàng đã trọn lời hứa giữ bí mật cho tôi một cách thật là khảng khái. Nếu được bệ hạ phê chuẩn, tôi chắc chắn là nàng rất hài lòng, vì tôi cũng đã bàn trước với nàng rồi. Quốc vương Armanos thực thà lấy làm khâm phục khi nghe công chúa Badoure trình bày. Nghe xong ông quay sang hoàng tử Camaralzaman nói:
- Con ạ, vì công chúa Badoure, vợ con mà từ bấy đến nay ta đã coi như con rể bởi một sự lừa dối mà ta chẳng thể phàn nàn, khẳng định với ta là nàng muốn chia sẻ chuyện gối chăn với con gái ta, ta muốn biết là con có thật bằng lòng lấy nó và nhận chiếc vương miện mà công chúa Badoure xứng đáng được mang trọn đời nếu nàng không vì yêu con mà nhường lại.
- Tâu bệ hạ - Hoàng tử Camaralzaman đáp - Dù là có nóng lòng sốt ruột đến đâu để gặp lại phụ vương cha tối, thì ân đức vô cùng sâu nặng của bệ hạ và của công chúa Haiatalnefous cũng bắt tôi phải dẹp xuống để không dám khước từ một điều gì.
Camaralzaman được tôn lên làm vua và làm lễ cưới hết sức huy hoàng cùng một ngày. Chàng rất hài lòng vớI vẻ kiều diễm, trí thông minh sắc sảo và tình yêu đậm đà của công chúa Haiatalnefous.
Từ đó, hai bà hoàng hậu tiếp tục sống chung trong tình thương yêu và hoà thuận chẳng khác gì trước kia và rất vui vẻ hài lòng vì quốc vương Camaralzaman đối xử với họ thật bình đẳng trong việc gối chăn.
Cùng trong một năm, các bà cùng sinh con, mỗi bà một con trai, hầu như cùng một thời gian. Sự ra đời của các hoàng tử nhỏ đã được đón mừng bằng những cuộc vui chơi hội hè lớn.
Camaralzaman đặt tên cho con của hoàng hậu Badoure là Amgiad và con của hoàng hậu Haiatalnefous là Assad.
Chương 25: Chuyện kể của Sinbad người đi biển
- Tâu bệ hạ, cũng dưới triều hoàng đế Theo Haroun Alraschid mà thiếp vừa nói thì ở thành phố Bagdad có một người phu khuân vác nghèo khổ có tên là Hindbad: Vào một ngày nóng bức, anh ta vác một bọc đồ rất nặng đi từ đầu đến cuối thành phố. Đã rất mệt mỏi vì đi qua một quãng đường dài mà quãng đường phải đi tiếp cũng còn khá xa, nên khi tới một đường phố có gió mát hây hẩy, vệ hè lại được tưới nước hoa hồng thì gã thấy không còn chỗ nào hơn để nghỉ ngơi một lát lấy lại sức nữa. Thế là gã đặt bọc đồ xuơng đất cạnh một ngôi nhà lớn và đặt đít ngồi lên trên.Gã tự cho là mình thật khôn ngoan đã dừng lại nghỉ ở đúng chỗ này vì khứu giác gã được một mùi thơm ngào ngạt của hương trầm từ các cửa sổ của ngôi nhà toả ra quyện vớI mùi thơm của nước hoa hồng đánh thức dậy thật là thú vị. Ngoài cái đó ra, gã còn nghe thấy trong nhà vang lên tiếng hoà nhạc cùng với tiếng hót du dương của vô số hoạ mi và các loại chim đặc biệt của khí hậu vùng Bagdad. Giai điệu êm ru đó cừng với khói thơm của các loại thịt thà bốc ra làm cho gã đoán chắc ở đây có tiệc tùng vui chơi gì đây. Gã rất muốn biết chủ nhân nhà này là ai vì gã ít khi đi qua đường phố này nên không rõ lắm. Để thoả mãn óc hiếu kỳ, gã đến gần mấy người đày tớ ăn vận sang trọng đứng trước cửa và hỏi một tên trong bọn chúng tên người chủ nhà này.- Sao kia? - Người đầy tớ đáp - Anh ở Bagdad mà không biết đây là nhà ngài Slndbad người đi biển chu du nổi tiếng đã từng đi khắp năm châu bốn biển ư?Gã khuân vác, đã từng nghe nói sự giàu có nứt đố nổ vách của Sindbad, chẳng khỏì ghen tị với một người mà điều kiện sống sung sướng như một trời một vực so vớI hoàn cảnh sống nheo nhóc của mình. Lòng tê tái bởi những suy nghĩ đó, gã ngửa cổ lên trời và nói khá to, mọi người xung quanh đều nghe thấy:- Ối, đấng tạo hoá hùng mạnh, sáng tạo ra muôn loài. Xin Người hãy coi xem sự khác biệt giữa ngài Sindbad và con đây: hàng ngày biết bao sự mệt mỏi và bệnh tật hành hạ con. Con thật vô cùng vất vả còng lưng lao động, để nuôi sống vợ con và tự nuôi sống mình bằng bánh mì đen xấu trong khi đó thì ngài Sindbad may mắn kia tiêu pha rửng rỉnh, tiền của như nước sống một cuộc đời đầy hoan lạc. Ông ta đã làm gì để nhận được ở Người một số phận quá dễ chịu như vậy? Còn con, con đã làm gì để phải cam chịu một cuộc sống cơ cực thế này?Nói xong, gã giậm bành bạch chân xuống đất như một người quẫn trí vì quá đau khổ và thất vọng.Gã còn đang mải mê với những suy nghĩ buồn thảm của mình, thì thấy một người hầu từ trong nhà đi ra, bước đến chỗ gã, nắm lấy tay gã và bảo:, Mời bác hãy đi theo tôi. Ngài Sindbad ông chủ của tôi, muốn nói chuyện với bác.”Kể đến chỗ này thì trời vừa sáng ngăn không cho Scheherazade kể tiếp nữa. Nhưng đêm sau, nàng nối lại câu chuyện như thế này:***“- Tâu bệ hạ, chắc Người cũng dễ dàng đoán thấy là Hindbad không khỏi ngạc nhiên về lời mời đó. Sau những - lời kêu ca phàn nàn vừa rồi, gã sợ là Sindbad cho tìm vào để gây chuyện tồi tệ gì chăng. Vì vậy gã lấy cớ là không thể bỏ bọc đồ lại giữa phố được. Nhưng người hầu của Sindbad bảo sẽ có người trông và ép gã vào nên gã buộc phải nghe theo.Tên người nhà đưa gã vào một phòng lớn ở đó đã có rất nhiều người ngồi quanh một chiếc bàn trên bày toàn những thức ăn ngon. Ỏ chỗ ngồi danh dự gã thấy một người đàn ông bệ vệ, chững chạc đáng kính, có bộ râu dài bạc trắng và phía sau ông là đám gia nhân tôi tớ đứng hầu. Nhân vật đó là Sindbad. Gã khuân vác, càng lúng túng thấy đấm đông và bàn tiệc sang trọng, vừa run vừa cất tiếng chào Sindbad bảo gã đến gần và sau khi cho gã ngồi xuổng bên tay phải, tự mình mời gã ăn và uống thứ rượu rất ngon mà trên chạn thấy bầy đầy.Cuối bữa, Sindbad nhận thấy là những khách mời của mình không ăn nữa bèn cất tiếng hỏi Hindbad coi ngang hàng như anh em theo tục lệ Ả Rập khi chuyện trò thân mật. Ông hỏi gã tên gì và làm nghề gì.- Thưa ngài - Gã đáp - Tên tôi là Hindbad.Ta rất vui được gặp người anh em - Sindbad nói – và tất cả nhũng người có mặt tại đây cũng thế. Nhưng ta muốn được nghe lại những lời người anh em đã nói vừa rồi ở ngoài phố.Sindbad trước khi ngồi vào tiệc, đã nghe thấy tất cả những điều gã nói qua một khung cửa sổ, cũng vì vậy nên ông đã cho gọi gã vào.Nghe lời yêu cầu đó, Hindbad ngượng ngập cúi đầu nói:- Thưa ngài, thủ thực là vì thấy trong người quá mệt mỏi nên đâm ra cáu kỉnh, vô tình có thốt ra lời nào bất nhã, xin ngài rộng lòng tha thứ cho.- Ồ! Người anh em chớ nghĩ là ta quá cố chấp mà còn giữ trong bụng điều đó - Sindbad nói - Ta thông cảm hoàn cảnh của người anh em. Đáng lẽ trách anh bạn về những lời kêu ca thì ta lại lấy làm ái ngại cho bạn. Nhưng ta cần phải kéo bạn ra khỏi việc bạn hiểu lầm về ta. Chắc bạn cho là ta có một cuộc sống an nhàn và đầy đủ tiện nghi như thế này mà chẳng phải làm ăn khó nhọc gì, chẳng phải đổ một giọt mồ hôi nào phải không? Bạn đã nhầm đấy. Qua bao năm tháng gian lao vất vả, lao tâm khổ tứ ít người tưởng tượng được cả về vật chất lẫn tinh thần ta mới có được như ngày nay đấy. Vâng, thưa tất cả các ngài - Ông nói thêm với cả đám - Tôi xin đoan chắc với các ngài là những công việc khó khăn nhọc nhằn đó kỳ lạ đến mức làm cho những kẻ hám giàu có nhất cũng phải tiêu tan ý muốn tai hại vượt biển đi tìm của cải. Các ngài chắc là cũng được nghe một cách lơ mơ những cuộc phiêu lưu kỳ thú và những hiểm nguy mà tôi đã từag trải qua trong bảy chuyến đi của tôi. Nhân tiện đây, tôi sẽ kể lại thật trung thực và tôi nghĩ là chắc các ngài chẳng lấy làm bực mình khi được nghe.Vì Sindbad muốn kể chuyện ông, đặc biệt vì gã khuân vác nên trước khi bắt đầu, ông cho người đem hộ bọc hàng của gã khuân vác để trên hè phố đến nơi mà gã định mang tới. Rồi ông kể như sau:
Chương 26: Chuyến đi đầu tiên
Tôi được thừa hưởng của gia đình một tài sản lớn, và chi tiêu vung phí một phần đáng kể trong các cuộc chơi bời phóng túng của tuổi trẻ.
Nhưng tôi đã kịp hồl tỉnh lại và thấy là sự giàu có sẽ chẳng bền, chẳng mấy chốc mà tiêu tan khi người ta cững vung tay quá trán như tôi. Thêm nữa, tôi nghĩ là trong cuộc sống ẩu tả không nền nếp, tôi đã vung phí thời gian là thứ quí nhất trên đời. Tôi còn thấy là nỗi khổ nhất trong các nỗi khổ là chiu cảnh nghèo túng trong tuổi già. Tôi lại nhớ câu nói nổi tiếng của Salomon vĩ đại ngày xưa tôi thường được nghe cha tới nói lại: ''Chui vào nấm mồ còn dễ ehịu hơn là sống trong nghèo khổ''. Thấm thía những điều suy ngẫm đó, tôi thu gom tất cả tài sản còn lại đem bán đấu giá ở giữa chợ tất cả các đồ đạc, giường tủ, bàn ghế... Sau đó, tôi tìm cách kết thân với một vài thương gia buôn bán trên đường biển, tôi tham khảo ý kiến của những người có kinh nghiệm để được nghe những lời khuyên tốt. Cuối cùng tôi quyết làm cho sinh lợi khoản vốn liếng còn lại và khi đã có quyết định đó, đem ra thi hành ngay không để chậm trễ. Tôi đi tới Balsora và ở đó đáp xuống một con tàu cùng thuê chung với nhiều nhà buôn khác.
Chúng tôi giương buồm thẳng đường sang Đông Ấn qua vịnh Ba Tư hình thành bởi bờ biển xứ Arabie hạnh phúc về bên phải và bờ biển Ba Tư bên trái chỗ rộng nhất ở đây theo dư luận chung ước chừng bảy mươi hải lý. Ra khỏi vịnh Ba Tư là vào biển xứ Levant cũng chính là biển Ấn Độ rộng mênh mông. Một phía nó có giớl hạn là bờ biển nước Abyssinie và muốn tới quần đảo Vakvak thì đường dài là bốn ngàn năm trăm hải lý. Lúc đầu tôi rất khổ vì bị say sóng nhưng rồi quen đi và sức khoẻ tôi phục hồi rất nhanh.
Dọc đường đi, chúng tôi ghé vào nhiều đảo để mua bán hoặc trao đổi hàng hoá. Một hôm tàu đang chạy thì gió lặng làm tàu chúng tôi sững lại trước một hòn đảo nhỏ là là trên mặt nước, màu xanh của nó trông giống như một bãi cỏ chăn nuôi. Thuyền trưởng cho hạ buồm, lái tàu ghé vào đảo và cho phép những người trên tàu lên bờ nếu họ muốn. Tôi cũng là người trong số người đặt chân lên đảo.
Nhưng trong lúc chúng tôi vui đùa ăn uống, giải toả mệt nhọc thì bỗng thấy hòn đảo rung lên và làm cho một cái huých mạnh.''
Nói đến đây Scheherazade dừng lại vì trời đã sáng rõ. Cuối đêm hôm sau nàng kể tiếp:
- Tâu bệ hạ, Sindbad tiếp tục câu chuyện: ''Trên tàu, mọi người nhìn thấy hòn đảo rung chuyển vội gọi chúng tôi phải lên ngay kẻo chết đuối. Cái mà chúng tôi tưởng là hòn đảo nhỏ thì đó là lưng của một con cá voi khổng lổ. Những người nhanh chân thì vội nhảy vào xuồng, những ngườI khác lao xuống bơi, còn tôi chậm chân vẫn ở trên hòn đảo hay đúng hơn là trên lưng cá voi giữa lúc nó lặn xuống biển. Tôi chỉ còn đủ thời gian bíu vào một mảnh ván mang từ trên tàu xuống định để đốt lửa. Lúc đó người thuyền trưởng, sau khi đón những người trên xuồng và một vài người bơi dướl nước lên tàu, muốn tận dụng ngay cơn gió thuận vừa nổi lên nên giương buồm cho tàu xuôi và thế là tôi bị bỏ lại không còn hy vọng đuổi kịp
Tôi bị sóng biển dập vùi lúc bị đánh sang bên nọ, lúc bị đẩy sang bên kia phải vật lộn với sóng để dành lấy sự sống suốt ngày hôm đó đến đêm hôm sau. Sáng ra, tôi thấy mình không còn sức nữa, đang tuyệt vọng chắc không sao tránh khỏi được cái chết thì may sao, một làn sóng mạnh đã đánh giạt tôi vào bờ một hòn đảo. Bờ cao và hiểm trở, tôi mất rất nhiều công sức để bò lên, nhưng nếu không có những rễ cây mà số phận đã run rủn cho trồi ra ở chỗ đó thì tôi chẳng còn cách nào để trèo lên được.
Dù rất yếu vì đã phải vật lộn bao nhiêu lần với sóng biển không có một chút gì trong bụng suốt cả ngày hôm trước, tôi vẫn cố gắng bò và tìm một vài thứ lá cỏ ăn được cho vào miệng nhai. May mắn sao tôi gặp được một suối nước trong và ngọt đã góp phần không ít để tôi phục hồi sức khoẻ. Đã lại người, tôi tiến vào phía trong đảo, đi lang thang không định hướng. Tới một cánh đồng cỏ rất đẹp, ở đó tôi nhìn thấy một con ngựa đang gặm cỏ.
Đưa bước chân về phía đó nửa sợ nửa mừng tôi không biết là mình đang đi tìm cái chết hay là thấy được dịp tốt để bảo đảm sự sống của mình. Đến gần, tôi nhận ra đó là một con ngựa cái được buộc vào một cái cọc. Vẻ đẹp của nó thu hút sự chú ý của tôi, nhưng trong lúc đang ngắm nhìn nó thì tôi nghe thấy tiếng một người đàn ông từ dưới đất vẳng lên. Một lát sau, người ấy xuất hiện tiến đến phía tôi và hỏi tôi là ai. Tôi kể lại chuyện của mình cho ông ta nghe. Ông ta liền nắm lấy tay, dắt tôi vào một cái hang trong đó có nhiều người khác. Họ tỏ vẻ ngạc nhiên khỉ nhìn thấy tôi và tôi cũng chẳng kém ngạc nhiên khi thấy họ.
Ăn vài thứ thức ăn mà những người này đem đến cho rồi tôi hỏi họ làm gì ở cái nơi có vẻ rất hoang vu này. Họ bảo họ là những giám mã của vua Mihrage, quốc vương của hòn đảo này. Hằng năm vào mùa này, theo thường lệ họ phải dắt những con ngựa cái của quốc vương đến đây, buộc vào cọc như tôi đã nhìn thấy đấy để chờ con hải mã từ biển lên giao phối. Giao phối xong, thường thì con hải mã sẽ ăn thịt con ngựa cái. Để ngăn nó lại, họ phải hò hét thật to buộc nó phải lặn lại xuống biển. Sau khi xong việc họ sẽ dắt ngựa cái về và những ngựa con sinh ra gọi là ngựa biển sẽ dành riêng cho nhà vua sử dụng. Họ nói thêm là hôm sau họ phải đi rồi, may là tôi đã đến đúng lúc, nếu không thì chắc chắn là chẳng sống được vì nhà dân ở đây còn rất xa, nếu không có người hướng dẫn thì khó mà tới chỗ họ. Trong khi bọn người chăn ngựa này nói chuyện vớI tôi thì con hải mã từ dưới biển trồi lên đúng như lời họ nói. Nó chồm lên con ngựa cái, giao phối xong nó định ăn thịt con này. Nhưng nghe thấy tiếng hò hét ầm ĩ, nó bỏ con mồi và vội vàng lặn xuống biển mất tăm.
Ngày hôm sau họ lên đường về kinh đô cửa đảo quốc với những con ngựa cái và tôi đi theo họ. Khi về tới nơi tôi được giới thiệu với vua Mihrage. Ông hỏi tôi là ai và vì có công việc gì mà tới đất nước ông. Khi tôi kể lại tất cả tai nạn của tôi vừa qua cho ông nghe, ông tỏ lời chia sé với tôi sự bất hạnh đó. Đồng thời ông ra lệnh cho triều thần chăm sóc không để cho tôi thiếu một thứ gì. Lệnh này được thi hành một cách chu đáo và tôi chỉ còn biết ca ngợi tấm lòng hào hiệp của nhà vua và sự nghiêm chỉnh chấp hành lệnh của các quan chức triều đình.
Vì là thương gia nên tôi hay tìm cách quan hệ với những người cùng nghề, đặc biệt là thường tìm đến những nhà buôn nước ngoài vừa để hỏi han tin tức về Bagdad vừa để tìm người mà tôi có thể đi cùng để về cố quốc. Có thuận lợi lớn là kinh đô vương quốc Mihrage nằm trên bờ biển và có một bến cảng lớn, ở đó hàng ngày các con tàu của nhiều nước khác nhau trên thế giới ghé đậu. Tôi cũng tìm cách làm thân với các nhà thông thái Ấn Độ và thích thú nghe họ nói. Nhưng tất cả cái đó cũng không ngăn trở tôi đều đặn tới với nhà vua cũng như bàn luận với các triều thần và các tiểu vương, những chư hầu rất thân cận với quốc vương. Họ đặt ra cho tôi hàng ngàn câu hỏi về đất nước tôi và về phía mình, vì muốn tìm hiểu phong tục và luật pháp đất nước họ, tôi hỏi họ tất cả những gì mà mình tò mò muốn biết.
Dưới quyền cai trị của quốc vương Mihrage có một hòn đảo tên là Cassel. Dân ở đó quả quyết là đêm nào cũng nghe thấy tiếng trống đồng, điều này làm người ta nhớ đến lời nói của những thuỷ thủ là thần Degial sổng ở đây. Tôi nảy ra ý là muốn được chứng kiến sự kỳ bí đó. Trong cuộc đi tôi còn nhìn thấy những con cá dài từ một trăm đến hai trăm gang tay, chúng làm chúng ta sợ hơn là làm gì hại chứng ta. Chúng nhút nhát đến mức ta chỉ gõ vào tấm ván là chạy biến. Tôi còn trông thấy những con cá khác chỉ dài quãng hai gang tay thôi nhưng đầu chúng giống như đầu chim cú.
Lúc quay về đi quanh quẩn trên bến, tôi thấy một con tàu cập vào bến cảng. Khi đã buông neo người ta bắt đầu dỡ hàng hoá và những nhà buôn cho chuyển về các kho. Liếc mắt nhìn vào một số các kiện hàng và nhìn vào những chữ viết tên các chủ nhân ở từng kiện, tôi nhìn thấy tên mình. Sau khi xem xét kỹ, không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là những kiện hàng tôi đã cho chất lên con tàu mà tôi đã đáp từ Balsora. Tôi nhận ra cả người thuyền trưởng, nhưng vì chắc là ông đã tưởng tôi chết rồi nên không nhận ra tôi. Tôi đến gần và hỏi ông những kiện hàng để ở đây thuộc về ai, ông đáp:
- Ỏ trên tàu của tôi có một nhà buôn ở thành phố Bagdad tên là Sindbad. Một hôm tới gần một hòn đảo, chúng tôi tưởng vậy, chàng ta bước lên cùng với nhiều hành khách khác. Cái mà mọi người tưởng là một hòn đảo, lại chính là lưng một con cá voi khổng lồ đang ngủ là là trên mặt nước. Nó bắt đầu quẫy khi bị lửa đất nóng trên lưng vì các hành khách nhóm lửa nấu thức ăn. Cuối cùng nó lặn sâu xuống biển. Phần lớn những người trên lưng nó bị chết đuối, và chàng Sindbad không may cũng ở trong số đó. Những kiện hàng này là của chàng ta và tôi quyết định là vẫn đem bán rồi tìm gặp một người nào đó thuộc gia đình chàng để trả về cả vốn lẫn lãi.
- Thưa thuyền trưởng - Lúc đó tôi nói - Chính tôi là Sindbad mà ngài tưởng đã chết rồi nhưng thực tế còn sống đây và những kiện hàng này là của tôi...”
Scheherazade không nói gì thêm nữa đêm đó, nhưng nàng tiếp tục kể vào đêm sau:
“Sindbad tiếp tục câu chuyện, nói với cả bọn:
- Khi người thuyền trưởng nghe tôi nói thế liền kêu lên: ''Ôi, Thượng đế cao cả1 Biết tin ai bây giờ đây'' Chẳng có mấy người trung thực trong cái xã hội này. Chính mắt tôi đã nhìn thấy Sindbad bị chết đuồi. Những hành khách trên tàu của tôi đều trông thấy như tôi, thế mà ông dám nhận mình là Sindbad! Thật là táo tợn! Nhìn bề ngoài ai cũng tưởng ông là người thực thà thế mà ông dám trí trá một cách trơ trẽn để hòng chiếm tài sản không thuộc về ông
- Xin hãy kiên nhẫn thưa thuyền trưởng - Tôi bảo thuyền trưởng - Và hãy làm ơn nghe tôi nói đã nào.
- Vậy, ông còn muốn nói gì? Hãy nói đi, tôi nghe đây. Tôi kể cho ông nghe bằng cách nào mà tôi thoát chết và vì sao mà tôi gặp được những người chăn ngựa của quốc vương Mihrage và những người này đã đưa tôi về triều.
Ông ta có vẻ xuôi xuôi nghe những lời tồi nói và chẳng mấy chốc ông tin tôi chẳng phải là một kẻ lừa bịp khi những hành khách của tàu ông đi tới. Họ nhận ra tôi và vui mừng chúc tôi hết lời. Cuối cùng thuyền trưởng cũng nhớ ra và thấy đúng là Sindbad. Ông ôm lấy tôi, cảm động nói:
- Tạ ơn Thượng đế! Người đã cho ông may mắn thoát được một hiểm hoạ thật lớn. Tôi không sao nói được hết niềm vui của mình. Đâyy tài sản của ông đây. Hãy nhận lấy! Nó thuộc về ông, tuỳ ông sử dụng.
Tôi cảm ơn ông, khen ngợi sự thực thà của ông và để tạ ơn, tôi xin ông nhận một vài thứ hàng mà tôi lấy ra đưa tặng nhung ông nhất định từ chối.
Tôi lựa một vài thứ quí nhất trong các kiện hàng của mình dâng lên quốc vương Mihrage. Nhà vua vốn đã biết chuyện không may xảy ra cho tôi nên ông hỏi đã lấy ở đâu những vật quí hiếm đó. Tôi bẩm với Người sự tình cờ như thế nào mà châu đã về Hợp Phố. Người chia sẻ với tôi nỗi vui mừng, nhận quà tặng của tôi nhưng lại ban cho tôi nhiều thứ khác còn giá trị hơn. Sau đó tôi xin cáo biệt Người và lại xuống con tàu cũ. Nhưng trước khi tàu nhổ neo, tôi trao đổi các hàng hoá còn lại của mình lấy các sản vật của địa phương. Tôi mang đi theo trầm hương, đàn hương, long não, nhục đậu khấu, đinh hương, hồ tiêu và gừng. Qua nhiều hòn đảo, cuối cùng chúng tôi cập bến Balsora. Tới thành phố này, tôi có một khối lượng hàng hoá trị giá tới một trăm nghìn đồng sequins. Gia đình ra đón, tôi gặp lại người thân với tất cả tình cảm nhiệt thành và chân thực. Tôỉ mua nô lệ cả trai và gái, mua những khu đất màu mỡ, và xây một ngôi nhà lớn. Tôi an cư như vậy đó, quyết quên đi những gian lao đã qua và yên hưởng những hoan lạc của cuộc sống.
Sindbad ngừng lời ở chỗ này, lệnh cho nhạc công chơi lại bản hợp xướng mà câu chuyện kể đã làm ngắt quãng. Họ tiếp tục ăn uống mãi đến chiều tối và đến lúc chia tay, Sindbad sai mang tới một túl tiền một trăm đồng sequins đưa cho gã khuân vác, bảo:
- Cầm lấy này, Hindbad, anh hãy đi về và ngày mai trở lại đây nghe tiếp chuyện phiêu lưu của ta.
Gã khuân vác ra về rất sượng sùng về vinh dự được nhận quà. Kể chuyện lại với vợ và con khi về đến nhà, họ rất vui và không quên tạ ơn Thượng đế đã ban cho họ tiền của thông qua Sindbad.
Hôm sau Hindbad ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ hơn ngày hôm trước và trở lại nhà người du khách hào phóng đã vui vẻ tiếp anh với nhiều cử chỉ thân ái. Khi tất cả khách được mời đã tề tựu động đủ, bàn tiệc được dọn ra và họ ăn uống rất lâu. Tiệc tan Sindbad cất tiếng nói với các vị khách của mình.
- Thưa các ngài, xin cho tôi được kể tiếp và mong được các ngài vui lòng nghe câu chuyện phiêu lưu của tôi trong chuyến đi lần thứ hai. Chắc là nó sẽ làm cho các ngài thích thú hơn những chuyện của chuyến đi lần đầu
Tất cả đều im lặng và Sindbad bắt đầu kể:
Chương 27: Chuyến đi thứ 2
“Tôi đã quyết định, sau chuyến đi đầu tiên là sẽ sống yên bình những ngày còn lại của mình ở Bagdad như tôi đã có vinh dự nói với các ngài hôm qua.
Nhưng chẳng được bao lâu, tôi lại cảm thấy buồn chán cái cuộc sống quá nhàn hạ. Ý muốn du ngoạn trên mặt biển kết hợp với việc bán buôn lại xâm chiếm đầu óc tôi. Tôi đi tìm mua các loại hàng hoá phù hợp cho việc đổi trao theo ý mình rồi lên đường lần thứ hai cùng với những thương gia khác mà tôi biết rõ tấm lòng ngay thẳng. Chúng tôi lên một con tàu chắc chắn, và sau khi phó thác số mệnh mình cho Thượng đế, chúng tôi bắt đầu ra khơi.
Từ hòn đảo này đến hòn đảo khác, chúng tôi làm việc đổi trao rất có lợi. Một hôm, lên một hòn đảo mọc đầy những cây ăn quả nhưng hoang vắng đến nỗi chúng tôi chẳng nhìn thấy bất cứ một ngôi nhà ở cũng như một con người nào. Chúng tôi cùng nhau đi dạo mát trên những bãi cỏ non và dọc theo các dòng suối chảy qua bãi.
Trong khi người này hái hoa, người khác ngắt quả thì tôi đem thức ăn và chai rượu mang theo, kiếm chỗ ngồi cạnh mợt khe nước chảy giữa những gốc cây to toả bóng mát rượi, làm một bữa ngon lành. Ăn xong, thấy hai mắt mình díp lại. Tôi ngả người cạnh gốc cây chẳng biết ngủ có lâu không nhưng khi mở mắt dậy thì chẳng nhìn thấy con tàu đã thả neo gần đó đâu nữa.
Đến đây Scheherazade buộc phải ngừng lời vì ngày đã rạng. Nhưng đêm sau, nàng kể tiếp câu chuyện đi biển lần thứ hai của Sinđbađ như sau
“Tôi rất ngạc nhiên - Sindbad nói - là không nhìn thấy con tàu đã buông neo ở đâu cả. Ngồi dậy, tôi nhìn khắp xung quanh, những thương gia đã cùng tôi đặt chân xuống hòn đảo cũng không thấy một ai. Tôi chỉ nhìn thấy cánh buồm của con tàu nhưng xa tít tắp nên chỉ một thoáng sau là đã mất hút
Xin các ngài hãy thử tưởng tượng xem ở hoàn cảnh đáng buồn ấy thì tôi nghĩ gì. Tôi tưởng chết đi được vì thất vọng, đau khổ, tôi kêu lên kinh hoàng, tự đấm lên đầu mình rồi gieo người trên mặt đất. Rất lâu, tôi đắm mình trong những ý nghĩ lộn xộn chết chóc, buồn rầu, chán ngán. Hàng trăm lần tôi tự xỉ vả đã dại dột chưa bằng lòng với chuyến đi đầu tiên đáng: lẽ phải làm cho tôi cạch đến già để không bao giờ dám làm một chuyến đi nào khác nữa. Nhưng tất cả sự hối tiếc của tôi đều đã là quá muộn.
Cuối cùng tôi đành phải nhẫn nhục trước ý chí của Thượng đế, và chẳng biết rồi đây mình sẽ ra sao, tôi leo lên một cây cao, đưa mắt nhìn ra bốn phía để thử xem có phát hiện được gì đem lại cho mình một chút hy vọng nào không. Nhìn ra ngoài biển chỉ thấy trời và nước, nhưng nhìn về phía đất liền nhận thấy có một vật gì đó trăng trắng, tôi liền tụt xuống và vớl số thức ăn còn lại tôi mang theo mình rồi đi về phía có vật màu trắng đó còn ở xa lơ xa lắc khiến tôi chẳng phân biệt được đó là cái gì.
Khi đã tới gần một chút, tôi nhận thấy đó là một khối tròn màu trắng cao và to thật đáng sợ. Lúc đã đến gần hẳn, tôi lấy tay sờ và thấy nó nhẵn thín. Tôi đi vòng quanh nó để xem có cửa vào chăng nhưng không thấy. Và vì trơn nhẵn như thế nên chẳng làm sao mà trèo lên được. Chu vi của nó có thể tới năm mươi bộ.
Lúc đó mặt trời sắp lặn. Trời đột nhiên tối sẫm lại như bị phủ một đám mây dày. Nhưng nếu tôi ngạc nhiên vì bóng tối bất chợt đó thì lại càng ngạc nhiên hơn lúc nhận thấy kẻ gây ra là một con chim to lớn khác thường đang bay về phía tôi. Chợt nhớ tới một con chim có tên là đại bàng mà tôi thường nghe các thuỷ thủ hay nói đến thì tôi hiểu ra là cái khối tròn lớn mà tôi đang chiêm ngưỡng đó có thể là trứng của loài chim ấy. Đứng vậy, nó đỗ lên trên cái khối đó và ngồi sụp xuống như để ấp vậy. Thấy nó bay tới, tôi đã nép sát vào quả trứng thành ra trước mặt mình là một cái chân của con chim, to bằng một cái thân cây. Tôi buộc chặt mình vào cái chân ấy bằng dải vải quấn quanh khăn của tôi, hy vọng là con đại bàng ngày hôm sau cất cánh bay lên sẽ mang tôi ra khỏi cái đảo hoang này. Quả nhiên, sau một đêm ở tình trạng đó, khi trời bắt đầu sáng, con chim cất cánh mang tôi lên cao, cao đến mức tôi không nhìn thấy mặt đất nữa. Rồi nó lao xuống nhanh ngoài sức tưởng tượng làm tôi chẳng còn cảm thấy gì nữa. Lúc con đại bàng đỗ xuống thấy mình đã ở trên mặt đất, tôi nhanh nhẹn thảo nút dải vải buộc mình vào chân nó. Tôi vừa rời khỏi chân con vật, thì cũng vừa lúc nó vươn người mổ vào một con rắn dài chưa từng thấy, giơ chân quắp lấy, và lập tức bay
Nơi con đại bàng đặt tôi xuống là một thung lũng rất sâu, bao quanh là những ngọn núi cao chạm tới mây và dốc đứng đến nỗi không còn thấy một chỗ nào có thể leo lên được. Lại mồt tình trạng lúng túng mới đối với tôi, so sánh chốn này với hoang đảo mà tôi vừa rời đi thấy chẳng có gì đổi khác.
Dò bước đi trong thung lũng, tôi thấy rải rác đó đây những viên kim cương sáng loáng trong đó có những viên to kỳ lạ. Tôi rất thích được nhìn ngắm chúng: Nhưng chợt nhìn thấy đằng xa những vật làm tôi mất hết hứng thú và không khỏi rùng mình. Đó là một đám rất nhiều những con rắn sao mà to, sao mà dài, có lẽ không con nào là không đủ sức nuốt chửng một con voi. Ban ngày chúng chui tất cả vào hang, ẩn trong đó để tránh đại bàng, kẻ thù của chúng: Chỉ đêm tối chúng mới bò ra ngoài.
Cả ngày tôi đi lang thang trong thung lũng và thỉnh thoảng ngồi nghỉ ở những nơi mát mẻ thoáng đãng. Rồi mặt trời lặn và, chập tối, tôi rút vào một cái hang mà tôi cho là an toàn. Tôi bê một tảng đá to bịt cửa ra vào vốn hẹp và thập, nhưng không bịt khít để có một chút ánh sáng bên ngoài chiếu vào mà vẫn ngăn được lũ rắn. Tôi ăn một phần thức ăn mang theo trong tiếng phun củà những con rắn đã bắt đầu xuất hiện. Những tiếng phun phì phì ghê rợn của chúng làm tôi cực kỳ sợ hãi không sao có được một đêm nghỉ ngơi yên tĩnh, như các ngài có thể tưởng tượng được. Mặt trời lên, đám rắn rút về hang. Tôi cũng vừa run vừa bước ra ngoài và có thể nói không ngoa là tôi đã dẫm chân rất lâu lên bao nhiêu viên kim cương mà không hề nảy lên một chút nào ham muốn. Cuối cùng tôi tìm chỗ ngồi nghỉ và dù trong lòng lo âu khắc khoải, nhưng vì suốt một đêm không nhắm mắt, tôi đã ngủ vùi. Nhưng chỉ được một lát thì giật mình thức giấc vì thấy một cái gì đó rơi xuống cạnh gây thành một tiếng động lớn. Đó là một tảng thịt tươi và cũng cùng lúc đó tôi nhìn thấy nhiều tảng thịt khác từ các vách đá lăn xuống khắp chỗ.
Trước đây tôi cho chỉ là một câu chuyện làm quà của các thuỷ thủ và một số người khác. Họ nói nhiều lần về cái thung lũng kim cương và mánh khoé của một số nhà buôn dùng để lượm những viên đá quí đó. Bây giờ tôi mới blết là họ đã nói thật. Quả vậy, những nhà buôn đó lần tới thung lũng này vào thời kỳ mà những con đại bàng sinh đẻ. Họ cắt thịt bò, thit lợn, thịt cừu ra từng tảng to rồi ném xuống thung lũng. Những viên đá quí ở đúng chỗ tảng thịt rơi sẽ bám vào và những chú chim đại bàng, ở xứ sở này to và khoẻ hơn những con ở nơi khác, sẽ sà xuống quắp lấy những tảng thịt đó mang về tổ ở tít trên các mỏm núi cao để làm mồi cho chim con. Thế là, những nhà buôn leo lên đến tận nơi la hét, gõ đập gây tiếng động xua chim bay đi và nhặt lấy những viên kim cương đã dính chặt vào những thớ thịt. Họ phải dùng mẹo đó vì chẳng còn cách nào để lấy được những viên đá quí trong thung lũng như một cái vực sâu không đường lên xuống.
Tôi đã tưởng là không sao có thể ra khỏi cái vực này và coi đây như nám mồ của mình rồi. Nhưng những gì mà tôi trông thấy đã làm thay đổi ý nghĩ. Tôi đã hình dung ra phương cách để bảo tồn sinh mạng của mình.''
Ánh sáng ngày đã rõ, buộc Scheherazade ngừng nói. Nhưng nàng lại kể tiếp câu chuyện này vào đêm sau.
“Tâu bệ hạ - Nàng nói vẫn hướng về hoàng Đế Ấn Độ - Sindbad tiếp tục kể lại những mạo hiểm trong chuyến đi thứ hai của mình cho cả bọn nghe: .
- Tôi bắt đầu tìm nhặt - Ông nói- những viên kim cương to nhất dưới mắt mình và bỏ đầy vào trong cái túi đa mà tôi đã dùng để đựng thức ăn. Rồi tôi chọn một tảng thịt dài nhất quấn quanh vào người, buộc chắt lại bằng tấm vải khăn đội đầu của mình và cứ để như thế tôi nằm úp xuống đất, cái túi da chứa kim cương buộc thật chặt vào thắt lưng để không thể rơi được.
Vừa chuẩn bị xong thì bầy đại bàng bay tới. Mỗi con quắp lấy một tảng thịt. Một trong những con khoẻ nhất cũng làm thế quắp lấy tảng thịt, có tôi bên trong đưa lên núi cao về tới tổ của nó. Những nhà buôn đã chờ trước ở đó, la hét om xòm làm bầy đạI bàng hoảng sợ bỏ mồi lại và bay đi. Một người trong bọn họ đi tới gần và khi nhìn thấy tôi thì trố mắt sợ hãi. Nhưng hắn lấy lại ngay được tinh thần, đáng lẽ hỏi tôi vì sao lại ở đó thì lại gây sự hỏi tôi vì sao lại chiếm đoạt tài sản của hắn. Tôi bảo anh ta:
Anh sẽ nói năng với tôi bằng thái độ nhân đạo hơn khi anh biết tôi rõ hơn: Hãy yên tâm đi - Tôi nói thêm – Tôi có đủ kim cương cho anh và cho tôi nhiều hơn tất cả của nhũng người kia cộng lại. Nếu họ có viên nào thì chang qua là vì may mắn mà thôi. Còn tôi, tôi chọn từng viên ngay ở dưới đáy sâu thung lũng và để trong cái túi da mà anh nhìn thấy đây.
Vừa nói tôi vừa chỉ cái túi cho anh ta thấy. Chưa kịp nói hết câu thì những nhà buôn khác đến xúm lại quanh tôi, hết sức ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi, họ lại càng sửng sốt hơn khi nghe tôi kể chuyện của mình. Họ khâm phục không những vì mưu mẹo của tôi dùng để thoát ra khỏi cái vực sâu ấy mà còn vì sự táo bạo gan dạ của tôi nữa.
Họ dẫn tôi về nơi trọ chung và ở đó trước mặt họ, tôi mở cái túi da. Những viên kim cương cỡ to của tôi làm họ trầm trồ thán phục và cho biết là ở tất cả các triều đình mà họ đã từng qua đều không thấy có một viên kim cương nào bằng thế. Tôi bảo nhà buôn, chủ cái tổ chim mà tôi được mang tới (vì mỗi nhà buôn đều có tổ thuộc về mình) là tha hồ chọn cho mình bao nhiêu viên cũng được. Nhưng ông ta chỉ cầm lấy một viên, cũng không phải là to lắm, khi tôi nài ông ta cứ việc lấy thêm đi, chẳng làm tôi thiệt thòi gì thì ông ta bảo:
- Không, tôi đã thấy rất bằng lòng với viên này. Nó cũng đủ quí và giá trị để từ nay tôi khỏi còn phải nhọc công bôn ba đi kiếm tìm lưng vốn.
Tôi qua đêm với những người buôn bán này, kể cho họ nghe một lần nữa câu chuyện của tôi vì có mợt số người chưa được nghe yêu cầu. Tôi không sao kiềm chế được niềm vui khi cảm thấy mình đã may mắn thoát được bao hiểm nguy mà tôi vừa kể cho các vị nghe đó. Tôi thấy dường như hoàn cảnh đã trải qua chỉ là một giấc mộng và tin chắc là mình chẳng có gì phải sợ hãi cả.
Đã nhiều ngày, các nhà buôn ném những tảng thịt xuống thung lũng và vì mỗi người đều có vẻ mãn nguyện về những viên kim cương thu được, ngày hôm sau, tất cả chúng tôi lên đường. Chúng tôi vượt qua những tráí núi cao ở đó có những con rắn mình dài ghê gớm, may mà đều tránh được, không ai bị sao cả. Chúng tôi tới một bến cảng đầu tiên, từ đó đi qua đảo Roha, nơi mọc thứ cây chiết xuất ra long não. Cây này to lớn, cành lá rậm rạp, bóng của nó có thể che mát cho cả trăm người. Nhựa của nó chảy ra từ một chỗ người ta khoét vào thân nó trên cao và hứng vào một cái bình. Nhựa đặc lại là long não. Chiết xuất như vậy sẽ làm cho cây chết khô đi.
Ở đảo này còn có loài tê giác nhỏ hơn voi nhưng to hơn trâu. Chúng có một chiếc sừng trên mũi dài khoảng vài gang tay. Sừng này rắn chắc, có ngấn ở giữa từ bên nọ sang bên kia. Trên sừng có những vạch trắng hình mặt người. Tê giác đánh nhau với voi, dùng sừng húc vào bụng và nhấc bơng cả con voi lên đầu. Nhưng vì máu và mỡ chảy tràn xuơng mắt làm tê giác chẳng nhìn thấy gi nữa mà ngã lăn xuống đất. Điều này chắc làm cho các vị phải ngạc nhiên là đại bàng bay đến quắp luôn cả hai bằng cặp móngsiêu mạnh của mình mang về nuôi con.
Ở đảo này còn rất nhiều cái đặc biệt khác nữa nhưng tôi bỏ qua vì sợ các vị phải nghe nhiều nhàm tai. Tôi đổi một vài viên kim cương lấy những thứ hàng ở đây có chất lượng cao. Từ đảo này chúng tôi qua nhiều đảo khác nữa và cuối cùng sau khị ghé qua nhiều thành phố buôn bán, chúng tôi đến Balsora và từ đây tôi về tới Bagdad. Trước hết tôi bố thí thật rộng rãi cho những người nghèo và yên hưởng một cách đầy vinh hạnh nguồn của cải vô tận mà tôi kiếm được mang về, kết quả của bao gian lao hiểm trở.
Sindbad kể lại chuyện trong chuyến đí lần thứ hai của ông như thế đó. Ông bảo người nhà lại đem ra cho , Hindbad một trăm đồng sequin nữa và dặn hôm sau tới nghe chuyện chuyến đi thứ ba của ông
Những khách được mời trở về nhà và lại tới nhà Sindbad, người đi biển vào ngày hôm sau cũng đúng giờ như thế kể cả người khuân vác hầu như đã quên đi một phần nào sự nghèo khổ những ngày qua. Họ lại ngồi vào bàn ăn uống và xong bữa, Sindbad được yêu cầu, kể những ehuyện về chuyến đi thứ ba, chi tiết như sau:
Chương 28: Chuyến đi thứ 3
Chẳng bao lâu - Ông nói - Trong cuộc sỐng nhung lụa, tôi đã quên tất cả những kỷ niệm của bao gian lao khổ ải đã trải qua trong hai cuộc đi trước.
Nhưng vì còn đang trong tuổi tráng niên, tôi tháy chán ngán trong cuộc sống an nhàn và say mê với những gian nguy mới mà tôi muốn đương đầu, tôi rờI Bagdad với nhiều thứ hàng có giá trị của địa phƯơng mà tôi cho chuyển tới Balsora. Tại đây, tôi lại xuống tàu cùnG với nhiều nhà buôn khác. Chúng tôi làm một chuyến đi biển dài, cập vào nhiều bến cảng và làm những cuộc mua bán lớn.
Một hôm, đang lênh đếnh giữa blển thì bị một cơn bão lớn làm chúng tôi lạc đường. Bão kéo dài nhiều ngày và đánh bạt chúng tôi đến trước bến một hải đảo mà thuyền trưởng rất không muốn cập vào. Nhứng tình thế bắt buộc chúng tôI phải ghé vào đậu ở đây lúc thuỷ thủ hạ buồm cuốn lại rồi, thuyền trưởng bảo chúng tôi:
- ĐẢo này và một số đảo lân cận đều có những bộ tộc đã man sinh sống. Mình họ đầy lông lá và thể nào họ cũng tấn công chúng ta. Dù họ là những người lùn, nhưng nỗI khổ của chúng ta là không được có bất kỳ một hàhh động chống lại nào vì họ đông lắm, đông chẳng khác gì châu chấu. Nếu xảy ra việc ta trót làm chết một người nào đó trong bọn họ thì cả hàng trăm hàng ngàn ngườị lao vào chúng ta ra tay tàn sát không bỏ sót một ai.''
Ánh sáng ban ngày đã chiếu rọi vào hậu cung, ngăn Scheherazade lại. Đêm sau nàng lại kể tiếp
“Những lời nói của thuyền trưởng làm tất cả mọI người trên tàu hết sức sững sờ và chẳng phải lâu la gì mà chúng tôi thấy rõ những gì ông nói đó quả là sự thật. Chúng tôi thấy xuất hiện hằng hà sa số những con ngườI man rợ xấu xí, toàn thân Lông lá màu hung, cao chỉ khoảng hai bộ. Chúng nhảy xuống biển bơi và quây tròn lấy tàu chúng tôi chỉ trong chốc lát. Chúng nói gì đó khi tiếp cận, nhqng chúng tôi không hiểu gì cả. Chúng bám lấy mạn tàu và các dây rợ của tàu, leo lên từ mọi phía đến tận sàn tàu nhanh thoăn thoắt hầu như chân chúng chẳng chạm vào đâu cả.
Chứng tôi kinh hoàng nhìn bọn chúng hành động mà chẳng dám mảy may nghĩ tới việc chống cự hoặc nới gì để ngăn chúng lại vì sợ sẽ rất tai hại cho mình. Quả nhiên, chúng rỡ tung buồm ra, chặt đứt dây buộc neo mà chẳng thèm kéo nó lên, và sau khi đẩy con tàu cập bờ, chúng bắt tất cả chúng tôi phải đổ bộ lên cạn. Sau đó, chúng lái con tàu đến một đảo khác, nơi ở của chúng. Tất cả mọi người đi biển đều tránh hòn đảo mà chúng tôi đã ghé vào lúc đó, rất nguy hiểm phải đừng lại ở đây vì sao thì tôi sẽ nói sau, nhưng chúng tôi đành phải kiên nhẫn mà chịu đựng sự rủi ro này:
Bước lên bờ, chúng tôi đi vào đảo, dọc đựờng đi ngắt vài trái cây và cỏ mọc ở đó đưa vào miệng ăn để kéo dài thêm giây phút cuối cùng của sự sống được chừng nào hay chừng đó vì tất cả chúng tôi đều cầm chắc là mình sẽ chết. Trong lúc bước đi, chúng tôi nhìn thấy, còn khá xa một toà dinh thự lôn mà chúng tôi đang hướng đi tới. Đó là một toà lâu đài rất cao, kiến trúc đẹp, có một cổng lớn, hai cánh cửa bằng gỗ mun chúng tôi phải đẩy mạnh để mở ra. Vào đến trong sân, chúng tôi nhìn thấy ngay trước mặt là một căn nhà rộng. Ngoài hành lang, một bên có một đống xương người, một bên có rất nhiều những chiếc xiên dùng để nướng thịt. Chúng tôi sợ hết hồn người run lên bần bật trước cảnh đó và vì đã rất mệt qua quãng đường xa lắc vừa rồi, chân chúng tôi khuỵu xuống và lặng người đi rất lâu:
Mặt trời dần lặn, và trong khi đang ở trong tình trạng bi thảm như tôí vừa tả vôi các vị thì cửa ngôi nhà rầm rầm mở toang và ngay lập tức một bộ mặt khủng khiếp của một tên da đen cao bầng một cây cọ lớn nhô ra. Nó chỉ có một con mắt đỏ rực như một hòn than ở chính giữa trán, rặng cửa dài và nhọn hoắt nhô ra khỏI miệng rộng chẳng kém mỡm ngựa, môi dưới của nó chảy dài chấm ngực. Hai tai nó giống như tai voi trùm lên hai vai. Móng chân, móng tay nó đài, nhọn như móng của những con chim to lớn nhất. Nhìn thấy tên .khổng lồ khủng khiếp như thế, chúng tôi ngất lịm nằm im như chết.
Cuối cùng tỉnh lại chúng tôi thấy nó ngồi dưới mái tiền đình, con mắt độc nhất nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Khi đã nhìn kỹ, nó tiến đến gần, giơ một tay nắm lấy tôi xoay ra bốn phía nhu một người đồ tể xem đầu một con cừu vậy Ngắm đi ngắm lại, chắc là thấy tôi quá gầy chỉ có xương và da thôi nên nó lại thả xưống. Nó lần lượt tóm lấy từng người một, cũng ngắm nghía như thế và cuối cùng vì thuyền trưởng là người tọ béo nhất trong cả đám, nên nó nhấc bổng ông lên bằng một tay như ta nắm một con chim sẻ, cầm lấy xiên và xiên qua ngườI ông. Nhóm lửa lò lên chây thật to, nó đưa ông lên nướng qua rồi đem về nhà ăn bữa tối. Xong bữa, nó quay lại tiền đình, nằm ngủ, ngáy vang như sấm mãi tới sáng hôm sau. Còn chúng tôi, làm sao mà yên tâm hưởng giây phút êm đềm của sự nghỉ ngơi được chúng tôi qua đêm trong sự lo âu sợ hãi đến tột độ. Trời sáng, tên khổng lồ thức dậy, đứng lên, đi ra ngoài, để chúng tôi lại trong lâu đài.
Khi cho là nó đã đi xa, chúng tôi phá tan sự im lặng nặng nề đã phải giữ suốt đêm và cùng nhau kêu rên than khóc vang cả lâu đài. Dù chúng tôi là số đông và chỉ có mỗi một kẻ thù thôi nhưng lúc đầu không ai có ý nghĩ là phảI giết nó đi để tụ giải thoát. Việc này biết là cũng rất khó thực hiện đấy, nhưng đó là việc tất nhiên chúng tôi phảI làm:
Chúng tôi bàn bạc nhiều cách khác nhau nhưng không quyết định được phải chọn cách nào nên cũng đành phó thác cho Thượng đế định đoạt số phận của mình. Suốt cả ngày chúng tôi dạo quanh đảo kiếm quả kiếm rau ăn như ngày hôm truớc. Vào buổi chiều tối, chúng tôi định tìm một chỗ kín đáo nâo đó để ngủ, nhưng chẳng có, nên đành buộc lòng phải trở lại toà lâu đài.
Tên khổng lồ cũng không quên tới và lại nướng một người nữa trong bọn tôi ăn bữa tối. Rồi nó ngủ và ngáy ầm ĩ mãi đến sáng hôm sau, rồi nó lại đi ra và để chúng tôi lại đó. Tình thế vô cùng khủng khiếp đối với chúng tôi khiến cho nhiều người muốn nhảy xuống biển cho xong đời hơn là phải chờ một cái chết khủng khiếp như vậy. Nhưng một người trong bọn lúc này cất tiếng:
- Tự sát là một điều cấm kị. Và nếu như được phép thì phải chăng là rất hợp lý nếu chúng ta bàn cách tiêu diệt tên man rợ nó đang dành cho chúng ta một cái chết thảm khốc như thế này?
Vì có một dự kiến chợt nảy ra trong đầu, tôi liền đem trao :đổi với các bạn và được họ tán thành.
Các bạn ạ - Tôi nói với họ - Chắc các bạn cũng đã biết là có rất nhiều những tấm gỗ trôi nổi stlất đọc bờ biển, nếu các bạn tin tôi thì chúng ta hãy cùng nhau đóng thành những chiếc bè và khi làm xong, sẽ xếp lại trên bờ đợi thời cơ chúng ta sẽ phải dùng đến. Tuy nhiên trước tiên là phải tiến hành việc tụ giải phóng mình thoát khỏi tên khổng lồ đã. Nếu thành công, chúng ta có thể chờ ở đây một con tàu nào đó tới sẽ đưa chúng ta ra khỏi hòn đảo tai hoạ này. Nếu ngược lại, bị thất bại thì thật khẩn trương, chúng ta cùng những chiếc bè đã làm sẵn lao xuống mặt biển. Phải thú thực là với những phương tiện mỏng mảnh đối đầu cùng sóng dữ, cũng dễ dàng mất mạng như chơi, nhưng thà bị chôn vùi dưới sóng biển còn hơn là chui vào dạ dày của tên quỉ nó đã nhai tươi nuốt sống hai người bạn của chúng ta.-Ý kiến của tôi được tán thưởng. Chúng tôi làm những chiếc bè, mỗi chiếc có thể chở được ba người.
Tất cả lại trở về toà lâu đài vào buổi chiều, tên khổng lồ về sau chúng tôi một chút. Chúng tôi lại phải chứng kiến nó nướng một người nữa trong bọn. Nhưng cuối cùng đây là cách chúng tôi trả thù tên khổng lồ về tội ác dã man tàn bạo của nó. Sau khi nó ngủ xong cái bữa ăn đáng nguyền rủa đó rồi, nó nằm ngửa ra ngủ. Vừa nghe thấy tiếng ngáy, chín người gan dạ nhất trong chúng tôi và tôi, mỗi người cầm lấy một cái xiên cho vào lò lửa nung cho đầu nhọn đỏ lên rồi đồng thời nhất loạt chúng tôi đâm sâu vào mắt nó.
Tên khổng lồ kêu rống lên đau đớn. Nó chồm dậy khua hai tay ra bốn phía hòng nắm được một người nào đó. Nhưng chúng tôi đã kịp thời tránh ra xa và nằm vào những chỗ mà bàn chân nó không thể chạm tới. Sau khi sờ soạng vô ích, nó dò dẫm tìm được cửa ra, vừa bước đi vừa gào rú lên ghê rợn.''
Scheherazade không nói thêm gì nữa trong đêm nay. Nhưng đêm sau, nàng kể tiếp chuyện này.
“Chúng tôi ra khỏi lâu đài sau tên khổng lồ - Sindbad kể tiếp - Và đi đến chỗ để những chiếc bè trên bờ biển. Đưa các chiếc bè đó xuống nước, chúng tôi chờ trời sáng để trèo lên bơi đi, đặt trường hợp là nhìn thấy tên khổng lồ mù đó được đồng loại của nó dẫn tới. Nhưng chúng tôi hy vọng là nó không xuất hiện và không còn nghe thấy tiếng gầm rú nũa có thể nó đã chết vì vết thương. Và nếu vậy thì chúng tôi sẽ ở lại đảo để khỏi phải mạo hiểm đi trốn trên những chiếc bè mỏng manh: Nhưng mới tờ mờ sáng, chúng tôi đã nhìn thấy kẻ thù tàn bạo và dã man của chúng tôi tập tễnh bước theo hai tên khổng lồ to lôn gần bằng nó dắt nó đi và phía sau nó là cả một bọn khác khá đông cũng đang rảo bước.
Tới lúc này thì không còn ngần ngừ gì được nữa, chúng tôi lao xuống bè và bắt đầu gắng sức bơi ra xa bờ. Lũ khổng lồ thấy vậy; nhặt những tảng đá to chạy dọc trên bờ và lội xuống nước ngập tới nửa người, ném đá vào chúng tôi. Chúng ném rất trúng nên trừ chiếc bè trên đó có tôi ra thì tất cả những bè khác đều bị vỡ tan và người trên bè đều bị chết đuối. Tôi và hai người bạn, chúng tôi ra sức chèo cật lực nên đã ra được khá xa bờ ngoài tầm ném đá của bọn khổng lồ.
Ra đến ngoài khơi, gió và sóng thi nhau hành hạ vật vã chúng tôi dữ dội. Suốt ngày hôm đó và đêm tiếp theo chúng tôi sống trong sự lo sớ không biết số phận mình sẽ ra sao đây. Nhưng ngày hôm sau may mắn làm sao bị giạt vào một hòn đảo, chúng tôi bước lên với sự mừng vui khôn xiết ô đây có nhiều cây có quả ngọt giúp cho việc phục hồi sức khoẻ đã gần như kiệt quệ của chúng tôi.
Tối đó, chúng tôi nằm ngủ ngay trên bờ biển. Nhưng nửa đêm bị thức giấc vì tiếng bò sột soạt của một con rắn dài và to như một thân cây cọ. Nó ở quá gần chúng tôi nên đã há miệng nuốt luôn một trong hai bạn, dù bạn kêu và gắng hết sức vùng vẫy để thoát ra nhưng con rắn nhiều lần quật con mồi xuống đất và nuốt gọn anh. Anh bạn còn lại và tôi, chúng tôi gié chân chạy, và mặc dù đã ở khá xa mà một lúc sau vẫn còn nghe tiếng chúng tôi đoán là con rắn phun xương người bạn xấu số đã bị nó nuốt chửng. Quả nhiên, hôm sau chúng tôi rùng mình ghê rơn khi nhìn thấy đống xương. Tôi kêu lên thảm thiết:
Ôi, Thượng đế! Chúng tôi còn phải qua nhứng tai nạn nào nữa đây? Đã tưởng được thảnh thơi thoát khỏi cái chết ngày hôm qua dưới bàn tay độc ác của tên khổng lồ và của sóng dữ, thì lúc này đây lại rơi vào một hiểm nguy không kém phần khủng khiếp
Trong lúc đi lang thang, nhận thấy có một cây rất cao, chúng tôi dự định buổi tối sẽ trèo lên đó qua đêm cho chắc chắn. Cũng như hôm trước, chúng tôi lại ăn một ít quả kiếm được và đến cuối ngày, thì trèo lên cây. Vừa trèo lên được nửa chừng thì nghe thấy tiếng rắn bò, đến gốc cây nó ngửa cổ lên phun phì phì rồi dựa vào thân cây, ngóc đầu lên chạm trúng vào anh bạn ở bên dưới tôi, nó đớp lấy và rút xuống ngay.
Tôi ở trên cây mãi đến sáng hôm sau mới trèo xuống sống đở chết đở. Nghĩ bụng rồi số phận mình cũng đến như hai anh bạn kia thôi, tôi rùng mình kinh hãi. Thế rồi tôi lần ra bờ biển định nhảy xuống biển cho thoát nợ. Nhưng nghĩ lại thấy tiếc cuộc sống, tôi chống lại cái hành động tuyệt vọng đó và phó mặc cho Thượng đế định đoạt tuỳ theo ý chí của Người.
Tuy vây nhặt nhạnh rất nhiều mảnh gỗ, những cành gai khô và các dây rợ. Tôi buộc thành nhiều bó và buộc liền các bó đó lại với nhau; quây thành một vòng rộng xung quanh gốc cây. Tôi buộc cả quanh đầu tôi một bó cành gai như thế. Xong việc, đến chập tối là tôi giam mình trong cái vòng tròn đó, buồn bã an ủi là mình đã chu đáo để tự bảo vệ chống lại số phận khắc nghiệt. Con rắn lại đến, bò quanh vòng vây, tìm cách nuốt sống tôi. Nhưng không xong vì bị cái hàng rào tôi tạo nên ngăn lại. Nó quanh quẩn ở đó cho tới sáng y như một con mèo, rình chuột trong hang được phòng thủ chắc chắn nên đành chịu. Cuối cùng trời sáng, nó bò đi, nhưng tôi cũng chừa đám ra khỏi cái thành trì gỗ và gai đó khi mặt trời chưa lên ca
Tôi mệt bã người vì việc chống đỡ đó và vì cả cái hơi thở hôi thối của con rắn phả vào thật khủng khiếp. Tôi thấy thà chết luôn còn hơn. Không còn nhớ tới sự nhẫn nhục hôm qua nữa, tôi rời cái cây, chạy ra phía biển với ý định lại đâm đầu xuống chết quách cho xong:''
Tới đây, thấy trời sáng Scheherazade dừng lại. Hôm sau, nàng kể tiếp và nói với hoàng đế
- Tâu bệ hạ, Sindbad tiếp tục kể về chuyến đi thứ ba của ông ta: ''Thượng đế - Ông nói - động lòng về nỗi tuyệt vọng của tôi, giữa lúc tôi định đâm đầu xuống biển thì chợt trông thấy mọt con tàu cũng còn khá xa bờ. Tôi kêu thật to và tháo khăn quấn đầu ra vẫy. Việc làm này không phải là vô ích. Những người trên tàu đã nhìn thấy tôi và thuyền trưởng đã cho xuồng vào đón. Khi tôi đã ở trên tàu, các thương nhân và thuỷ thủ xúm lái vồn vã hỏi han vì sao tôi lại có một mình trên hoàng đảo này, và sau khi kể cho họ nghe tất cả những gì đã xảy ra với tôi, những người đi biển già dặn nhất bảo là rất nhiều lần đã được nghe về những tên khổng lồ trên đảo đó là những tên ăn thịt người, không những chúng ăn nướng mà còn ăn sống luôn kia. Còn về rắn thì các vị này nói thêm là trên đảo đó lúc nhúc rắn to dài ghê gớm, ban ngày thì lẩn đi, đến đềm mới bò ra kiếm mồi. Tất cả các người trên tàu đều tỏ ra hết sức vui mừng thấy tôi thoát nạn và thấy tôi cần ăn nên đã vội vàng chiêu đãi tôi tất cả những gì ngon nhất mà họ có. Thuyền trưởng thấy áo quần tôi rách tươm, hào hiệp cho tội một bộ của ông.
Chúng tôi lênh đênh trên biển một thời gian ghé vào nhiều hải đảo và cuối cùng cặp đảo Salahat, nơi người ta khai thác đàn hương, một dược liệu quí. Chúng tôi vào bến và buông neo. Những nhà buôn bắt đầu dỡ hàng xuống bán hoặc đổi. Trong lúc ấy, thuyền trưởng gọi tôi đến bảo: ''Người anh em ạ, tôi có một số hàng hoá thuộc về một nhà buôn đã là khách trên tàu này một thời gian. Vì người này đã chết nên tôi muốn bán đi để lấy tiền trao cho những người thừa kế của ông ta khi gặp một ai đó''.
Những kiện hàng ông vừa nói đã để sẵn trên sàn thượng tàu, ông lấy tay chỉ và bảo tôi: ''Những kiện hàng ấy đấy. Tôi mong người anh em nhận đem đi bán hộ, dưới điều kiện là bạn sẽ được hưởng một phần lãi xứng với công lao''.
Tôi nhận lời và cảm ơn ông đã cho tôi cơ hội để khỏi phải ăn không ngồi rồi.
Người thư ký tàu ghi vào sổ tất cả những kiện hàng kèm với tên những người chủ hàng đó. Anh ta hỏi thuyền trưởng những kiện hàng giao cho tôi bán thì sẽ phải ghi tên chủ hàng là ai? Thuyền trưởng bảo:
- Ghi là Sindbad, người đi biển.
Tôi nghe nói mà chẳng khỏi xúc động, nhìn kỹ viên thuyền trưởng tôi nhận ra đúng là người đã bỏ tôi lại ở hòn đảo mà tôi nằm ngủ ở bờ một con suối trong chuyến đi thứ hai của tôi. Ông ta đã giương buồm cho tàu chạy chẳng chờ mà cũng chẳng cho đi tìm tôi. Tôi không nhận ra ông ta ngay vì ông đã đổi khác nhiều kể từ lần gặp trước.
Ông ta thì coi như tôi đã chết, nên chẳng lấy làm lạ là không nhận ra tôi. Tôi bảo ông:
- Thưa thuyền trưởng, có phải số hàng này thuộc về một thương gia tên là Sindbad?
- Đúng - Ông đáp - Ông ta tên như thế, người thành phố Bagdad và lên tàu tôi từ Balsora. Một hôm chúng tôi lên một hòn đảo để lấy nước ngọt và nghỉ ngơi, tôi không, hiểu vì sơ ý làm sao cho tàu chạy mà lại không điểm xem ông ta đã lên cùng với nhũng người khác chưa. Bốn tiếng đồng hồ sau tất cả mọi người mới nhận thấy là thiếu ông ta. Lúc đó gió mạnh và thuyền đang xuôi nên không sao có thể quay ngược về để đón ông ta được.
- Thế ông cho là ông ta chết rồi chăng? - Tôi hỏi.
- Chắc thế - Ông đáp.
- Thế thì, thưa thuyền trưởng! - Tôi nghiêm trang nói - Ông thử mở to mắt nhìn xem tôi đây có phải là Sindbad mà ông đã bỏ lại trên cái đảo hoang đó không? Tôi nằm ngủ trên bờ một con suối và khi mở mắt thức dậy thì thấy chẳng còn một ai trong đoàn nữa.
Nghe nói thế, thuyền trưởng chăm chú nhìn tôi từ đầu đến chân.''
Đến đây Scheherazade thấy trời đã sáng nên buộc phải im tiếng. Đêm sau, nàng lại kể tiếp:
“Thuyền trưởng - Sindbad nói - Sau khi ngắm thật kỹ, cuôi cùng đã nhận ra tôi
- Tạ ơn Thượng đế! - Ông ôm lấy tôi kêu lên - Tôi thật sưng sướng là định mệnh đã sửa chữa lỗi lầm cho tôi. Đây là hàng hoá của ông mà tôi luôn chú ý bảo quản và đem bán ở tất cả các bến mà tàu có thé vào; tôi trả lại ông tiền đây.
Tôi nhận tiền và ngỏ lời biết ơn sâu sắc.
Từ đảo Salahat chúng tôi đến một đảo khác, ở đây tôi mua vào đinh hương, quế và những hàng tạp hòá khác. Khi rời đi xa xa một chút, chúng tôi gặp một con rùa lớn, chiều dài và rộng tới bốn chục gang tay. Chúng tôi nhìn thấy cả một con cá hình thù giống như một con bò cái. Nó có sữa và da thì dầy và cứng mà thường người ta dùng để làm ra những chiếc khiên. Tôi cũng nhìn thấy một con cá khác nữa mà đầu và cả màu da của nó giống như một con lạc đà. Cuối cùng, sau một chặng đi dài, tôi tới Balsora và từ nơi đó tôi trở về thành phố Bagdad với bao nhiêu là của cải mà tôi cũng chẳng rõ số lượng là bao nhiêu. Tôi cũng lại bố thí cho người nghèo một phần lớn và tậu những vùng đất rộng thêm vào số đất đai đã có từ trước.''
Sindbad chấm dứt câu chuyện về chuyến đi thứ ba của ông như thế đấy. Rồi ông lại tặng cho Hindbad một trăm đồng sequin và mời gã lại tới dùng bữa vào ngày mai và nghe chuyện về chuyến đi thứ tư của ông. Hindbad và mọi người ra về và ngày hôm sau, vì họ đã tới đông đủ, ăn xong Sindbad cất tiếng tiếp tục kể chuyện về những cuộc phiêu lưu của mình.
Chương 29: Chuyến đi thứ 4
Những thú vui chơi và những trò giải trí mà tôi lao vào sau chuyến đi biển thứ ba của mình không đủ sức mạnh quyến rũ để tôi từ bỏ tính thích phiêu lưu muốn đi nữa.
Tôi vẫn còn bị lôi cuốn vì lòng ham mê buôn bán và được thấy những thứ mới lạ ở các nơi. Vậy là tôi sắp xếp công việc, gom một số hàng hoá có thể tiêu thụ được ở những nơi định đến và lên đường. Tôi theo đường đi Ba Tư, phải đi xuyên qua nhiều tỉnh thành tới một cảng biển, ở đây tôi xuống tàu. Chúng tôi giương buồm và đã ghé vào nhiều bến thuộc đất liền và một số hòn đảo miền Đông. Rồi một hôm sau khi vượt qua một chặng đường dài, chúng tôi bị một cơn gió xoáy khiến thuyền trưởng phải cho hạ buồm và ra những lệnh cần thiết đề phòng nguy hiểm mà chúng tôi đang bị đe doạ. Nhưng tất cả đều vô ích. Tàu không điều khiển được, các cánh buồm đều bị xé nát, xô vào đá ngầm vỡ toang, một số lớn nhà buôn và thuỷ thủ chết đuối, hàng hoá chìm nghỉm''.
Scheherazade kể đến đây thì nhìn thấy trời sáng. Nàng dừng lại và Schahriar thì đứng lến. Đêm sau nàng kể tiếp như sau câu chuyện về chuyến đi thứ tư của Sindbad
'Tôi may mắn - Sindbad kể tiếp- Cũng như nhiều nhà buôn khác và thuỷ thủ là bám được vào một tấm gỗ. Chúng tôi được một dòng thuỷ lưu đẩy tới một hòn đảo ngay trước mặt. Trái cây và nước suối ở đây đã giúp chúng tôi phục hồi một phần sức lực. Tìm chỗ nghỉ ngơi qua đêm ngay tại nơi đã bị biển hất lên, chúng tôi chưa biết phải làm gì đây. Tinh thần suy sụp sau tai nạn vừa qua đã làm chúng tôi hoang mang cực độ.
Ngày tiếp đó, lúc mặt trời lên, rời bờ biển đi sâu vào trong đảo, thấy có nhà cửa, chúng tôi liền đi tới. Rất đông những người da đen đổ xô ra vây tròn chia nhau nắm lấy chúng tôi rồi lôi vào trong nhà họ.
Năm người bạn và tôi được đưa vào cũng một nhà. Trước hết họ kéo chúng tôi ngồi xuống và đưa cho một thứ lá và ra hiệu mời ăn. Những người bạn của tôi không suy nghĩ là những người mời chúng tôi ăn nhưng bản thân họ không ăn, mà vì bị cái đói thôi thúc nên đã cầm lấy những lá đó mà nhai ngấu nghiến. Còn tôi, linh cảm thấy có một sự lừa bịp nào đó, tôi không đụng tới và như vậy thật là may vì chỉ một lát sau tôi thấy như tâm thần của các bạn tôi bị nhiễu loạn. Họ nói năng linh tinh và không biết mình nói gì.
Sau đó họ cho chúng tôi ăn cơm nấu với đầu dừa, các bạn tôi, không còn tỉnh táo nữa đã ăn lấy ăn để. Tôi cũng ăn nhưng rất ít. Những tên da đen này cho chúng tôi nhai loại lá đó trước hết là để làm cho chúng tôi loạn trí không còn biết gì về số phận thảm thê của mình nữa. Rồi chúng cho chúng tôi ăn để vỗ béo. Vì bọn chúng đều là giơng ăn thịt người nên trước khi ăn thịt chúng tôi, chúng để một thời gian chờ chúng tôi béo lên. Đó là điều xảy đến với các bạn tôi vì họ đã mất lý trí nên mặc kệ mọi sự. Vì tôi vẫn còn minh mẫn thì chắc các vị cũng đoán là đáng lẽ cũng béo tốt như mọi người nhưng tôi mỗi ngày lại càng gầy ốm thêm. Luôn luôn bị cái chết đe doạ trở thành một liều thuốc độc trong tất cả các thức tôi ăn. Chứng trầm cảm trở thành cứu tinh đối với tôi vì bọn da đen sau khi giết và ăn thịt hết các bạn tôi thì chúng ngừng lại. Nhìn thấy thân hình tôi khô khẳng, ốm yếu, chỉ có xưống và da nên chúng luì cái chết của tôi vào một thời đlểm khác.
Cũng vì vậy nên tời được khá tự do, hầu như chẳng cớ ai coi sóc và chú ý đến hành vi của tôi nữa. Điều đó cho phép tôi đi xa cụm nhà ở của bọn da đen. Một lão già nhìn thấy, nghi ngờ ý đlnh của tôl, đã gào to lên.cho tôi quay lại nhưng thay vì nghe theo lão, tôi chạy nhanh hơn lên và chẳng mấy chốc khuất tầm mắt lão ta. Chỉ có mỗi một lão già đó ở nhà, còn những tên đen khác đều đi vắng và chỉ trở về vào lúc cuối ngày, đó là lệ thường của chúng. Cũng vì chắc là chứng chẳng làm sao đuổi kịp được khi biết tôi đã chạy trốn, tôi bước đi thong thả đến tận nửa đêm mới dừng lại nghỉ một chút và ăn một vài miếng thức ăn mang theo. Rồi tôi lại tiếp tục lên đường đi suốt bảy ngày đêm, để ý tránh xa những nơi có người ở. Những ngày này tôi sống qùa ngày bằng những quả dừa: ăn cùi dừa và uống nước dừa.
Đến ngày thứ tám, tôi đến gần biển và bất ngờ trông thấy những người da trắng như tôi đang mải thu hoạch hồ tiêu mà ở đó mọc lên bạt ngàn. Vẻ mải mê làm việc của họ là một dấu hiệu tốt và tôi chẳng khó khăn gì mà đi tới gần họ''.
Scheherazade không nói thêm gì nữa trong đêm nay và đêm sau, nàng kể tiếp
Những người thu hoạch hồ tiêu -Sindbađ kể tiếp - tiến đến phía tôi, và khi nhìn rõ họ hỏi bằng tiếng Ả Rập tôi là ai và từ đâu tới. Sung sướng nghe thấy họ nói tiếng của mình, tôi đã thành thật kể cho họ nghe đã bị đắm tàu như thế nào, tới được cái đảo đó và rơi vào tay bọn người da đen ra sao. Họ đồng thanh nói
- Nhưng những người da đen đó chuyên ăn thịt người kia mà. Nhờ có phép màu nào mà ông thoát khỏi bàn tay độc ác dã man của chúng?
Tôi kể cho họ nghe câu chuyện mà các ngài vừa nghe đó và tất cả bọn họ đều vô eùng klnh ngạc. Tôi ở cùng họ cho tới ngày họ thu hoạch xong một số lượng hồ tiêu họ cần. Sau đó họ đưa tôi xuống con tàu đã đưa họ tới đây và về hòn đảo, nơi ở của họ. Tôi được giới thiệu với vị quốc vương của đảo. Vị vua nhân từ này đã lắng nghe câu chuyện của tôi và tỏ ra rất ngạc nhiên. Ông sai mang cho tôi quần áo và ra lệnh phải chú ý chăm sóc tôi.
Hòn đảo mà tôi ở lúc đó rất đông dận và sản vật không thiếu thứ gì. Trong thành phố nơi nhà vua đóng đô, việc buôn bán rất thịnh vượng. Chỗ trú chân khá dễ chịu, này bát đầu làm tôi khuây đi nỗi bất hạnh của mình và lòng nhân từ của vị quốc vương hào hiệp này làm tôi thật hài lòng. Thật vậy, trong ý nghĩ của ông, không có ai tài trí hơn tôi và rất cuộc không ai trong triều đình cũng như ở thành phố là không tìm cơ hội để làm tôi vui lòng. Chẳng báo lâu mà tôi được coi là một người được sinh ra trên đảo chứ chẳng phải là người ở nơi khác đến.
Tôi nhận thấy một điều theo tôi thì thật khác lạ. Tất cả mọi người, kể cả vua, cưỡi ngưa đều không có yên cương, bàn đạp. Một hôm, đánh bạo tôi hỏi Bso bệ hạ không sử dụng tiện nghi đó. Ông đáp là những cái đó ở quốc gia này chưa có ai biết để sử dụng cả.
Ngay tức thì tôi tìm đến một người thợ, vẽ mẫu cái cốt yên ngựa cho anh ta làm. Làm xong tội tự tẩy nhồi đệm bọc da và tràng trí bằng một tấm vải thêu kim tuyến. Sau đó tôi tìm một người thợ rèn đặt làm một cái hàm thiếc tôi cho kiểu và làm luôn cả hai cái bàn đạp.
Khi các thứ đã hoàn hảo, tôi đưa đến dâng nhà vùa và đóng thử vào một con ngưa. Nhà vua trèo lên cưỡi và rất thích thú sáng kiến này. Ông thể hiện sự vui thích hài lòng của mình bằng cách thưởng cho tôi rất nhiều thứ quí. Tôi cũng không tránh khỏi phải đặt làm rất nhiều yên ngựa cho các quan thượng thư và các quan chức chính trong triều. Họ cho rất nhiều quà, chẳng mấy chốc mà tôi giàu sụ. Tôi cũng đặt làm cho cả những người có danh tiếng nhất trong thành phố, vì thế danh tiếng của tôi lại càng lừng lẫy.
Vì tôi vào chầu rất đều đặn, nên một hôm nhà vua bảo:
- Sindbad, ta yêu mến ông và ta biết là tất cả quần thần cũng theo gương ta. Ta có một yêu cầu và muốn ông nên tuân theo.
- Tâu bệ hạ - Tôi đáp - Không có điều gì mà tôi không sẵn sàng làm theo ý của Người. Đối với tôi, Người có quyền tuyệt đối.Ta muốn lấy,vợ cho ông, để có thể cuộc hôn nhân này sẽ giữ được ông ở lại trong vương quốc của ta, để ông khỏi nhớ về đất nước mình.
Vì chẳng dám trái lệnh quốc vương nên tôi đã kết hôn với một phụ nữ trong triều, sang quí, đẹp, ngoan và giàu có. Sau hôn lễ, tôi đến ở nhà người đàn bà này trong tình yêu thương trọn vẹn. Tuy vậy, tôi cũng chẳng ngăn được nỗi nhớ nhà. Ý đồ của tôi là sẽ thừa cơ trốn thoát khỏi tình trạng này, trở về Bagdad mà ở đó cơ ngơi của tôi to lớn, sinh lợi nhiều, tôi làm sao mà quên được
Đang quẩn quanh trong những ý nghĩ đó, thì xảy ra việc vợ một người láng giềng mà tôi kết thân ngã bệnh ốm và chết. Tôi sang nhà để chia buồn và an ủi, thấy anh ấy đang đắm chìm trong nỗi u buồn sâu sắc.
- Mong được Thượng đế bảo vệ bạn - Tôi nói với anh ta - Và phù hộ cho bạn sống trường thọ!
- Than ôi? - Anh trả lời tôi - Làm sao mà tôi tiếp nhận được cái ân huệ mà bạn cầu chúc cho tôi đây? Tôi chỉ còn sống được một tiếng đồng hồ nữa mà thôi.
- Ồ? Tôi bảo anh - Xin bạn đừng nên có ý nghĩ quá bi thảm ấy. Tôi mong là việc đó không bao giờ xảy ra và tôi tin là bạn cùng tôi còn sống lâu
- Tôi chúc cho bạn trường thọ - Anh ta lại nói – Còn tôi thì mọi sự đã an bài. Tôi cho bạn biết là hôm nay người ta sẽ chôn tôi cùng với vợ. Đó là tục lệ mà các cụ đã dựng nên ở đảo này tuyệt đối không được vi phạm. Người chồng còn sống sẽ phải chôn theo với người vợ đã chết và người vợ còn sống sẽ phải chôn theo với người chồng đã chết. Không ai có thể cứu sống được tôi. Tất cả mọi người đều phải tuân theo luật đó.
Trong lúc chúng tôi trao đổi về cái tục lệ dã man kỳ lạ đó nó làm tôi sợ khiếp đi được thì nhũng người họ hàng, bè bạn và hàng xóm láng giềng lũ lượt đến dự lễ tang. Người ta mặc cho người chết những áo quần đẹp như trang phục cô dâu ngày cưới và trang điểm cho xác chết tất cả các đồ nữ trang thường dùng hàng ngày của bà ta. Tiếp đó, người ta đặt thi hài vào một cỗ áo quan để mở và đoàn người lên đường. Người chồng đi đầu đám tang theo sau thì hài người vợ. Người ta đi men theo đường lên một quả núi cao và khi tới nơi họ lật một tảng đá to đậy trên miệng một cái giếng sâu và dòng xác chết vẫn để nguyên áo quần và đồ trang sức xuống đó. Mọi việc xong xuôi, người chồng ôm lấy người nhà, bè bạn và để cho người ta đặt mình vào áo quan cũng không có nắp dậy, không hề phản ứng, với một bình nước uống và bảy chiếc bánh mì để bên cạnh mình. Rồi người ta dòng anh xuống giếng cũng như cách họ đã dòng vợ anh vậy. Quả núi chạy dài làm thành bờ của biển và cái giếng thì thật sâu. Lễ tang chấm dứt, người ta lại đậy mlệng giếng lại bằng phiến đá to đó.
Chẳng cần phải nới thì các ngài cũng thấy rõ là tôi chứng kiến đám tang lễ đó, với sự buồn rầu vô hạn. Còn tất cả những người khác thì vẫn thấy thản nhiên vì thói quen thường luôn được nhìn cảnh ấy. Tôi không ngăn được mà không nói với nhà vua những suy nghĩ của mình về việc này:
- Tâu bệ hạ - Tôi nói với ông - Tôi không sao hết kinh ngạc về phong tục của quí quốc chôn người sống cùng với người chết. Tôi đã đi nhiều nơi, quan hệ với nhiều người ở rất nhiều quốc gia và chưa từng thấy nơi nào lại có một cái luật quá ác độc như vậy.
- Biết sao được hả Sindbad -.Nhà vua đáp - Đó lạ luật chung, bản thân ta cũng phải tuân theo. Ta cũng sẽ bị chôn sống cùng với hoàng hậu vợ ta, nếu nàng chết trước.
- Nhưng, tâu bệ hạ - Tôi nói - Xin mạnh dạn được hỏi bệ hạ nếu là nhữl:lg người nước ngoài thì có bắt buộc phải tuân theo tục lệ đó không?
- Có chứ, tất nhiên rồi - Nhà vua đáp và mỉm cười về lý do vì sao mà tôi lại hỏi thế - Họ không được miễn trừ khi đã kết hôn ở đảo này.
Tôi buồn rầu trở về nhà vì câu nói của quốc vương. Tôi sợ vợ mình chẳng may mà chết trước, mà tôi bị chôn sống cùng với nàng... ý nghĩ này làm tôi hết sức lo lắng và phiền muộn. Nhưng, có cách nào tránh được? Đành phải kiên nhẫn và phó mặc cho ý chí của Thượng đế thôi. Tuy nhiên tôi run lên mỗi khi thấy vợ mình có chút gì đó cảm thấy khó ở. Nhưng, than ôi, chẳng bao lâu tôi lâm vào cơn hoảng sợ thực sự: vợ tôi bị ốm nặng và mất sau đó ít ngày''.
Scheherazade kể tới đây thí chấm hết cho đêm nay. Đêm tiếp theo sau đó, nàng kể tiếp thế này
“Hãy thử xem nỗi đau của tôi - Sindbad nói tiếp - bị chôn sống cũng chẳng kém phần thảm thương hơn là bị bọn ăn thịt người nhai tươi nuốt sống. Nhưng vẫn phải qua cái đận đó. Nhà vua, cùng với cả triều đình đều có mặt trong tang lễ chó thêm phần trọng thể. Những vị tai to mặt lớn trong thành phố cũng long trọng đến đưa đám tôi
Khi tất cả đẫ sẵn sàng cho tang lễ, người ta đặt thi hài vợ tôi vào áo quan với tất cả quần áo đẹp và các đồ trang sức. Bắt đầu đám rước, như một diễn viên thứ hai trong vở bi kịch thê thảm này, tôi bước theo ngay sau quan tài của vợ, nước mắt chan hoà, than vãn cho số phận khốn khổ của mình. Trước khi tới ngọn núi, tôi thử tác động vào tinh thần những người có mặt ở đó xem sao. Trước tiên tôi nói với quốc vương rồi tất cả những người xung quanh và cúi xuống trước mặt họ sát tận mặt đất, hôn vào gấu áo và xin họ hãy rủ lòng thương hại: '''Các ngài hãy xét cho - tôi nói - tôi là người nước ngoài, đúng lẽ ra thì không phải tuân theo cái luật quá khắc nghiệt này, rằng tôi còn người vợ khác nữa và các con tôi ở nước tôi''. Dù tôi nói những lời trên đây với giọng nhuốm nước mắt, nhưng chắng có ai động lòng. Ngược lại người ta còn vội vã dòng vợ tôi xuống giếng và một lát sau đó, người ta cũng đưa tôi xuống trong một quan tài để ngỏ với một bình nước đầy và bảy tấm bánh. Cuối cùng cái đám lễ quá bi thảm đó với tôi kết thúc, người ta đặt lại tấm đá lên miệng giếng bất chấp nỗi đau lòng và những tiếng kêu thảm thiết của tôi.
Bị đưa từ từ xuống đáy giếng, tôi nhận rõ được cảnh trí ở cái nơi dưới mặt đất ấy nhờ vào chút ánh sáng từ trên cao chiếu xuống. Đó là một cái hang rất rộng và sâu tới khoảng năm chục sải tay. Một mùi hôi thối nồng nặc từ vô vàn xác chết mà tôi nhìn thấy ở bên phải và bên trái xông lên. Hình như tôi còn nghe thấy những tiếng thở dàl cuối cùng của những người sống mới được dòng xuống đây. Dù vậy, khi đã chạm đáy giếng, tôi lập tức bước ra khỏi quan tài, vừa bịt mũi vừa đi ra xa. Tôi gieo mình xuống đất và nằm đó rất lâu chìm trong nước mắt. Thế rồi, nghĩ về cái số phận đáng buồn của mình, tôi tự bảo:
Đúng là chúng ta đều do Thượng đế định đoạt theo ý của Người. Nhưng, hỡi Sindbad khốn khổ, phải chăng vì tội lỗi của chính mày mà mày phải rơi vào một cái chết kỳ quặc như thế này? Thà Thượng đế cho mày chết quách đi trong một trận đắm tàu nào đó mà mày đã thoát được! Mày đã không phải lìa đời trong cái chết chậm chạp và khủng khiếp như thế này. Nhưng chinh mày đã tự chuốc lấy vì cái tật thích phiêu lưu đáng nguyền rủa của mày. Ôi! Khốn khổ khốn nạn! Đáng lẽ ra thì mày phải ở yên tại nhà, êm đềm hưởng thụ thành quả của bao công sức lao động của mày?
Đó là những lời than vãn vô tích sự mà tôi vừa thốt vang lên trong hang vừa lấy tay đấm vào đầu, vào bụng một cách điên cuồng tuyệt vọng và hoàn toàn thả mình trong những ý nghĩ vô cùng hoang mang và sầu não. Tuy nhiên, biết nói với các vị thế nào đây? Đáng lẽ khẩn cầu cái chết đến mang đi cho nhẹ tội thì, mặc dù vô cùng khốn đốn như thế, lòng yêu đời vẫn còn thấp thoáng trong tôi, nhủ tôi hãy kéo dài thêm những ngày còn lại. Tôi bước đi chập choạng và lấy tay bịt mũi, tôi rờ lấy nước uống và bánh để trong quan tài và đưa lên miệng nhai.
Dù bóng tối trong hang dày đặc, ngày như đêm, đêm như ngày, tôi vẫn thấy được quan tài của mình và cái hang có vẻ như rộng hơn và chứa nhiều xác chết hơn như nó có vẻ lúc đầu. Tôi sống được vài ngày bằng những chiếc bánh và bình nước, nhưng cuối cùng, không còn gì nữa, tôi sửa soạn chết...''.
Scheherazađẻ kể đến đây thì im tiếng. Đêm sau, nàng kể tiếp:
“Tôi chỉ còn nằm chờ chết - Sindbad nói tiếp – Thì bỗng nghe thấy tiếng có người nâng tảng đá. Người ta lại dòng xuống một xác chết và một người sống. Người chết là đàn ông. Thật cũng tự nhiên và dễ hiểu khi người ta có những quyết định tuyệt cùng vào những lúc tuyệt cùng. Lúc người đàn bà được dòng xuống, tôi tới gần chỗ mà chiếc quan tài phải được đặt vào và khi nhìn thấy tảng đá đã được lắp vào mlệng giếng, tôi liền giáng xuống đầu người đàn bà khổn khổ hai hoặc ba nhát bằng khúc xương to mà tôi đã trang bị. Bà ta bị choáng hay đúng hơn là bị giết và tôi làm cái hành động vô nhân đạo đó chỉ để đoạt bánh và nước để trong quan tài của bà ta. Tôi đã có lương thực dự trữ cho vài ba ngày. Cuối thời gian đó, người ta lại dòng xuống một người đàn bà chết và một người đàn ông sống. Tôi giết người đàn ông cũng bằng cách đó và rất may cho tội là dạo ấy thành phố có nhiều người chết nên tôi không bị thiếu lương thực vẫn bằng cách làm ăn vô nhân đạo đó.
Một hôm, tôi vừa thanh toán một người đàn bà nữa, thì bỗng nghe thấy có tiếng thở và tiếng chân di chuyển. Tôi lần bước đi về phía đó. Tôi nghe thấy tiếng thở rõ hơn và thấy như có một vật gì đó chạy trốn. Tôi đi theo cái bóng đó, thỉnh thoảng nó lại dừng lại và rồi lại vừa thở vừa chạy đi khi tôi đến gần. Tôi vẫn bước đi theo rất lâu và rất xa và cuối cùng nhìn thấy một chấm sáng giống như một ngôi sao. Tôi tiếp tục đi về phía chấm sáng đó, thỉnh thoảng lại mất hút vì bị những chướng ngại che khuất. Nhưng rồi tôi lại thấy và cuối cùng phát hiện ra đó là cái khe ở vách đá, khá rộng có thể lách qua.
Với sự phát hiện này, tôi phải dừng lại một lát để cố nén xúc động quá mạnh làm tôi choáng váng. Tôi tiến đến tận chỗ cái khe đó, lách người qua và thấy mình đứng trên bờ biển. Các vĩ hãy tưởng tượng tôi vui mừng đến độ nào. Nó lớn đến mức tôi cho đó chỉ là một giấc mơ. Khi đã biết chắc đây là sự thực, và các giác quan của tôi đã trở về hoạt động bình thường thì tôi hiểu cái vật mà tôi nghe thấy tiếng thở và tôi đã đi theo, là một con vật từ dưới biển lên và nó có thói quen sục vào cái hang đó để ăn thịt xác chết.
Tôi ngắm nhìn ngọn núi và nhận thấy nó nằm giữa thành phố và biển, chẳng có đường lên lối xuống, vì vách đá dựng đứng rất hiểm trở. Tôi quì xuống bờ biển để cảm tạ Thượng đế đã phù trợ cho tôi. Rồi tôi quay vào hang để lấy bánh mì và trở lại bờ biển ngồi ăn dưới ánh sáng ban ngày, ngon miệng chưa từng có kể từ ngày tôi bị chôn sống trong cái chốn tối tăm mù mịt đó.
Tôi còn quay lại hang để rờ rẫm thu nhặt trong các quan tài tất cả những viên kim cương, hồng ngọc, ngọc trai những vòng tay vàng và cuối cùng là tất cả những tấm vải đẹp mà tôi sờ thấy. Tôi lôi tất cả những thứ đó ra bờ biến. Tôi chia ra thành nhiều gói buộc chặt lại bằng những sợi dây có hàng đống đã dùng để dòng những quan tài xuơng giếng. Tôi để tất cả trên bờ, chờ dịp tất, không sợ trời mưa làm hỏng vì lúc đó chưa phải là mùa mưa.
Được độ hai hoặc ba ngày sau, tời nhìn thấy một con tàu như vừa rời bến và sắp đi qua rất gần chỗ tôi đang đứug. Tôi dùng cái khăn quấn đầu vẫy làm hiệu và kêu lên thật to. Trên tàu nghe tiếng, thả xuồng xuống bơi vào đón tôi. Thuỷ thủ hỏi tôi vì sao lại đến nỗi thế, tôi trả lời họ là thoát chết trong một vụ đắm tàu cách đây hai hôm và cứu được một số hàng hoá họ trông thấy đây. Những nguời này cũng chẳng chú ý quan sát nơi tôi đang đứng xem điều tôi nói có đúng không, họ đã tin và cho tôi lên xuồng cùng các gói hàng.
Khi chúng tôi đã ở trên tàu, thuyền trưởng vui vẻ vì đã giúp được tôi và vì còn đang bận chỉ huy con tàu nên cũng tin là tôi bị đắm tàu như câu chuyện tôi đã bịa đặt. Tôi biếu ông ta vài viên ngọc, nhưng ông không nhận. Chúng tôi đi ngang qua nhiều hòn đảo, trong đó có đảo Chuông, cách đảo Serendib mười ngày xa nếu có gió thuận đều và cách đảo Kela sáu ngày. Chúng tôi ghé vào, ở đây có mỏ chì, mía Ấn Độ và long não loại thượng hạng. Quốc vương đảo Kela rất giàu có, rất hùng mạnh và uy quyền của ông lan tới toàn đảo Chuông rộng hai ngày đường. Thổ dân ở đây rất man rợ, còn ăn cả thịt người. Sau khi bán được một số lớn hàng tại đây, chứng tôi lại giương buồm ghé vào nhiều bến khác. Cuối cùng, tôi thật sung sướng trở về Bagdad với rất nhiều của cải, chắc các vị cũng miễn cho việc nêu lên đầy đủ các chl tiết. ĐỂ tạ ơn Thượng đế vì bao nhiêu ân huệ người ban cho tôi đã làm nhiều điều công đức vừa cho tu sửa nhiều thánh thất vừa giúp đỡ những người nghèo khổ. Tôi hết sức rộng rãi với những người thân và bạn hữu, cùng họ thoả sức vui chơi và tiệc tùng linh đình
Sindbad kết thúc ở đây câu chuyện về chuyến phiêu lưu thứ tư của ông làm mọi người đều thán phục và thích thú hơn cả các chuyện về ba chuyến đi trước. Ông lại tặng cho Hindbad một trăm đồng sequin và mời mọi người hôm sau lại đến đúng giờ như thế để cùng nhau dùng bữa và nghe những chi tiết về chuyến đi thứ năm của ông. Hindbad và những người khác cáo từ ra về. Và hôm sau, khi tất cả mọi người đã tề tựu đông đủ, họ ngồi vào bàn ăn và sau bữa cũng chẳng kém kéo dài như các bữa trước, Sindbad bắt đầu kể tình tlết câu chuyện về chuyến đi biển thứ năm của ông như sau:
Chương 30: Chuyến đi thứ 5
Những thú vui - Ông nói - cũng hãy còn khá đủ sức hấp dẫn để xua khỏi trí nhớ của tôl tất cả những gian nan khổ ải mà tôi đã từng phải chịu đựng, nhưng không thể làm nhụt lòng ham muốn của tôi là lại lên đường làm những chuyến đi mới
Vì vậy, tôi mua hàng, đóng gói và chất lên xe và cùng với hàng, tôi đi ngay tới một cảng biển gần nhất. Tới đây, để khỏl phụ thuộc vào một truyền trưởng và muốn có một con tàu do mình chỉ huy, tôi dành thời gian cho đóng một tàu riêng và bỏ tiền túi ra trang bị hoàn chỉnh. Tàu đóng xong, tôi cho chất hàng lên nhưng tàu còn khá rộng nên tôi nhận chở thêm nhiều nhà buôn của nhiều nước khác nhau cùng vôi hàng hoá của họ.
Khi bắt đầu có gió thuận, chúng tôi giương buồm và lướt ra khơi. Sau một chặng đường dài, chỗ đầu tlên mà tàu ghé vào là một hòn đảo hoang mà chúng tôi thấy ở đó trứng của một con đại bàng to bằng quả trứng mà các vị đã nghe tôi nói rồi. Trong trứng có một con đại bàng non sắp nở, vì đã thấy cái mỏ của nó lấp ló qua chỗ rạn của vỏ trứng.
Kể đến đây, Scheherazade ngừng lại vì ánh sáng ngày đã chiếu vào trong ngự phòng của hoàng đế Ấn Độ. Đêm sau, nàng kể tiếp:
“ Sindbad, người đi biển - Nàng nói - tiếp tục kể chuyện về chuyến đi thứ năm của mình:
- Những nhà buôn - Ông nói tiếp - ở trên tàu của tôi và cũng cùng lên bờ với tôi bèn dùng rìu bổ vỡ quả trứng, lôi con đại bàng non ra, xả làm nhiều mảnh và đưa lên lửa nướng để ăn. Tôi đã nghiêm trang cảnh báo họ là chớ nên đụng vào quả trứng đó, nhưng họ chẳng thèm nghe.
Bữa tiệc thịt chim đại bàng non vừa qua khỏi miệng thì từ phía chân trời khá xa xuất hiện hai đám mây lớn! Người thuyền trưởng mà tôi thuê để chỉ huy con ngườl tàu, có kinh nghiệm biết cái đó có nghĩa gì, kêu lên đó là bố và mẹ con đại bàng non và ông giục chúng tôi gấp rút lên tàu ngay để tránh tai nạn mà ông dự đoán. Chúng tôi vội vã theo lời khuyên đỏ và khẩn trương kéo buồm lên.
Nhưng lúc đó, hai con đại bàng vừa bay tới gần kêu lên dữ dội và chúng lại càng kêu lên khủng khiếp gấp bội khi nhìn thấy tình trạng của quả trứng và không thấy con chúng đâu cả. Chắc là với ý định trả thù, chúng bay về hướng vừa tới và mất hút một thời gian, trong khi đó thì chúng tôi thì giừơng hết buồm lên và gắng sức ra càng xa càng tốt hòn đảo đó.
Đột nhiên, chúng bay trở lại và chúng tôi nhận thấy chúng quặp trong bộ móng của chúng mỗi con một tảng đá rất to. Khi bay đến đúng bên trên tàu chúng tôi thì chúng dừng lại và bay đứng trên không, một con buông tảng đá xuống, nhưng nhờ tài khéo léo của người lái quặt mũi tàu sang một bên nên tảng đá rơi xuống biển, cạnh ngay mạn tàu làm thành một lỗ hổng lớn trên mặt biển hầu như có thể nhìn tới đáy. Con chim kia, tai hại cho chúng tôi, lại buông tảng đá rơi xuống trúng giữa con tàu làm nó vỡ tan tành. Hành khách và thuỷ thủ, người chết bẹp, người chết đuối Còn tôi cũng chìm nghỉm nhưng lúc ngoi lên trên mặt nước, may mà vớ được một mảnh vỡ của con tàu. Cứ thế, lúc tay nọ, lúc tay kia, tôi không rời cái mảnh vỡ đó, gió và sóng đẩy tôi vào một hòn đảo bờ đốc đứng. Dù sao tôi cũng thoát nạn. Tôi ngồi xuống bãi cỏ nghỉ ngơi một chút cho hồi sức rồi sau đó đứng lên đi sâu vào đảo để tìm hiểu đất đai. Tôi đang như ở trong một khu vườn tuyệt diệu: cây mọc san sát, cây này trĩu quả, cây khác đang đâm hoa, những cón suối nước ngọt trong vắt uốn lượn quanh co. Tôi hái quả ăn, những quả thật là ngon ngọt; tôi uống nước của những dòng suối róc rách như mời chào.
Đêm đến, tôi nằm ngủ trên thảm cỏ ở một nơi mát mẻ thuận lợi. Nhưng chẳng ngủ tròn được một tiếng đồng hồ, giấc ngủ luôn bi gián đoạn vì nỗi lo thấy chỉ có mình mình ở một nơi quá hoang vu lặng lẽ. Phần lớn trong đêm tôi âu sầu và lo nghĩ, tự trách mình ngu dại đã không ở yên tại nhà mà lại còn đi làm cuộc phiêu lưu cuối cùng này. Những ý nghĩ bi quan này đã đưa tôi đi xa đến chỗ dự định huỷ hoại thân mình. Nhưng ban ngày tới và với ánh sáng của nó đã làm tán đi nỗi niềm tuyệt vọng của tôl. Tôi đứng lên đặt bước đi giữa các hàng cây mà lòng dạ vẫn bồn chồn.
Khi đi sâu vào đảo một chút, tôi nhìn thấy một ông già rất hom hem lọm khọm. Ông ta ngồi bên bờ suối. Lúc đầu tôi tưởng cũng là nạn nhân bị đắm tàu như mình. Đi lại gần, tôi cất tiếng chào lão và chỉ nhận được một cái gật đầu Tôi hỏi lão đang làm gì. Nhưng lão không trả lời mà lại ra dấu bảo tôi cõng lão lên lưng đưa lão qua suối sang bờ bên kia để hái quả ăn.
Tôi tưởng lão ta muốn tôi giúp đỡ thật nên cõng lão lên lưng và lội qua suối.
- Thôi xuống đi - Tôi bảo lão và cúi người thấp cho lão dễ xuống.
Nhưng đáng lẽ tụt xuống (mỗi khi nghĩ đến tôi lại bật cười) thì lão già đó mà tôi cho là đã quá suy yếu, lại nhẹ nhàng đưa chân lên mà tôi trông da chân lão giống như da bò cái quặp chặt lấy cổ tôi, rồi ngồi dạng chân trên vaí tôi. Quá ngạc nhiên và sợ hãi tôi ngã lăn xuống bất tỉnh...''
Scheherazađe bắt buộc phải ngừng lại ở đây vì mặt trời đã xuất hiện. Nàng kể tiếp câu chuyện này vào cuối đêm sau
“Mặc cho tôi bất tỉnh nhân sự - Sindbad nói - cái lão già quái ác đó vẫn dùng chân bám chặt lấy cổ tôi. Lão chỉ hơi dạng đùi ra một chút cho tôi đễ thở mà thôi. Khi tôi tỉnh dậy, lão dùng một bàn chân đạp mạnh vào bụng tôi, bàn chân kia thúc mạnh vào sườn, bắt tôi phải đứng lên. Lão bắt tôi đi dưới hàng cây, ghìm tôi đứng lại để lão hái quả ăn mỗi khi đến gần một cây có quả chín. Suốt ngày lão quắp vào cổ tôi như vậy và đến tối lúc ngủ thì lão cùng nằm ngả xuống đất với tôi nhưng cặp chân của lão vẫn không rời cổ tôi. Trời sáng thì lão đạp mạnh để đánh thức tôi. Rồi sau đó lão bắt tôi đứng lên và bước đi bằng cách dùng bàn chân thúc vào bụng, vào sườn tôi. Các vị hãy tưởng tượng tôi khổ sở và bực mình biết bao khi cứ phải mang cái của nợ ấy trên vai mình mà không có cách nào rũ bỏ đi được.
Một hôm tôi bắt gặp trên đường nhiều quả bầu khô rụng từ trên cây xuống. Tôi chọn lấy một quả to nhất và sau khi lau rửa sạch sẽ, tôi vắt vào trong quả bầu, nước của những chùm nho mọc rất nhiều trên đảo cứ mỗi bước đi lại gặp, Khi nước quả nho đã đầy bầu, tôi đặt vào một nơi kín đáo và nhiều ngày sau, tôi khéo léo đẫn lão già đến đấy. Đến nơi, tôi cầm lấy quả bầu đưa lên miệng uống một thứ rượu vang ngon tuyệt làm cho tôi cũng tạm khuây khoả chốc lát cái nỗi buồn u uất. Nó làm cho tôi phấn chấn, sảng khoái đến mức tôi vừa đi vừa hát lại có lúc nhảy tâng tâng lên nữa.
Lão già nhận thấy cái loại nước uống đó tác đụng rõ rệt vào tôi, thấy tôi cõng lão thoải mái hơn mọi khi nên lão ra dấu bảo tôi đưa lão uống. Tôi đưa quả bầu, lão cầm lấy đưa lên miệng nếm. Thấy ngon ngọt dễ chịu, lão ngửa cổ dốc vào họng đến giọt cuối cùng. Chừng ấy rượu nho đủ làm cho lão say, và quả nhiên chẳng mấy chốc mà men rượu bốc lên làm cho lão ngật ngưỡng, lão bắt đầu ti tỉ hát theo kiểu của lão và nhún nhảy trên vai tôi. Lắc lư quá mạnh làm cho lão nôn thốc nôn tháo, đôi chân quặp lấy cổ tôi dần dần buông lỏng đến lúc cảm thấy không bị ghì quá chặt nữa, tôi bèn hất lão ngã xoài xuơng đất, lão nằm thẳng cẳng ra đấy, không cựa quậy. Tôi bèn bê một tảng đá to giáng xuống đầu lão.
Tôi vô cùng sung sướng giải thoát được vĩnh viễn khỏi đôi chân của lão già đáng nguyền rủa đó và đi ra phía bờ biển, ở đó tôi gặp được người của một con tàu vừa buông neo để lấy thêm nước ngọt và hái ít trái cây hoang. Nhìn thấy tôi, họ rất ngạc nhiên và khi nghe xong chuyện tôl kể, họ bảo:
- Bạn đã rơi vào tay lão già của biển và là người đầu tiên không bị lão chẹt cổ cho đến chết. Lão không bỏ qua một người nào sau khi đã phục vụ cho lão mà lão không ghì chết. Hòn đảo này nổi tiếng vì số người đã chết vì đôi chân của lão. Các thuỷ thủ và nhà buôn ghé vào đảo này chỉ dám đi sâu vào trong khi có đông người cùng đi.
Sau khi cho tôi biết những điều đó, họ mang tôi theo họ lên tàu. Người thuyền trưởng vui vẻ đón tiếp tôi khi rõ tất cả câu chuyện. Ông lại cho giương buồm và sau hai ngày chèo lái chúng tôi ghé vào bến cảng của một thành phố lớn mà nhà cửa ở đó toàn xây bằng đá tốt.
Một trong những thương gia trên tàu mà tôi đã kịp kết thân bảo tôi đi theo ông ta. Ông đưa tôi đến nơi thường trọ củn những thương gia người nước ngoài. Ông cho tôi một cái bao vải lớn rồi gửi gắm tôi cho mấy người trong thành phố, người nào cũng có một cái bao như tôi, nhờ những người này cho tôl đi theo để nhặt dừa cùng với họ.Ông bảo tôi:
Bạn hãy đi theo họ, làm như họ và nhớ là chớ có rời xa họlúc nào vì sẽ rất nguy hiểm đấy.
Ông ta cho tôi thức ăn mang theo cho ngày hôm đó. Rồi tôi lên đường cùng với những người được ông ta gửi gắm.
Chúng tôi đến một cánh rừng lớn có nhiều cây cao mọc rất thẳng, thân cây nhẵn lì, khó mà trèo lên được để hái quả. Đó là những cây dừa mà chúng tôi muốn trẩy quả chứa vào những bao mang theo. Lúc đi vào rừng, thấy rất nhiều khỉ to khỉ nhỏ. Thấy chúng tôi, chúng ù té chạy và leo tót lên cây trèo thật nhanh lên đến tận chùm quả dừa cao tít''.
Scheherazade muốn kể tiếp, nhưng trời sáng ngăn nàng lại. Đêm tiếp theo, nàng kể tiếp như sau:
“Những nhà buôn mà tôi đi cùng - Sindbad tiếp tục kể - nhặt đá, lấy hết sức ném vào bọn khỉ trên cao. Tôi cũng làm như họ. Bọn khỉ tức giận vặn những quả dừa ngay ở tầm tay chúng ném vào chúng tôi tới tấp. Chúng tôi nhặt dừa bỏ vào bao khi thấy bọn khỉ ngừng thả dừa xuống mà bao của chúng tôi chưa đầy, chúng tôi lại nhặt đá ném để trêu tức chúng. Bằng cái mẹo vặt này, bao của chúng tôi đầy lắc dừa.
Trở về thành phố, người nhà buôn đã cho tôi đi theo bọn người hái đừa đánh giá bao đừa của tôi và bảo:
- Bạn cứ tiếp tục làm như thế cho đến lúc nào đủ khoản chi phí để trở về nhà.
Tôi cảm ơn lờl khuyên tốt của ông và dần dần tôi tích đống được hàng núi dừa đưa lại cho tôi một khoản tiền lớn.
Con tàu mà tôi được đón lên trước đó nhổ neo cùng các nhà buôn chở theo rất nhiều dừa mà họ phải mua buôn. Tôi chờ chuyến tàu khác, chẳng mấy chốc đã tới cặp vào bến cảng thành phố để cũng chuyển tải dừa như thế. Tôi cho bốc cả kho dừa của tôi lên tàu và khi sắp nhổ neo, tôi đến chào và cảm ơn nhà thương gia đã giúp đỡ tôi hết lòng. Ông chưa đi cùng tôi được vì công việc chưa xong.
Chúng tôi giương buồm theo hướng đi vào hòn đảo mà cây hồ tiêu mọc rất nhiều. Từ đó chúng tôi qua đảo Comori nơi sản xuất gỗ đàn hương nổi tiếng mà dân cư ở đó có một đạo luật bất khả xâm phạm là không uống rượu và không tổ chức nhà chứa. Tôi trao đổi dừa ở hai hòn đảo trên đây lấy về hồ tlêu và gỗ đàn hương và cùng với những nhà buôn khác thuê thợ lặn mò ngọc trai. Tôi có những viên ngọc trai rất to và nước ngọc thật đẹp. Trong lòng lâng lâng vui sướng tôi trở lại biển trên con tàu đưa tôi đi Balsora và từ đó tôi trở về Bagdad với những khoản tiền lớn sau khi bán hồ tiêu, gỗ đàn hương và ngọc trai mà tôi kiếm được bằng những quả đừa. Tôi làm việc từ thiện hết khoảng một phần mười số vốn đó cũng như những chuyến trở về trước và tìm đến tất cả những thú vui để bù lại bao ngày vất vả mệt nhọc
Kể xong chuyện, Sindbad lại đem tặng cho Hindbad một trăm đồng sequin và cả bọn ra về. Ngày hôm sau theo lời mời, họ lại tới nhà Sindbađ giàu có, dự tiệc ăn uống thoả thuê như những ngày trước rồi nghe ông kể chuyện về chuyến đi thứ sáu của mình.
Chương 31: Chuyến đi thứ 6
“Chắc là các vị rất khó hiểu là tại sao qua năm lần bị đắm tàu, trải qua biết bao nguy hiểm, mà tôi còn muốn thử vận mệnh của mình lại dấn thân vào gian khổ tìm kiếm những vận hạn mới nữa.
Chính tôi cũng tự mình lấy làm ngạc nhiên khi nghĩ tới điều đó, cho hẳn là ngôi sao chiếu mệnh đã lôi cuốn mình đây. Dù sao chăng nữa thì sau một năm nghỉ ngơi nhàn nhã, tôi lại chuẩn bị cho chuyến đi thứ sáu, bỏ ngoài tai tất cả những lời van xin can gián của người nhà và của bè bạn. Họ đã làm tất cả những gì có thể làm mong giữ tôi lại.
Thay vì đi theo đường biển qua vịnh Persique, một lần nữa tôi lại đi xuyên qua nhiều tỉnh thành của Ba Tư của Ấn Độ tới một hải cảng, ở đó tôi lên một chiếc tàu tốt mà người thuyền trưởng quyết định đl một chuyến dài ngày. Đúng là chuyến đi dài thật nhưng đồng thời cũng thật khốn đốn. Cả thuyền trưởng cả thuỷ thủ đều lạc đường đến nỗi không còn biết được lúc này tàu đang ở đâu. Cuối cùng họ cũng biết, nhưng đã quá muộn. Thuyền trưởng rời bỏ vị trí của mình. Ông quẳng khăn đội đầu xuống biển, lấy tay dứt râu dứt tóc, đấm vào đầu tát vào mặt, kêu lên như một người loạn trí vì tuyệt vọng. Chúng tôi hỏi vì sao ông lại quá phiền não như vậy. Ông thở dài não nuột! .
- Tôi báo cho các ông biết là chúng ta đang ở một nơi nguy hiểm nhất giữa biển. Một đòng nước rất mạnh cuốn con tàu đi và tất cả chúng ta sẽ chết trong một khắc đồng hồ nữa thôi.
Nói xong ông lệnh chò hạ tất cả các cánh buồm, nhưng trong thao tác, các dây rợ đều đứt phựt và con tàu không sao điều khiển được, bị dòng nước cuốn đi xô mạnh vào một trái núi chắn ngang làm vỡ tan ra nhiều mảnh. Tuy vậy khi cứu người, chúng tôi còn có cả thời gian để cứu được một ít lương thực và một số hàng hoá quí. Thuyền trưởng bảo chúng tôi:
- Thượng đế vừa làm cái việc theo ý muốn của Người. Chúng ta có thể đào ở đây mỗi người một huyệt để tự chôn mình và chào nhau lần cuối, vì chúng ta đang ở một nơi cực kỳ bi thảm, không có một ai bị nem vào đây trước chúng ta mà trở về nhà được
Những lời nói của thuyền trưởng làm cho tất cả chúng tôi buồn rầu tuyệt vọng. Chúng tôi ôm hôn nhau mà than mà khóc cho số phận hẩm hiu. Ai cũng ròng ròng nước mắt.
Trái núi mà dưới chân nó, chúng tôi đang trú ngụ là bờ của một hòn đảo rất dài rộng. Đoạn bờ này rải rác rất nhiều những mảnh tàu bị đắm và từng chỗ từng chỗ là những đống xương trắng trông thật khủng khiếp. Chúng tôi thấy rõ là đã có rất nhiều người bị chết tại đây. Một điều không thể tưởng tượng được nữa là cùng với những đống xương, còn rất nhiều đống hàng hoá và của cải bầy ra trước mắt chúng tôi ở khắp mọi chỗ: Tất cả những vật đó chỉ càng làm tăng thêm sự hoang mang sầu não trong hoàn cảnh của chúng tôi mà thôi. Thường thường thì ở tất cả mọi nơi, những dòng sông đều đổ ra biển cả, nhưng ở đây, trái lại, một con sông lôn nước ngọt lại rời biển đổ vào bờ qua một hang động tối om mà cửa hang rất rộng và cao vút. ĐiỀu đáng chú ý nhất ở đây là đá núi đều là thạch anh, hồng ngọc và là nhiều thứ đá quí khác. Người ta còn thấy ở đây một con suối chảy ra biển toàn một chất đầu gì đó mà cá ăn vào lại nhả ra toàn là hổ phách. Những thứ này bị sóng đánh giạt vào bãi cát nằm ngổn ngang khắp chỗ. Ở đây còn mọc nhiều cây mà phần lớn là gỗ trầm hương chẳng thua gì gỗ trầm ở đảo Comari.
Để kết thúc phần miêu tả chốn này, người ta có thể gọi đây là một cái vực không đáy vì chẳng có gì có thể trở lại được cả. Những con tàu không tài nào tránh khỏi một khi đã tới gần ở một khoảng cách nào đó. Nếu chúng được gió biển đẩy đi thì sức gió và dòng nước mạnh sẽ xô vào chỗ diệt vong.
Và nếu chúng được gió từ đất liền thổi ra thì có nhiều cơ may chúng có thể. được đẩy ra xa, nhưng hòn núi cao trước mặt cản gió lại, tạo nên một sự tĩnh lặng mặc cho luồng nước honnh hành xô chúng vào thành đá cho vỡ tan ra từng mảnh cững y như con tàu của chúng tôi. Càng tệ hại và thất vọng hơn nữa là chẳng có cách nào leo được lên đỉnh ngọn núi để tìm cách thoát thân về phía bên kia được.
Chúng tôi ở trên bờ biển như những người mất trí và chờ đợi cái chết đến từng ngày. Trước tiên, chúng tôi chia đều thức ăn cho từng người, như vậy người nọ có thể sống lâu hơn hoặc chết trước người kia tuỳ theo tạng người và cách sử dụng thức ăn của từng ngửời.''
Scheherazade đến đây ngừng kể vì thấy trời đã hửng sáng. Đêm sau, nàng kể tlếp những tình tiết trong câu chuyện về chuyến đi thứ sáu của Sindbad:
hững người chết trước tiên - Sindbad nói tiếp - được những người khác chôn cất. Về phần tôi, tôi làm nghĩa vụ cuối cùng đối với tất cả các bạn và cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên vì ngoài phần được chla đều với các bạn, tôi còn một phần giữ riêng không cho các bạn biết. Tuy vậy lúc tôi chôn cất cho người bạn cuối cùng xong thì số lương thực còn lại cũng thật quá ít ỏi, nên xét thấy tôi cũng chẳng còn đi được bao xa nữa. Vì vậy tự đào sẵn cho mình một huyệt mộ, để tới một lúc nào đó tôi sẽ tự lăn xuống đó. Tôi xin thú nhận với các vị là trong lúc. làm cái công việc đó tôl chẳng khỏi tự xỉ vả chmh mình là nguyên nhân cái chết của mình và ân hận là đã tự mình lao vào cái chuyến đi cuối cùng này. Không dừng lại ở những suy nghĩ mà tôi còn cắn vào tay mình cho đầm đìa máu, mong được chết sớm đi.
Nhưng Thượng đế hãy còn rủ lòng thương xui khiến tôi đi ra tới tận con sông mà dòng nước của nó chảy mất hút dưới vòm hang. Ở đó, sau khi xem xét rất kỹ, tôi tự bảo: ''Con sông giấu mình dưới đất này ắt phải thoát ra ở một chỗ nào đó. Làm một chiếc bè, ngồi lên trên, phó mặc cho dòng nước đẩy đi, ta sẽ tới một vùng đất có dân, hoặc là ta chết. Nếu chết thì chẳng qua cũng là thay đổi loại chết như thế nào thôi. Ngược lại, nếu ra khỏi được cái chốn thê lương này thì không những ta tránh được cái số phận buồn thảm của các bạn đường mà ta còn có thể tìm được cơ hội mớl để làm giàu. Biết đâu vận mệnh lại chẳng chờ ta ra khỏi cái tai nạn gớm ghiếc này để đền bù một cách hào hiệp cho vụ ta bị đắm tàu.
Tôi không lưỡng lự gì nữa mà bắt tay vào làm ngay chiếc bè. Không thiếu vật liệu nên tôi thả sức lựa chọn: những mảnh gỗ ván tốt, những dây thừng chão bền. Tôi gá, buộc thật chặt chẽ các thứ vào nhau thành một chiếc bè rất vững chắc. Khi hoàn thành, tôi chất lên vài bọc hồng ngọc, bích ngọc, hổ phách, đá thạch anh và vảl vóc quí. Xếp thật cân bằng và buộc chặt vào bè, tôi trèo, lên cùng với hai chiếc bơi chèo nhỏ tôi đã không quên đẽo gọt, rồi thả bè theo dòng sông, tôi phó mặc mình cho ý chí của Thượng đế.
Vừa qua vòm hang, chẳng còn ánh sáng nữa, dòng nước cuơn tôi đi đâu, tôi nào có rõ. Suốt mấy ngày tôi ở trong cái bóng tối đen ngòm chẳng nhìn thấy một tia sáng nào. Có lần tôi thấy cái vòm quá thấp tưởng có thể chạm đầu, điều đó làm tôi hết sức chú ý để khỏi bị nguy hiểm. Suốt thời gian này tôi chỉ nhấm nháp cầm chừng sốâ thực phẩm còn lại để duy trì sự sống. Nhưng dù có dè sẻn đến đâu thì thức ăn cũng cạn ráo. Thế rồi, không sao cưỡng nổi, một giấc ngủ nhẹ nhàng đến làm tê liệt cả các giác quan của tôi. Không biết là ngủ được bao lâu nhưng lúc thức giấc tôi ngạc nhiên thấy mình đang ở giữa một cánh đồng rộng trên bờ một con sông mà chiếc bè của tôi được neo buộc ở đó. Cả một đám đông người da đen xúm quanh tôi. Tôi lồm cồm đứng lên và cất tiếng chào.
Họ nói với tôi gì đó nhưng tôi không hiểu tiếng của họ.
Lúc đó tôi sung sướng đến mê man cả người nên không rõ là đã thức hay còn ngỉl. Biết chắc chắn là mình không mơ, tôi kêu to sung sướng và đọc lên những câu thơ tiếng Ả Rập: ''Hãy cầu khẩn đấng Tối cao hùng mạnh, Người sẽ tới cứu giúp mi. Chẳng cần mi phải ôm đồm việc khác. Hãy nhắm mắt lại! Và trong khi mi ngủ, Thượng đế sẽ chuyển vận mệnh mi từ xấu sang tốt''.
Một trong số người da đen, hiểu tiếng Ả Rập, nghe thấy tôi nói thế, tiến đến và nói:
- Người anh em - Anh ta nói - Xin đừng ngạc nhiên thấy chúng tôi ở đây. Chúng tôi sống ở nông thôn như bạn thấy đấy và hôm nay tới đây để tưới ruộng bằng nước của con sông nó chảy từ quả núi kia ra những lạch nhỏ này. Nhận thấy dòng sông có cuốn theo cái gì đó, chúng tôi chạy ra xem và thấy đó là một chiếc bè. Một người trong bọn tôi bèn nhảy xuống sông lôi nó lên buộc vào bờ, và chúng tôi chờ bạn thức đậy. Xin bạn hãy kể cho chúng tôi nghe chuyện của bạn chắc là phải rất kỳ lạ. Hãy nói cho chúng tôi biết vì sao bạn lại lênh đênh trên sông và bạn từ đâu tới thế.
Tôi bảo họ là trước hết họ hãy cho tôi ăn đã rồi sẽ kể hết cho họ nghe.
Họ đưa cho tôi nhiều món ăn và khi đã lưng lửng dạ, tôi kể cho họ nghe tất cả những gì xảy ra với tôi. Họ lắng nghe với vẻ thán phục. Khi kể xong, họ đồng thanh nói sau khi nghe người phiên dịch nói lại:
- Đó thực là một câu chuyện vô cùng kỳ lạ. Bạn cần phải đích thân kể lại cho nhà vua nghe mới được. Tôi bảo là sẵn sàng làm theo lờl họ.
Những người da đen tức thì cho đi kiếm một con ngựa, một lát sau cồ người dắt đến. Họ đặt tôi lên lưng ngựa, một toán đi trước dẫn đường, những người khác là những người khoẻ nhất khiêng lên vai chiếc bè cứ để nguyên thế với tất cả các gói bọc lên trên đi theo sau tôi.
Scheherazade kể đến đây bắt buộc phải ngừng lại vì trời đã sáng rõ. Cuối đêm sau, nàng lại kể tiếp câu chuyện còn bỏ dở.
“Chúng tôi cùng đi - Sindbad tiếp- đến tận thành phố Serendib, chính tôi lúc này đang ở trên hòn đảo đó. Những người da đen đưa tôi đến trình quốc vương của họ. Tôi đến gần ngai vàng ông đang ngồi và chào như cách chào các ông vua Ấn Độ nghĩa là quì xuống bên chân ông và hôn mặt đất. Nhà vua này cho nâng tôi dậy, tiếp tôi rất lịch sự, mời tôi ngồi cạnh ông. Trước hết ông hỏi tên tôi. Trả lời tên mình là Sindbad, biệt hiệu ''người đi biển'' vì đã có nhiều chuyến đi vượt biển, tôi nói thêm mình là công dân của Bagdad.
- Nhưng - Quốc vương lại hỏi - làm sao ông lại đến được đất nước của ta và đến bằng đường nào. Tôi không giấu nhà vua một tí gì và cũng kể lại như tôi vừa kể cho các ông nghe. Ông rất lấy làm ngạc nhiên, thích thú và sai viết lại câu chuyện của tôi bằng chữ vàng để lưu lại văn khố quốc gia. Sau đó người ta khiêng cả chiếc bè cùng với những bọc gói tới trước mặt nhà vua. Ông ngắm xem và rất thích những bọc gỗ trầm hương và hổ phách, đặc biệt hâm mộ những viên hồng ngọc và bích ngọc vì ông bảo trong kho báu của ông chẳng có viên ngọc nào sánh bằng.
Nhận xét thấy ông thích thú ngắm nhìn những viên đá quí mân mê hết viên này đến viên khác, tôi đánh bạo quì xuống nói:
Tâu bệ hạ, không riêng gì bản thân tôi mà tất cả mọi thứ trên chiếc bè này đều thuộc quyền bệ hạ. Xin Người cứ tuỳ nghi sử dụng.
Ông mỉm cười bảo tôi:
- Ta không có một chút ý đồ nào muốn lấy đi những gì mà Thượng đế đã ban cho ông. Không những không muốn làm giảm đi sự giàu có của ông mà ta còn muốn làm tăng lên nữa kia. Ta không muốn khi ông rời khỏi vương quốc ta mà không có gì mang theo để chứng tỏ cho sự hào phóng của ta.
Tôi chỉ còn biết đáp lại những lời đó bằng những câu chúc tụng cho đất nước của Người luôn yên bình thịnh vượng và ca ngợi tấm lòng nhân từ và độ lượng của một vị anh quân. Ông trao cho một vị quan chăm sóc tôi, cử người hầu hạ tôi chu đáo. Ông quan đó chấp hành lệnh của chủ thật trung thành và cho chuyển đến nơi ở của tôi toàn bộ những bọc, những gói để trên chiếc bè gỗ.
Hàng ngày, vào giờ giấc nhất định tôi vào chầu vua, thời gian còn lại tôi đi dạo quanh thành phố để xem có gì hay, có gì lạ tại đây.
Đảo Serendib nằm chính dưới đường hoàng đạo vì vậy ngày và đêm ở đây đều dài đủ mười hai tiếng đồng hồ. Đảo có chiều dài cũng như chiều rộng đo được tám mươi parasanges(1). Thành phố kinh đô toạ lạc tại cuối một thung lũng đẹp hình thành bởi một ngọn núi ở chính giữa đảo và là một ngọn núi cao nhất thế giới. Đúng vậy, cách ba ngày đường trên mặt biển, người ta đã nhìn thấy nó. Người ta tìm thấy ở đây nhiều loại khoáng sản, kể cả đá đỏ và phần lớn đá núi ở đây thuộc loại sa thạch là một thứ đá kim loại dùng để gọt giũa những đồ đá quí. Người ta còn thấy ở đây tất cả các loạl cây cỏ quý hiếm nhất là cây bá hương và cây dừa. Dọc theo bờ biển và ở các cửa sông người ta còn mò ngọc trai và ở một vài thung lũng của đảo còn có cả mỏ kim cương. Vì tín ngưỡng, tôi còn làm một cuộc du hành lên tận đỉnh núi, tới chỗ mà tương truyền là nơi Adam bị đày ải sau khi bị trục xuất ra khỏi địa đàng.
Lúc trở lại thành phố, tôi xin nhà vua cho phép được trở về xử sở của mình. Nhà vua đã chuẩn y ngay với thái độ rất khiêm nhường và lịch sự. Ông bắt tôi phải nhận một tặng phẩm có giá trị lấy từ trong kho ra và lúc tôi tới để cáo biệt, ông lại ban thêm cho một tặng phẩm khác giá trị lớn hơn kèm với một bức thư đức gửi Thống lĩnh các tín đồ,hoàng đế của chúng ta. Ông bảo tôi:
- Ta nhờ ông dâng lên hoàng đế Haroun Alraschid món quà mọn này cùng với bức thư của ta và nói với Người là ta luôn luôn yêu quí và kính trọng Người. Tôi kính cẩn nhận quà tặng cùng với bức thư và hứa với quốc vương sẽ thực hiện đầy đủ mệnh lệnh mà Người đã hạ cố trao cho. Trước khi tôi xuống tàu, nhà vua cho vời thuyền trưởng và các thương gia sẽ cùng đi chuyến ấy, lệnh cho họ phải hết sức quan tâm đến tôi.
Thư của quốc vương Serendib viết trên tấm da của một con thú quí hiếm nào đó mà màu của nó ngả sang màu vàng. Chữ của bức thư viết bằng thứ mực có màu xanh da trời và bằng ngôn ngữ Ấn Độ như sau:
''Mặc dù tặng phẩm gửi đến bệ hạ chẳng đáng là bao, mong bệ hạ vì tình hữu nghị xuất phát từ đáy lòng tôi mà nhận lấy trong tình anh em bè bạn mà món quà này là một biểu hiện. Tôi mong Ngài cho phép tôi cũng được hưởng như Ngài tình hữu nghị như thê. Tự xét mình xứng đáng với điều đó vì ngang địa vị với Ngài. Lấy tư cách là người anh em, tôi khẩn cầu bệ hạ như vậy. Xin kính chào''.
Tặng phẩm gồm có: thứ nhất, một chiếc lọ bằng nguyên một viên hồng ngọc, khoét rỗng và chạm trổ, cao nửa bộ và dày một ngón tay, chứa đầy ngọc tròn nặng nửa drachme(1). Thứ hai: một tấm da rắn có vảy to bằng đồng tiền vàng và có tính năng phòng bệnh cho những ai thường nằm lên trên để ngủ. Thứ ba: năm mươi vạn drachme gỗ trầm hương thơm ngát nhất cùng ba chục viên long não to bằng củ lạc. Và cuối cùng sau tất cả những tặng phẩm trên là một nữ nô lệ với sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành trang phục đính đẩy châu ngọc.
Con tàu giương buồm và sau một chặng đường dài thuận buồm xuôi gió, chúng tôi ghé vào Balsora và từ đấy về Bagdad. Vlệc đầu tiên của tôi ngay sau khi về tới nơi là lo làm tròn sứ mệnh được trao.''
scheherazade thôi kể vì thấy trời vừa sáng. Đêm sau, nàng kể tiếp
“Tôi cầm bức thư của quốc vương Serendib đi tới cung điện của đấng Thống lĩnh các tín đồ, theo sau là cô gái nô lệ tuyệt đẹp và những người nhà đội các thứ quà tặng mà tôi được ký thác. Nói rõ lý do và ngay tức thì tôi được dẫn đến trước ngai vàng của hoàng đế. Tôi quì lạy và sau khi kể lại sự việc một cách thật ngắn gọn, tôi trình bức thư và các tặng phẩm. Hoàng đế, sau khi đọc xong những lời mà quốc vương Serendib viết trong bức thư, hỏi tôi có thực đúng là nhà vua này rất giàu và hùng mạnh không. Tôi lại quì xuống một lần nữa và khi đứng lên, tôi nól:
- Tâu, đấng thống lĩnh các tín đồ? Tôi có thể đảm bảo chắc chắn là ông ta không nói quá sự thật về sự glàu có và hùng mạnh của mình, chính tôi đã mục klch. Không sao có thể tả hết được vẻ tráng lệ của cung điện nhà vua đó. Khi đi tuần du, ông ngồi trên chiếc ngai vàng đặt trên lưng voi và đi giữa hai hàng các thượng thư, các cận thần và các quan chức khác của triều đình. Phía trước ông, cũng trên con voi đó là một võ quan tay cầm một ngọn giáo bằng vàng, phía sau ông là một võ quan khác đứng cầm một cây trượng cũng bằng vàng và đầu chót là một phiến ngọc bích dàl nửa bộ và to bằng ngón tay cái. Tiền vệ là một đơn vị cấm binh gồm một ngàn người mang đồng phục bằng dạ và lụa thêu kim tuyến, ngồi trên những thớt ỵoi trang sức thật sang trọng.
Ngoài ra, quốc vương Serendib còn là một ông vua thật công minh chính trực. Ở kinh đô cũng như ở các địa phương trong đất nước của ông đều không có pháp quan. Dân chúng nước ông không cần cái đó, họ thông hiểu luật pháp, tôn trọng làm theo luật pháp và không bao giờ xa rời nghĩa vụ của mình. Vì vậy toà án và pháp quan đối với họ hoàn toàn không cần thiết.
Hoàng đế rất hài lòng về sự tâu trình của tôi, Người bảo:
- Tài trí của nhà vua đó đã thể hiện trong bức thư và sau khi nghe ông kể lại thì ta cũng thấy là ông ta thật xứng đáng với thần đân của mình và thần dân của ông cũng thật xứng đáng vớl ông ta.
Nói xong hoàng đế cho tôi lui và ban cho một tặng phẩm có giá trị. Sindbad kết thúc câu chuyện, những thính giả của ông cũng rút lui, nhưng Hindbad lại nhận được một trăm đồng sequin. Ngày hôm sau, tất cả bọn họ lại tới nhà Sindbad để ông kể cho họ nghe chuyện chuyến đi thứ bảy cũng là chuyến phiêu lưu cuối cùng của ông.
Chương 32: Chuyến đi cuối cùng
Sau chuyến đi thứ sáu trở về, tôi quyết từ bỏ ý định làm những chuyến đi khác. Cũng đã đến cái tuổi đòi hỏi được nghỉ ngơi nhiều hơn, tôi tự hứa là chẳng tội gì còn dấn thân vào hiểm nguy mà tôi cũng đã nhiều lần trải qua. Chỉ nên nghĩ đến một cuộc sống êm đềm cho quãng đời còn lại.
Một hôm đang chiêu đãi một số bạn bè thì gia nhân đến báo có một vị quan tới hỏi tôi. Tôi rời bàn ăn để tiếp ông. Ông bảo:
- Hoàng đế sai tôi đến triệu ông tới gặp Người.
Tôi theo vị quan này đi tới hoàng cung, quỳ lại bên chân hoàng đế.
- Sindbad - Nhà vua nói - Ta cần ông, ông phải giúp ta một việc. Ông mang cho ta thư trả lời và những tặng phẩm này tới quốc vương Serendib: Cần phải đáp lại Bự lịCh thiệp của nhà vua đó.
Lệnh của hoàng đế như một tiếng sét đối với tôi:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ! - Tôi nói - Tôi sẵn sàng làm tất cả những gì Người ra lệnh, nhưng cầu xin Người chiếu cố mà xét cho là tôi đã chán ngấy bao nhiêu gian lao khổ ải mệt nhọc ngoài sức tưởng tượng mà tôi đã phải trả qua. Hơn nữa, tôi cũng đã có lời nguyền là sẽ chẳng bao giờ rời khỏi Bagdad nữa.
Nhân đó tôi cũng kể cho nhà vua nghe hết các chi tiết trong tất cả các chuyến phiêu lưu của tôi và ông cũng chịu khó ngồi nghe không bỏ sót một chi tiết nào.
Khi tôi kể xong, Người liền bảo:
Ta thú thật, đó đúng là những sự kiện thật lạ kỳ nhưng dù sao thì vì lòng yêu mến ta, ông cũng chẳng nên từ chối chuyến đi mà ta yêu cầu. Chỉ cần đi tới đảo Serendib hoàn thành sứ mệnh ta đã trao, rồi sau đó ông sẽ được tự đo quay trở về. Nhưng nhất thiết phải đi vì ông cũng thấy rõ là sẽ chẳng lịch sự và chẳng xứng đáng với danh vị của ta chút nào nếu chưa đáp lễ được quốc vương đảo ấy
Thấy hoàng đế cứ khăng khăng bắt tôi làm việc đó, biết không thể thoái thác được nữa, tôi đành phải tỏ ra sẵn sàng tuân phục. Ông tỏ vẻ rất vui và cấp cho tôi một nghìn đồng sequin làm lộ phí.
Tôi sửa soạn cho chuyến đi chỉ mất vài ngày và khi người ta đem đến các tặng phẩm và lá thư chính tay hoàng đế viết thì tôi lên đường ngay. Tôi đi thẳng đến Balsora và xuống tàu. Thuận buờm xuôi gió nên chẳng bao lâu đã tới đảo Serendib. Tôi trình bày với các quan chức sứ mệnh được trao và yêu cầu được bệ kiến nhà vua ngay, họ đã vui vẻ giúp tôi liền. Họ long trọng đưa tôi tới hoàng cung, lúc quỳ lạy theo đúng nghi lễ, nhà vua nhận ra tôi, ông hết sức vui mừng khẽ kêu lên:
- A, Sinđbad! Xin chào mừng ông. Ta thề với ông là từ ngày ông ra đi, ta luôn nhớ tới ông. Tạ ơn ngày hôm nay vì chúng ta lại được gặp nhau lần nữa.
Tôi cũng chúc mừng ông và sau khi nói lời cảm ơn về lòng tốt đối với tôi, tôi dâng lên ông bức thư và tặng phẩm của hoàng đế. Ông tiếp nhận với vẻ hết sức hân hoan mừng rỡ.
Hoàng đế gửi tặng nhà vua Serendib một chiếc giường hoàn chỉnh phủ dạ vàng trị giá tới một nghìn đồng sequin; năm chục áo dài bằng thứ vải quí, một trăm chiếc khác bằng vải trắng mịn xứ Caire, Suez, Cufa và Alexandrie; một chiếc giường khác màu đỏ sẫm và chiếc khác nữa theo kiểu khác; một chiếc bình mã não lùn dày một đốt ngón tay miệng rộng nửa bộ, đáy chạm nổi một người nam giới quỳ một gối xuống đất, tay cầm cung và một mũi tên sẵn sàng bắn vào một con sư tử; cuối cùng hoàng đế gửi tặng nhà vua một chiếc bàn sang trọng tương truyền được lưu lại từ thời Salomon vĩ đại. Thư của hoàng đế nội dung như sau:
''Nhân danh vị chúa dẫn theo chính đạo xin gửi tới hoàng đế hùng cường và hạnh phúc lời chào của Abdallah Haroun Alraschid, được Thượng đê đặt vào chỗ tôn qúi sau các đấng tổ tiên đời đời vinh hiển.
Chúng tôi đã vui mừng nhận được thư bệ hạ và xin gửi đến bệ hạ thư này từ triều đình chúng tôi, vườn hoa của nhưng trí tuệ lớn. Chúng tôi hy vọng khi bệ hạ ngự lãm sẽ thấy được thiện chí của chúng tôi và bệ hạ sẽ thấy hài lòng. Xin kính chào''.
Quốc vương Serendib rất vui thấy hoàng đế đáp lại tấm tình hữu nghị của mình. Sau cuộc bái klến đó một thời gian ngắn, tôi xin phép được cáo biệt nhưng thật chẳng dễ dàng gì vì sự quyến luyến của nhà vua. Nhưng cuối cùng tôi cũng được y chuẩn, và nhà vua, trước lúc bái biệt còn ban cho tôi một tặng phẩm có giá trị rất lớn. Không chút chậm trễ, tôi xuống tàu với ý định là thẳng hướng trở về Bagdad. Nhưng không đạt được ý muốn như hằng mong ước, số phận tôi còn tuỳ thuộc vào sự định đoạt của Thượng đế kia.
Đi được khoảng ba bốn ngày, chúng tôi bị bọn cướp biển tấn công. Chúng chẳng khó khăn gì tròng việc làm chủ con tàu vì tàu không có một chút chuẩn bị nào để đối phó. Một vài người trên tàu định phản đối đều bị chúng giết, Còn tôi và những người khác thì bị chúng bắt làm nô lệ''
Trời hừng sáng ngăn Scheherazađe lại. Đêm sau, nàng kể tiếp:
- Tâu bệ hạ - Nàng nói với hoàng đế Ấn Độ - Sindbađ kể tiếp những chuyện xảy ra trong chuyến đi cuối cùng của ông:
“Sau khi bọn cướp biển cướp đoạt và trấn lột chúng tôi trần trụi, chúng vứt cho những áo quần cũ bẩn bắt mặc vào rồi đưa chúng tôi tới một hòn đảo to và rất xa để bán.
Tôi rơi vào tay một nhà buôn giàu có. Vừa mua được tôi, ông ta đã đưa về nhà cho ăn uống và cho ăn vận sạch sẽ, áo quần của người nô lệ. Vài ba ngày sau vì chưa rõ thân thế của tôi nên ông ta hỏi tôi có biết nghề nào không. Tôi trả lời mình không phải là thợ mà chuyên làm nghề buôn bán. Bọn cướp biển đã đem bán tôi sau khi đã cướp đoạt toàn bộ hàng hoá của cải của tôi. Ông hỏi:
- Cho tôi biết là anh có thạo nghề cung nỏ không?
Tôi đáp đó là một trong các môn chơi của tôi hồi trẻ và đến lúc này cũng hãy còn nhớ.
Thế là ông ta đưa cho tôi một cây cung và ít mũi tên, đặt tôi ngồi trên lưng voi, phía sau ông ta và đưa tôi đến một khu rừng rất rộng cách xa thành phố khoảng hai giờ đi đường. Chúng tôi đi rất sâu vào phía trong và khi thấy có thể dừng lại, ông bảo tôi xuống voi. Rồi chỉ tay yào một Cây to, ông bảo:
- Anh hãy trèo lên cây kia, và nhằm bắn vào những con voi đi ngang qua. Rừng này có rất nhiều voi. Khi bắn ngã được con nào thì báo cho tôi biết.
Nói xong, ông để lại thức ăn cho tôi và quay trở lại đường về thành phố. Tôi núp trên cây cao suất cả đêm đó mà chẳng thấy một con voi nào. Nhưng đến ngày hôm sau, mặt trời vừa nhô lên, tôi đã nhìn thấy một đàn voi rất đông. Chúng đi ngang qua dưới gốc cây, tôi giương cung bắn liên tiếp. Cuối cùng có một con ngã xuống. Ngay lập tức các con khác rùng rùng tháo chạy để tôi được tự do đi báo chủ. Ông thết tôi một bữa ăn thịnh soạn, khen ngợi tài bắn cung của tôi, rồi cũng đi vào rừng, đào một hố to chôn con voi tôi vừa hạ. Ông chủ của tôi bảo là sẽ quay lại khi con voi đã thối rũa để lấy đôi ngà của nó đem bán.
Tôi tiếp tục săn voi trong khoảng hai tháng và không mấy ngày là tôi không hạ được một con. Không phải là tôi chỉ cố định núp trên một cái cây duy nhất mà nay ở cây này, mai ở cây khác. Một buổi sáng tôi chờ đàn voi đến và cực kỳ kinh ngạc thấy đáng lẽ bọn chúng đi xuyên rừng, qua chỗ tôi nấp thì tất cả dừng lại và ào ào tiến về cál cây trên đó có tôi, chân chúng chạy làm rung chuyển cả mặt đất. Chúng vây chặt xung quanh cây giơ vòi lên và những cặp mắt nhìn thẳng vào tôi. Trông cảnh tượng kỳ quặc khủng khiếp đó, tôi đờ người sợ hãi đến nỗi cả cung cả tên đều rơi xuống đất.
Đàn voi nhìn tôi một lát, rồi một con to nhất chắc là con đầu đàn bước đến dùng vòi quấn quanh thân cây vặn mạnh đến mức cál cây to như vậy mà bật rễ bị quật nằm xuống đất. Tôi bị ngã cùng với thân cây nhưng con voi đã đưa vòi ra đỡ lấy tôi và nhẹ nhàng đặt lên lưng nó. Tôi ngồi mà sợ hết vía, túi đựng tên hãy còn lủng lẳng trên vai. Con voi đó tức thì dẫn đầu cả bọn đưa tôi đến một nơi quang đãng, đặt tôi xuống đất rồl nó và cả bọn quay vòi đi mất. Các vị có biết tình trạng tôi lúc đó như thế nào không? Tôi tưởng mình đang sống trong một giấc mơ vậy. Sau một lát nằm đài trên mặt đất, nhìn không còn thấy con voi nào, tôi ngồi dậy và thấy mình đang ở trên một quả đồi khá dài rộng. Xương voi và ngà voi chất đống. Xin thú thật với các vị là điều trông thấy làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Tôi thầm thán phục linh tính của loài vật này. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là nghĩa địa của voi. Chúng đã cố ý đưa tôi đến đây để cho tôi biết và thôi không giết hại chúng nữa. Sở dĩ làm cái việc đó chẳng qua cũng chỉ là muốn lấy ngà của chúng thôi. Tôi không nán lại trên đồi làm gì nữa mà lập tức quay gót về thành phố. Sau một ngày và một đêm đi bộ, tôi về đến nhà người chủ. Trên đường đi, chẳng gặp một con voi nào, tôi đoán là chúng đã rút sâu vào trong rừng để con đường từ thành phố đến quả đồi đó không có gì trở ngại.
Vừa trông thấy tôi, ông chủ đã kêu lên:
- Ôi? Sindbad tội nghiệp! Ta đang rất buồn khổ khi biết cái gì đã xảy ra với anh. Ta đã vào rừng, đã thấy cái cây bị vặn trơ gốc, cái cung và các mũi tên rải rác trên mặt đất. Sau khi ra sức tìm kiếm anh không kết quả, ta thất vọng là chẳng còn bao giờ được nhìn thấy anh nữa. Hãy kể lại cho ta nghe đi, điều gì đã xảy ra với anh. Nhờ may mắn nào mà anh hãy còn được sống.
Tôi đã thoả mãn sự muốn hiểu biết của ông. Ngày hôm sau cả hai đi tới quả đồi và ông cực kỳ vui sướng công nhận những điều tôi nói hoàn toàn là thật. Chúng tôi chất lên lưng con voi mà chúng tôi cười để đến quả đồi, tất cả những cặp ngà mà nó đủ sức mang được. Trên đường về, ông chủ bảo tôi:
- Người anh em ạ! Ta không muốn coi anh như nô lệ nữa, sau việc anh vừa làm cho ta. Sự khám phá này sẽ làm cho ta giàu sụ, Thượng đế sẽ ban cho anh mọi thứ của cải và sự phồn vinh: Ta xin tuyên bố trước Người là ta trả lại tự do cho anh. Ta đã giấu anh những điều mà anh sẽ nghe ta nói đây.
Những con voi trong rừng đây, mỗi năm đã giết chết rất nhiều nô lệ mà chúng ta sai đi lấy ngà. Dù có dặn dò chúng thế nào đi nữa thì sớm hoặc muộn thế nào chúng cũng bị nhũng con vật tinh khôn ấy giết chết. Thượng đế đã giải thoát cho anh khỏi sự hung dữ của chúng và chỉ ban phúc cho một mình anh thôi đó. Điều này chứng tỏ là Người yêu anh và Người cần đến anh để anh làm điều tốt cho đời. Anh đã mang về cho ta một mối lợi rất lớn. Chúng ta có được những ngà voi cho đến lúc này là nhờ vào sụ hi sinh mạng sống của các nô lệ. Và bây giờ, thế là cả thành phố này giàu có lên là nhờ vào cách làm của anh. Đừng tưởng là trả lại cho anh tự do là đã đền đáp cho anh đầy đủ. Ta muốn còn cho anh của cải nhiều hơn nữa mới xứng đáng. Ta có thể vận động cả thành phố này tham gia vào việc gây dựng cơ đồ cho anh, nhưng đó là một vinh dự mà ta muốn chỉ một mình ta hưởng thôi.
Với những lời đầy ân nghĩa đó, tôi đáp:
- Ông chủ ạ, cầu Thượng đế phù hộ cho ông! Cái tụ do mà ông ban cho cũng đủ đền công cho tôi rồi. Để trả công cho tôi đã giúp đỡ ông và toàn thành phố, tôi chỉ dám xin ông cho phép được~trở về quê huơng xứ sở.
- Được lắm. - Ông nói - Chẳng bao lâu nữa những con tàu sẽ theo gió mùa về đây ăn ngà voi. Ta sẽ gửi anh và những thứ ta cho để anh đưa về nhà.
Tôi lại cảm ơn ông về việc giải phóng cho tôi và những ý tốt của ông đối với tôi. Tôi ở nhà ông để chờ có gió mùa lên và trong thời gian đó chúng tôi đã nhiều lần đi tới ngọn đồi khiến cho những kho hàng đầy ắp ngà voi. Tất cả những nhà buôn của thành phố làm nghề buôn bán ngà voi đều làm thế vì không thể giấu được lâu sự phát hiện đó.''
Đến đây, Scheherazade thấy trời hửng bèn thôi kể. Nàng tiếp tục vào đêm sau và nói với hoàng đế.
“Tâu bệ hạ, Sindbad tiếp tục kể về chuyến đi thứ bảy của ông:
- Những con tàu - Ông nói - cuối cùng đã tới và ông chủ tôi tự mình chọn tàu cho tôi xuống, chất ngà voi xuống đầy nửa tàu coi như phần của tôi. Ông cũng không quên đưa xuống tàu nhiều thức ăn nước uống cần cho chuyến quá giang của tôi. Thêm nữa ông còn bắt tôi dự những buổi chiêu đãi thịnh soạn và nhận những sản vật lạ của địa phương. Sau khi hết lòng cảm ơn về tất cả những việc tết ông đã làm cho tôi, tôi xuống tàu. Tàu nhổ neo bắt đầu lướt sóng và câu chuyện bị làm nô lệ rồi lạl được trả tự ảo thật vô cùng kỳ lạ làm cho đầu óc tôi không khỏi bàng hoàng.
Chúng tôi dừng lại ở một vài hòn đảo để tiếp tế thêm thức ăn tươi. Tàu của chúng tôl khởi hành từ một bến đất liền Ấn Độ, chúng tôi cũng cặp vào một bến như vậy và ở đó, để tránh những rủi ro ở biển đến tận Balsora, tôi cho bốc số ngà voi của tôi lên bờ và quyết định đi bằng đường bộ. Tôi bán ngà voi được khoản tiền rất lớn. Bằng tiền đó tôi mua nhiều thứ quý hiếm dùnly làm quà, và nhập vào một đoàn nhà buôn rất đông người. Đường đi dài và thật là gian khổ nhưng tôi cố gắng chịu đựng với ý nghĩ an ủi là như vậy chẳng phảl bị bão biển, cướp biển cũng chẳng sợ gặp rắn rết và các tai nạn hiểm nghèo khác mà tôi đã từng trải qua .
Nhưng rồi tất cả những sự gian lao vất vả ấy đều qua, tôi sung sướng về tới Bagdad. Trước hết tôi xin bệ kiến hoàng đế và tường trình về chuyến đi sứ của mình. Nhà vua nói là chuyến đi quá dài của tôi làm cho Người lo lắng nhưng ông luôn hy vọng là Thượng đế sẽ chẳng bỏ tôi. Khi kể cho Người nghe chuyện về những con voi, Người tỏ ra rất ngạc nhiên, chắc Người sẽ không tin là chuyện có thật nếu sự trung thực của tôi Người không biết rõ từ lâu. Người thấy câu chuyện này và cả những câu chuyện khác tôi đã kể thật là kỳ lạ nên lệnh cho một trong những ký lục của Người chép lại bằng chữ vàng để giữ gìn trong văn khố của triều đình. Tôi cáo lui, rất hài lòng về vinh dự được nhận và những tặng phẩm Người hạ cố ban cho. Rồi sau đó tôi dành hoàn toàn mọi sự quan tâm, mọi điều ưu ái và tất cả thời gian của tôi cho gia đình, bà con, bè bạn.
Sindbad kết thúc câu chuyện về chuyến đi biển thứ bảy và là cuối cùng của ông như vậy đấy. Rồi ông bảo Hindbad:
- Này anh bạn! Anh có bao giờ nghe nói có một người nào đó đã từng trải qua bao gian nan khổ ải như tôi chưa, có một người nào bị rơi vào những tình huống vô cùng gay cấn như thế chưa? Có công bằng không, sau bao nhiêu việc đã làm như thế, tôi được hưởng một cuộc sống dễ chịu và bình yên?
Ông nói xong, Hindbad tiến lại gần hôn tay ông, nói:
- Phải thú thật là, thưa ngài, ngài đã trải qua bao gian nan nguy hiểm thật là khủng khiếp. Những nỗi khó khăn vất vả của tôi nếu đem so thì chẳng thấm gì. Nếu nó có làm cho tôi mệt nhọc, buồn nản trong thời gian phải chịu đựng thì bù lại và để an ủi thì tôi đã có được một món lợi nhỏ trong đó rồi. Ngài không những xứng đáng được sống một cuộc sống êm đềm, mà còn đáng được hưởng tất cả của cải ngài có bởi vì ngài đã biết sử dụng nó một cách xứng đáng và thật hào hiệp biết bao. Xin ngài hãy cứ tiếp tục sống trong niềm vui cho đến giờ phút lậm chung.
Sindbad lại biếu gã một trăm đồng sequin, nhận gã vào số bạn bè, bảo gã hãy bỏ cái nghề khuân vác quá cực nhọc đối với tuổi của gã, đến ăn tại nhà ông, cho gã có chỗ dựa để trọn đời nhớ đến Sindbad, người đi biển.”
Scheherazade, nhìn thấy trời chưa sáng nên lại tiếp tục nói và bắt đầu kể một câu chuyện khác.
Chương 33: Người 2 lần tỉnh mộng
Dưới triều đại hoàng đế Haroun Alraschid, ở thành phố Bagdad có một nhà buôn rất giàu có mà bà vợ đã già. Họ có một người con trai độc nhất, tuổi độ ba mươi, được nuôi dưỡng trong tình trạng cực kỳ keo kiệt mọi thứ.
Người thương gia qua đời, Abou-Hassan (tên người con trai) là người thừa kế độc nhất được hưởng một tài sản lớn do người cha suốt đời cần cù trong công việc kinh doanh để lại. Người Con có cách nhìn và có xu hướng không giống cha nên đã sử dụng tài sản ấy với những cách thức khác hẳn. Vì trong thuở thiếu thời, người cha chỉ cung cấp cho con một khoản chi đủ sống hàng ngày, mà cậu con thì luôn ham muốn một cuộc sống chơi bời phóng túng đua đòi cùng bạn bê, cho nên lúc này chàng ta nhất quyết phải chơi bời ăn tiêu cho xứng với khoản tài sản kếch xù mà số mệnh đã ưu đãi. Để thực hiện ý đồ đó, chàng ta phân chia của cải thành hai phần: một phần dùng để tậu ruộng đất ở nông thôn và mua nhà cửa ở thành phố. Lợi tức của phần này cũng đủ để chàng có một cưộc sống thoải mái, nhưng chàng thề là sẽ không đụng chạm tới mà chỉ để tích luỹ lại thôi. Phần kia là một khoản tiền mặt khổng lồ sẽ dùng để bù đắp lại suất cả quãng đời mà chàng coi là đã bỏ phí do bị cha kiềm chế cho đến tận ngày ông qua đời. Nhưng chàng cũng tự đặt ra luật lệ cần thiết, tự hứa là sẽ chẳng bao giờ vi phạm mà tiêu pha quá cái khoản đã dành cho cuộc sống chơi bời.
Với ý định đó, chỉ trong ít ngày Abou-Hassan đã tập hợp được một số thanh niên cùng ìứa tuổi và địa vị xã hội, chỉ bày cho họ cách ăn chơi thoải mái... Rồi nào tiệc tùng, của ngon vật lạ... Chàng dốc tiền túi ra chiêu đãi. Trong những buổi tiệc tùng nhậu nhẹt như vậy thường kết thúc bẳng vũ hội mà những vũ công vũ nữ và các nghệ sĩ ngâm thơ nổi tiếng cả nam và nữ được mời từ Bagdad tới. Tất cả những trò vui chơi ăn uống đó kéo dàl hết ngày này đến đêm khác đã làm cho Abou Hassan phải bỏ ra một khoản tiền lớn, khiến chàng không thể như thế quá một năm. Năm vừa hết thì tiền cũng vừa cạn. Từ lúc không còn tiệc tùng gì nữa thì bạn bè cũng biến mất tăm, đi đâu chàng cũng chẳng còn gặp họ nữa. Đúng vậy, bởi vì. trông thấy chàng là họ đã lẩn tránh rồi. Nếu may ra mà gặp một bạn nào đó đã cùng nhau vui chơi ăn uống trước kia thì bạn này cũng kiếm cớ để thoái thác và tìm cách rút lui.
Abou Hassan rất buồn lòng về thái độ lạ lùng của bạn hữu. Họ bỏ rơi chàng một cách vô sỉ và vô ơn sau bao nhiêu biểu hiện và những lời thề thất về tình bằng hữu keo sơn mà họ đã bộc bạch với chàng. Buồn về khoản tiền lớn đã tiêu pha cho họ thì ít mà buồn về tình đời đen bạc lại nhiều hơn. Buồn bã, trầm ngâm, đầu cúi thấp, nét mặt âu sẩu chàng bước vào phòng riêng của mẹ, ngồi xuống đầu chiếc sập khá xa chỗ bà ngồi. Nhìn thấy tình trạng con trai như thế, bà cất tiếng hỏi:
Con làm sao thế? Sao mà con lại đổi khác, lại rầu rĩ khác thường như vậy? Dù có mất trắng tay những gì con đã có ở trên đời này thì cũng chảng đến nỗi như vậy. Mẹ biết là con đã tiêư pha mất một khoản tiền lớn vào con đường chơi bời phóng túng và mẹ biết lúc này con chẳng còn lại được bao nhiêu. Con là người làm chủ tài sản của mình, sở dĩ mẹ không khuyên can con về lối sống buông thả đó vì mẹ biết con đã khôn ngoan để dành riêng ra một nửa tài sản. Sau chuyện đó ra thì mẹ không thấy có gì đã làm cho con phải đắm chìm trong sầu não như vậy.
Abou Hassan bật khóc khi nghe mẹ nói, và trong nước mắt cùng tiếng thở dài, chàng nói với bà:
- Mẹ ơi, bằng kinh nghiệm đau đớn con đã thấy là cái nghèo túng làm cho ta khổ sở như thế nào. Mặt trời lặn đã làm cho ta mất đi cái ánh sáng huy hoàng của nó cũng như cái nghèo khổ đã tước đi của ta tất cả niềm vui sướng trên đời. Tóm lại một câu là kẻ nghèo thì đối với người thân, đối với bạn bè chỉ là những người xa lạ. Thưa mẹ, mẹ biết đấy - Chàng nói thêm - suốt một năm trời, con đã sử dụng một nửa gia sản để chiêu đãi bạn bè như thế nào: Con đã không tiếc họ một tí gì cho đến ngày cạn túi, và đến lúc này con không còn gì để cung đốn cho họ nữa thì họ bỏ rơi con. Con nói không còn gì nữa là muốn nói về cái khoản dành riêng để dùng vào việc ấy. Còn về phần lợi tức của con về nhà cửa ruộng đất, thì tạ ơn Thượng đế đã xui khiến con để rlêng ra dưới điều kiện và lời thề là không được đụng tới để mà vung phí. Con đã giữ trọn lời thề và con biết sẽ phải sử dụng ra sao khoản may mắn còn lại đó. Nhưng trước hết con muốn thử lòng các bạn bè của con xem chúng còn xứng với tên gọi đó không, xem chúng vong ơn bạc nghĩa đến mức nào. Con sẽ lần lượt gặp từng đứa, nói cho chúng rõ những việc đã làm trước đây vì lòng yêu chúng và cầu xin chúng cùng nhau gom góp để vực con ra khỏi cơn khốn đốn này mà khốn đốn cũng là vì chúng mà thôi. Nhưng, như con đã nói với mẹ, con làm việc này cũng chỉ là để xem bụng dạ chúng thế nào thôi.
- Con ạ - Bà mẹ Abou Hassan bảo chàng - Mẹ chẳng muốn ngăn con đâu. Nhưng mẹ có thể nói trước là hy vọng của con không có cơ sở. Hãy tin mẹ, dù làm cách nào thì con cũng sẽ thất bại. Con chỉ tìm thấy sự giúp đỡ ở chính con mà thôi. Mẹ thấy rõ là con chưa hiểu những người bạn mà ngườ ta thường gọi như thế với những ngườỉ như loại bạn con, nhưng rồi con sẽ hiểu chúng. Thượng đế cũng như mẹ muốn là tất cả vì con.
- Mẹ ơi - Abou Hassan lại tiếp - Con rất tin lời mẹ nói là sự thật. Nhưng con sẽ càng tin chắc hơn bằng việc làm thiết thân này để tự mình được sáng tỏ hơn về sự hèn mạt và vô liêm sỉ của chúng.
Abou Hassan đi thực hiện ý đồ của mình ngay lúc đó và rất may mắn chàng gặp được tất cả bọn bạn này tại nhà chúng. Chàng trình bày với chúng tình trạng lúng túng của mình và đề nghị chúng bỏ tiền ra cứu đỡ. Chàng còn hứa riêng với một vài đứa là sẽ trả nợ sòng phẳng khi công việc hoàn thành, và cũng không quên nói chỉ vì phần lớn tiêu pha cho chúng trước đây mà bây giờ gặp khó khăn, để kích thích thêm tấm lòng hào hiệp của chúng. Chàng cũng nhử mồi bảo chúng là rất có hy vọng sẽ có thể lại cùng chúng vui chơi, nhậu nhẹt, đàn hát, nhảy múa như cả một năm trời trước đây.
Không có một đứa nào trong số bạn nhậu của chàng động lòng về viễn cảnh huy hoàng mà chàng Abou Hassan buồn bã nêu ra để thuyết phục chúng. Chàng còn đau lòng thấy là nhlều đứa còn nói xưng xưng là chưa từng quen biết chàng, thậm chí còn chưa nhìn thấy chàng bao giờ. Chàng trở về lòng thắt lại trong đau đớn và bất bình, bước vào phòng riêng của mẹ, kêu lên:
- Ôi mẹ ơi! Đúng như mẹ nói, chúng đâu phải là bạn mà là một lũ vô lại, một lũ vong ơn bạc ác, chẳng xứng với tình bạn của con. Thế là xong, con chấm dứt tình nghĩa với chúng và hứa với mẹ là không bao giờ còn nhìn mặt chúng nữa!
Abou Hassan kiên quyết giữ lời hứa. Để thực hiện, chàng đề phòng mọi hoàn cảnh có thể đưa tới sự bất tiện, thề là suốt đời mình sẽ không chiêu đãi mời ăn uống bất cứ một người nào trong toàn thành phố Bagdad. Rồi chàng lấy từ trong két số tiền lợi tức để dành ra đặt vào chỗ chàng vừa vung phí cho khoản ăn uống chơi bời đã hết sạch. Chàng quyết định chỉ chi tiêu hàng ngày một khoản tiền vừa phải đủ để mời ăn tối một người. Chàng còn thề là người này phải là ở nơi khác đến vào ngày hôm đó chứ không phải là dân Bagdad. Và chàng sẽ giã biệt người đó vào sáng hôm sau, chỉ để cho ngủ lại một đêm thôi.
Theo dự tính đó, Abou Hassan tự mình chuẩn bị từ sáng thực phẩm cần thiết cho bũa ăn tối cùng với khách và cuối mỗi ngày chàng ra đầu cầu Bagdad ngồi chờ. Khi trông thấy một người khách lạ, bất cứ người đó như thế nào, chàng lịch sự chào đón, mời về nhà mình ăn ngủ đêm đầu tiên và sau khi phổ biến thành thật điều kiện mình đã dặt ra, chàng dẫn khách về nhà.
Bữa cơm mà Abou Hassan mời khách chẳng lấy gì làm thịnh soạn nhưng cúng đủ làm cho khách hài lòng. Nhất là rượu ngon thì không bao giờ thiếu. Bữa ăn thường kéo dài tới gần nửa đêm và đáng lẽ trao đổi cùng với khách những câu chuyện về thời sự, về gia đình hoặc về buôn bán, thường thường là như thế, thì chàng lại đề cập tới những chuyện linh tinh, vui vẻ nhẹ nhàng. Bản chất chàng cởi mở, vui tính và hài hước nên bất cứ về lĩnh vực nào, trong câu chuyện của chàng cũng làm cho người nghe khoan khoái và đượm vui dù đang có chuyện buồn.
Đưa tiễn khách vào sáng hôm sau, Abou Hassan nói:
- Dù đi tới đâu, Thượng đế cũng sẽ dành cho ngài mọi sự vui vẻ! Hôm qua khi tôi mời ngài về nhà tôi ăn nghỉ, tôi đã nói trước luật lệ tôi đẫ tự đặt ra, xin ngài cũng đừng cho là không phải khi chúng ta không còn cùng nhau ăn uống và ngay cả việc chúng ta sẽ chẳng còn gặp lại nhau ở nhà tôi hoặc ở nơi khác nữa. Tôi có những lý do để xử sự như vậy. Cầu xin Thượng đế phù hộ cho ngài. Abou Hassan thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc đó. Chàng không mời những người lạ đã một lần tiếp đón tại nhà mình và cũng chẳng chuyện trò gì với họ nữa. Khi gặp họ ngoài phố, ở nơi công cộng hoặc trong nhũng cuộc hội họp, chàng làm như không thấy họ, thậm chí còn lảng đi chỗ khác sợ họ đến hỏl han, tóm lại là chẳng còn quan hệ với họ bất cứ về mặt nào. Đã một thời gian khá lâu chàng xử sự như thế thì một hôm trước khi mặt trời lặn một chút, chàng ngồi chơi chờ khách như thường lệ thì hoàng đế Haroun Alraschid chợt xuất hiện nhưng cải trang vì vậy không ai nhận ra được.
Dù vị hoàng đế này có cả triều thần với đủ các bá quan văn võ điều hành công việc thật chu đáo, nhưng Người vẫn muốn tự mình đi tìm hiểu cho rõ tất cả mọi sự việc. Cũng vì thế mà chúng ta đã nhiều lần thấy Người cải trang vi hành khắp thành Bagdad. Ông cũng chẳng ngần ngại việc ra mãi xa ở bên ngoài hoàng cung, vì vậy, ông có thói quen là cứ mỗi ngày đầu tháng lại tới những đại lộ mà có người ở xa tới lúc thì từ đầu này lúc từ đầu kia. Hôm đó vào ngày đầu tháng, ông cải trang như một thương gia ở Moussoul vừa ghé tàu buôn tới từ đầu cầu bên kia, theo sau là một nô lệ to khoẻ.
Trong bộ y phục cải trang, hoàng đế vẫn có một phong thái bệ vệ đáng kính, Abou Hassan tưởng đó là một thương gia Moussoul thật nên từ chỗ ngồi đứng lên, và sau khi lịch sự và nhã nhặn cất lời chào và hôn tay người khách lạ, chàng nói:
- Thưa ngài, xin chúc mừng ngài đã bình yên tới thành phố chúng tôi. Xin được hân hạnh mời ngài tới dùng bữa và qua đêm tại nhà tôi để xua đuổi hết đi nỗi mệt nhọc trên đường.
Và để khách khỏi từ chối lời mờí thành thực của mình, chàng trình bày vắn tắt lệ luật tự đề ra về việc tiếp đãi khách lạ mỗi ngày.
Hoàng đế thấy cái gì đó hay hay và khác lạ trong sở thích của Abou Hassan nên nảy ra ý muốn tìm hiểu sâu xem sao. Không để lộ tư cách của mình, hoàng đế vui vẻ nhận lời và nói sẵn sàng đi theo chàng về nhà.
Abou Hassan không một chút nghi ngờ là người khách tình cờ của mình lại là hoàng đế nên đối xử như một người ngang hàng. Chàng dẫn khách về nhà mình và đưa khách vào một căn phòng rất sạch sẽ gọn gàng. Chàng mời khách ngồi trên Bập, chỗ long trọng nhất. Bữa ăn đã xong và bàn ăn đã dọn. Bà mẹ Abou Hassan rất thạo công vlệc bếp núc, bầy ra ba món, món đặt giữa bàn là món gà trống thiến hầm, với bốn gà dò, hai bên là các món khai vị, một bên là món ngỗng béo và bên kia là món bồ câu ra ràng. Không có gì hơn nữa nhưng các món thịt này đều là những thứ chọn lọc và chếbiến thơm ngon tụyệt vời.
Abou Hassan ngồi vào bàn đối diện với khách. Hoàng đế và chàng bắt đầu ăn những món mình ưa thích, không nói chuyện , không uống rượu, theo phong tục địa phương. Khi ăn xong, nô lệ của hoàng đế đưa khăn cho họ lau miệng lau tay trong lúc đó bà mẹ của Abou Hassan dọn bàn và mang thức tráng miệng gồm các loại quả đầu mùa như nho, đào, lê, táo và nhiều loại mứt khô. Tối đến, nến được thắp sáng và Abou Hassan bảo lấy rượu và ly uống bày ra đồng thời đặn mẹ cho người nô lệ của khách ăn uống tử tế.
Khi nhà thương gia Moussoul giả hiệu và Abou Hassan đã ngồi vào bàn, Abou Hassan trước lúc mời khách ăn trái cây liền cầm lấy chai rượu rót ra chén rồi giơ lên nói: ''Thưa ngài - Chàng nói với hoàng đế mà chàng vẫn cho là thương gia ở Moussoul - Chắc ngài cũng biết như tôi là một con gà trống chẳng bao giờ uống mà không gọi gà mái đến uống cùng, tôi xin mời ngài hãy theo gương tôi. Tôi không rõ ngài nghĩ ra sao chứ theo tôi thì một người đàn ông ghét rượu mà ìạl muốn cho mình là khôn ngoan thì chẳng bao glờ khôn ngoan cả. Chúng ta hãy gạt cái loại người đó với cái vẻ âu sầu buồn bã của họ sang một bên và hãy tìm cái vui cál thú. Nó ở ngay trong chén rượu đó và cái chén này truyền niềm vui cho những người uống cạn nó''.
Và Abou Hassan dốc cạn chén rượu. Chàng lại rót đầy chén khác và đưa cho khách.
- Điều này làm tôi thích thú - Hoàng đế nói và đón lấy chén rượu - Thế mới là nam nhi chứ. Tôi yêu thích cái phong thái vui vẻ của ngài.
- Ngài nếm đi, thưa ngài - Abou Hassan nói - Ngài sẽ thấy rượu rất ngon.
- Chắc chắn như thế rồi - Hoàng đế tươi cười nói - Một người như ngài đây không thể là một người ngu ngơ trỏng việc chọn lựa những thứ hảo hạng.
Trong khi hoàng đế đưa chén rượu lên nhâm nhi, Abou Hassan lại nói:
- Chỉ mới thoạt trông đã thấy ngài là một người lịch lãm và biết cách sống. Nếu ngôi nhà của tôi - Chàng đọc thơ bằng tiếng ẢrẬp - mà có hồn và cảm thấy sung sướng được thấy ngài dưới mái nhà thì ắt phải quì xuống trước ngài mà kêu lên: Ôi! Sung sướng biết bao, vinh quang biết bao được một con người rất mực vui từơi và rất mực nhân hậu như ngài chiếu cố dùng cơm trong nhà mình! Thưa ngài, đúng là tôi không sao nól lên được niềm vui lớn hôm nay được gặp một con người cao quí như ngài.
Những điều bộc bạch của Abou Hassan làm cho hoàng đế rất thú vị vì bản tính ông vơn cũng thích bông đùa, ông khuyến khích cho chàng uống bằng cách tự mình luôn luôn đòi chuốc rượu cho mình. Ông muốn nhờ vào rượu để khơi chuyện mong biết rõ thêm về chàng trai này. Để bắt đầu câu chuyện tâm tình, ông hỏi chàng tên gì, quan tâm tới cái gì nhất và cáeh sống của chàng như thế nào. Chàng đáp:
- Thưa ngài, tên tôi là Abou Hassan. cha tôi vốn là thương gia và ông đã mất. Chưa phải là một người giàu có nhất, nhưng cha tôi cũng là một trong số những người sống sung túc ở Bagdad. Khi qua đời, người đã để lại cho tôi thừa kế một gia sản quá đầy đủ để sống không cần có tham vọng gì nữa đối với thực trạng của mình. Vì cha tôi đối với tôi rất khe khắt nên suất một phần tuổi thanh xuân của tôi phải sống trong gò bó, vì vậy sau khi người mất, tôi muốn cố gắng bù đắp lại một phần nào cái thời tươi đẹp mà tôi cho là đã bị mất đi một cách oan uổng.
- Nhưng ít ra về điều đó - Abou Hassan nói tiếp – tôi đã xử sự một cách khác hẳn với thói thường của tất cả những người trẻ tuổi. Họ nhắm mắt lao vào cuộc sống phóng túng không cần suy ưnh và tự buông thả cho đến lúc khánh kiệt không còn một đồng tiền kẽm dính túi, buộc phải sống trong thiếu thốn, trong đói khổ suốt những ngày còn lạl của cuộc đời. Để' không phải rơi vào cảnh đó, tôi đã chia của cải của mình ra làm hai phần, một phần là ruộng đất, nhà cửa, phần kia là tiền mặt. Tôi dành phần tiền mặt cho những khoản chi tiêu theo ý muốn và cương quyết không đụng chạm tới phần lợi tức của bất động sản. Tôi tụ tập một đám đông người quen biết sàn sàn cùng lứa tuổi với mình và vung tiền ra không thương tiếc, tôi chiêu đãi họ hàng ngày thật l1nh đình, đến mức các của ngon vật lạ các hình thức chơi bời không thiếu một thứ gì. Nhưng chẳng được bao lâu, cuối năm, két tiền của tôi rỗng tuếch và đồng thời các bạn tôi cũng biến mất tăm. Tôi lần lượt đi tìm gặp họ, ,trình bậy với họ hoàn cảnh khốn đốn của mình, nhưng chẳng có một .aí:đoái hoài, chẳng có một ai có một lời an ủi. Thế là tôi tuyệt giao với chúng và hạn chế vlệc chi tiêu của mình trong phạm vi khoản lợi tức. Tôi cũng hạn chế trong vlệc giao tiếp, chỉ tiếp đãi người khách lạ đầu tiên mà tôi gặp mỗi ngày khi họ tới Bagdad với điều kiện là chỉ mời ăn uống một ngày hôm đó. Phần còn lại tôi đã trình bày với ngài rồi và tôi rất cảm ơn vận may đã cho tôi được gặp một người khách lạ cao quý như ngài ngày hôm nay.
Hoàng đế rất hài lòng đã biết rõ sự việc, bảo Abou Hassan:
Tôi thật không đủ lời lẽ để ca ngợi ph.ương cách thật tết mà ông đã hành động với sự thận trọng thật chu đáo khi lao vào cuộc sống phóng đãng truỵ lạc, không giống như kiểu thường có của tuổi thanh niên. Tôi còn mến phục ông là đã giữ trọn vẹn lời thề với bản thân như ông đã làm. Bước đường đi thường trơn rượt, tôi không ngớt khâm phục ông ở chỗ thấy tiền mặt hết sạch, ông đã kiềm chế được mà không tiêu tán nết khoản lợi tức và có khi cả vốn liếng ruộng vườn nhà cửa nữa. Để nói cho ông biết tôi đã nghĩ gì về việc này, tôi phải nói ông là đân chơi duy nhất có cách xử sự lạ lùng đó và chắc chẳng bao giờ có ai như thế. Cuối cùng cũng phải thú thực là tôi ganh tị với hạnh phúc của ông. Ông là một người sung sướng nhất trần gian, mỗi ngày được đánh bạn với một người trung thực, được cùng nhau chuyện trò thật tâm đắc, để rồi người đó loan truyền đi khắp mọi nơi sự tlếp đãi nồng hậu của ông. Nhưng mà... Cả ông và tôi, chúng ta đều không nhận thấy là chuyện trò lâu quá quên cả uống. Hãy uống đi ông bạn, và sau đó hãy rót đầy chén cho tôi nữa.
Hoàng đế và Abou Hassan tiếp tục cuộc rượu thật lâu và trao đổi nhlều điều thật lý thú.
Đêm đã về khuya và hoàng đế làm như rất mệt vì chặng đường đã đi bảo với Abou Hassan là mình cần được nghỉ ngơi. Và ông nói thêm:
- Tôi cũng không muốn vì lòng yêu tôi mà ông phải chịu thiệt thòi. Trước khi chúng ta chia tay (vì rất có thể là ngày mai tôi sẽ ra đi trước khi ông ngủ dậy), tôi xin thành thật nói vớl ông là tôi rất xúc động về lòng trung hậu, về thức ăn ngon và tính hiếu khách của ông đối với tôi thật là ân tình. Điều duy nhất làm tôi băn khoăn là biểu lộ sự biết ơn của mình ra sao đây. Xin ông hãy vui lòng cho biết tôi phải làm gì để khỏi mang tiếng là kẻ vô ơn. Chẳng lẽ một người như ông mà lại không có việc nào đó cần làm, một nhu cầu nào đó cần đáp ứng và tóm lại là không có một mong ước nào đó cần được thoả mãn hay sao. Hãy cởi mở và hãy thành thật bảo tôi đi. Dù chỉ là một thương gia nhưng không phải là tôi không có điều kiện để tự tôi hoặc qua các bạn bè giúp ông mọi việc.
Nghe những lời ân cần của hoàng đế mà Abou Hassan vẫn ngỡ là một thương gia, chàng nói:
- Thưa ngài, tôi tin không phải là chỉ vì muốn làm vui lòng tôi mà ngài có những gợi ý thật là hào hiệp. Nhưng xin thành thật thưa với ngài là tôi không hề buồn nản, chẳng có công việc gì mắc mớ, chẳng có ham muốn gì và cũng chẳng cần xin ai một thứ gì. Tôi không có một chút tham vọng nào như đã nói với ngài và tôi rất hài lòng với số phận của mình. Không những tôi phải cảm tạ về những đề xuất thật ưu ái của ngài mà còn phải cảm tạ cả nhã ý của ngài đã cho tôi vinh dự là đã tới đùng bữa cơm thanh đạm tại nhà tôi. Tuy nhiên cũng xin thưa với ngài – Abou Hassan nói tiếp - duy nhất có một điều làm tôi băn khoăn, nhưng cũng chẳng đến nỗi làm tôi mất ăn mất ngủ. Chắc ngài cũng đã rõ là thành phố Bagdad được chia ra làm nhiều khu phố, và ở mỗi khu phố có một thánh thất với một trưởng giáo. Vào giờ thường lệ trưởng giáo đứng đầu khu phố tập hợp đân chúng tới thánh thất để cầu nguyện. Trưởng giáo ở đây là một lão già to lớn, nét mặt khắc khổ và đạo đức giả nhất thế giới. Hội đồng của lão còn có bốn lão già khác toàn là láng giềng của tôi, loại người cũng gần giống như lão, hàng ngày tập hợp đều đặn tại nhà lão trưởng giáo. Và trong những cuộc họp kín đó, các lão không từ một sự đèm pha, một sự vu khống hoặc xỏ xiên nào mà không chĩa vào tôi và cả khu phố để chia rẽ và gây rối. Chúng hùng hổ với người này, doạ nạt người kia. Cuối cùng chúng muốn xưng hùng xưng bá, mỗi đứa xử sự theo tính khí thất thường của mình nhưng ngay chính chúng cũng còn không biết xử sự với chmh mình ra sao nữa. Thật tình mà nói, tôi đau buồn là thấy các lão thọc mũi vào tất cả, ngoài cuốn kinh Coran của họ và không để'cho thiên hạ sông yên ôn.
- Vậy là Hoàng đế nói - ý ông muốn tìm một cách nào đó để chặn đứng sự lộn xộn ấy chứ gì?
- Đúng như ngài đã nói đó - Abou Hassan nói – và điều duy nhất mà tôi cầu xin Thượng đế để làm việc đó là được làm hoàng đế chỉ một ngày thôi thay thế cho đấng Thống lĩnh các tín đồ Haroun Alraschid, đức vua và lãnh chúa của chúng ta.
- Ông sẽ làm gì nếu được như vậy? - Hoàng đế hỏi.
- Tôi sẽ làm một việc có ý nghĩa lớn, và việc này sẽ làm hài lòng tất cả những người trung thực. Tôi sẽ cho đánh một trăm gậy vào gan bàn chân mỗi người trong bơn lão già và bốn trăm gậy cho lão trưởng giáo để dạy cho họ chớ có gây rối và làm phiền lòng những người láng giềng của chúng.
Hoàng đế thấy ý nghĩ của Abou Hassan thật là ngộ nghĩnh và vì ông cũng vốn rất thích những chuyện phiêu lưu kỳ lạ nên bỗng nẩy ra ý muốn nhân đó bày ra một chuyện vui đùa thật độc đáo. Ông liền bảo chàng:
Điều mong ước của ông làm tôi rất thích nhất là nó lại phát xuất từ một tấm lòng ngay thẳng, không sao chịu được những hành động ma quái của bọn xấu mà không bị trừng trị. Tôi sẽ rất thích thú chờ xem hiệu quả và không phải là nó không có khả năng xảy ra như ông tưởng đâu. Tôi chắc chắn là hoàng đế sẽ vui lòng trao quyền lực vào tay ông trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ nếu Người biết rõ thiện ý và cách sử dụng quyền lực của ông như thế nào. Dù chỉ là một thương gia nước ngoài, tôi cũng muốn có cái gì đó để góp phần nhỏ mọn của mình vào việc này.
- Tôi thấy rõ - Abou Hassan nồi- là ngài muốn chế nhạo về sự tưởng tượng điên rồ của tôi và hoàng đế cũng giễu cợt tôi nếu Người biết ý tưởng hoang đường đó. Điều có thể xảy ra là Người sẽ tra hỏi về tư cách của lão trưởng giáo và những cố vấn của y rồi có hình thức trừng phạt mà thôi.
- Tôi chẳng chế nhạo ông đâu - Hoàng đế phản đối - Xin Thượng đế trừng phạt nếu tôi đã có ý nghĩ bậy bạ như thế đối với Người như ông đã đón tiếp tôi thật thân tình dù chưa từng quen biết. Và tôi có thể cả quyết với ông là hoàng đế sẽ cũng chẳng giễu cợt ông đâu. Nhưng thôi, ta hãy gác chuyện đó lại. Gần nửa đêm rồi, chúng ta đi ngủ thôi.
- Chúng ta chấm dứt câu chuyện tại đây – Abou Hassan nói - Tôi chẳng muốn làm trở ngại cho sự nghỉ ngơi của ngài. Nhưng, rượu trong chai hãy còn, chúng ta phải uống cạn chứ, sau đó thì đi ngủ. Điều đuy nhất tôi đề nghị là sáng mai, nếu ngài ra đi mà tôi chưa thức giấc thì xin đừng để cửa ngỏ mà khép lại giúp tôi.
Hoàng đế hứa là sẽ làm đúng như thế.
Trong khi Abou Hassan nói thế thì hoàng đế cầm lấy chai rượu và hai chiếc chén. Ông tự rót cho mình đầu tiên, cho Abou Hassan biết là ông uống để tạ ơn chàng. Uống xong, ông khéo lệo và nhanh nhẹn bỏ vào chén của Abou Hassan một nhúm bột mà ông có trong người và rót nốt rượu trong chai vào. Đưa chén rượu cho Abou Hassan, ông nói:
- Ông đã mất công rót rượu mời tôi suốt buổi, lần uống cuối cùng này, tôi phải mời ông là chuyện đương nhiên phải làm để đỡ vất vả cho ông. Xin ông hãy đỡ lấy chén rượu này từ tay tôi và uống cạn vì tình yêu của ông đối với tôi.
Abou Hassan đỡ lấy chén rượu và để tỏ ra với khách niềm vui và vinh dự được mời như vậy, chàng đưa chén rượu lên miệng và uống cạn một hơi. Nhưng chỉ vừa đặt chén xuống bàn thì cái thứ bột gì đó đã phát huy hiệu quả. Chàng thiếp đi ngay, đầu gục xuống một cách bất thần làm hoàng đế không khỏi mỉm cứời: Người nô lệ đi theọ ông bưôc vào sẵn sàng chờ lệnh. Hoàng đế bảo y:
- Vác người này lên vai, nhưng chú ý phải nhớ kỹ địa điểm nhà này để ngươi sẽ phải mang trả lại đúng chỗ khi ta có lệnh.
Hoàng đế, theo sau là người nô lệ vác Abou Hasạan trên vai, đi ra khỏi nhà nhưng vẫn để ngỏ cửa chứ không khép lại như Abou Hassan đề nghị. Ông cố tình làm như thế. Khi về tới hoàng cung, ông vào trong bằng một cái cửa bí mật, bắt tên nô lệ theo ông về tới tận ngự phòng ở đó tất cả các quan hầu đang túc trực. Vua phán:
- Hãy cởi quần áo người này ra và đặt nằm trên long sàng, ta sẽ cho mọi người biết ý định của ta sau:
Những viên quan hầu cởi bỏ quần áo của Abou Hassan ra, mặc áo quần ngủ của hoàng đế vào cho chàng và theo lệnh nhà vua đặt chàng nằm trên giường của Người. Trong hoàng cung chưa có ai ngủ, nhà vua cho gọi tất cả các quan hầu khác và các cung nữ. Khi tất cả đã tập hợp đông đủ trước mặt rồi, hoàng đế bảo:
- Ta muốn tất cả các ngươi đã quen có mặt vào lúc ta thức dậy chớ quên là sáng mai khi người nằm trên giường của ta mở mắt thì mỗi người sẽ làm công việc của mình như thường ngày hầu hạ ta vậy. Ta cũng muốn là mọi người đều phải cung kính tôn trọng người này cũng như đối với ta và phải tuyệt đối phục tùng mỗi khi người này ra lệnh. Không ai được từ chối điều gì khi người này đòi hỏi và không được làm trál bất cứ điều gì mà người này có thể nói ra hoặc muốn được có. Trong tất cả các trường hợp cần trình thưa hay đáp lại, không được quên là phải coi người này như đấng Thống lĩnh các tín đồ. Tóm lại một câu là không một ngườl nào được nghĩ đến ta trong suốt cả thời gian ở gần người này, phải coi như người này là ta tức là hoàng đế và là Thống lĩnh các tín đồ. Trên tất cả mọi thứ là tuyệt đối không được nhầm lẫn bất cứ trong trường hợp nào.
Những viên quan hầu cận và các cung nữ hiểu trước hết là hoàng đế muốn bày một trò vui, nên chỉ biết cúi đầu tuân lệnh và ngạy lúc đó mỗi người đều chuẩn bị đóng vai trò của mình cho thật đạt.
Quay trở lại hoàng cung, hoàng đế cho vời tể tướng đầu triều Giafar tới.
Hoàng đế bảo:
- Giafar, ta cho triệu nhà ngươi tới để báo cho ngươi biết chớ nên lấy làm ngạc nhiên về buổl thiết triều ngày mai. Con người hiện đang ngủ trên long sàng của ta, ngày mai sẽ ngồi lên ngai vàng với triều phục hoàng đế. Nhà ngươi hãy tiếp cận hắn với sự kính trọng như thường vẫn đối với ta và đối xử với hắn như đối với vị Thống lĩnh các tín đồ vậy. Hãy lắng nghe và thi hành ngay tức khắc tất cả những gì người ấy ra lệnh cũng như ta ra lệnh vậy. Người ấy sẽ không quên tỏ ra hào phóng và trao cho ngươi nhiệm vụ phân phát những đồng tiền thưởng. Hãy làm theo dù có phải đốc c_ạn tất cả những rương tiền của ta. Nhớ là báo cho tất cả các thượng thư, các pháp quan và tất cả những quan chức khác ở bên ngoài hoàng cung là ngày mai vào triều cũng phải tung hô chúc tụng nhứ đối với ta và phải chú ý giữ gìn không để người ấy nhận ra bất cứ một điều gì có thể làm gián đoạn cuộc vui mà'ta đã sắp đặt. Thôi, về đi, ta eũng chẳng còn gì phải đặn thêm nữa. Hãy cố gắng cho ta niềm vui mà ta đòi hỏi.
Sau khi tể tướng rút lui, hoàng đế đi sang một phòng khác và trước khi ngủ, ông lệnh cho Mesrour, tổng thái giám, những cái cần làm về phía ông ta để tất cả đều đạt được việc theo ông là để thừc hiện ước mơ của Abou Hassan và để xem anh ta sẽ sử đụng quyền lực của một hoàng đế như thế nào trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà anh ta yêu cầu. Và cuối cùng ông dặn đánh thức ông dậy như thường lệ trước khi đánh thức Abou Hassan vì ôũg muốn mình được chứng kiến sự việc điễn biến ra sao ngay từ lúc đầu.
Mesrour không quên đánh thức hoàng đế đúng giờ đã dặn. Khi hoàng đế vào tới phòng Abou Hassan đang ngủ, ông nấp trong một căn buồng nhỏ trên cao mà ở đó qua một cửa sổ ông có thể nhìn thấy tất cả những gì xảy ra trong phòng mà không sợ ai nhìn thấy mình. Tất cả các quan hầu và các cung nữ cần phải có mặt khi Abou Hassan thức dậy đều cùng vào ngự phòng một lúc và mỗi người đứng vào chỗ quen thuộc của mình tuỳ theo chức vụ và tuyệt đối im lặng làm như để chờ hoàng đế thức giấc và sẵn sàng làm nhiệm vụ của mỗi người đã được phân công.
Vì mặt trời đã bắt đầu nhô lên, đã đến lúc phải dậy để cầu nguyện, người quan hầu đứng gần phía đầu giường, đưa vào gần mũi Abou Hassan một miếng bông tẩm dấm.
Lập tức chàng hắt hơi và quay đầu về phía khác nhưng chưa mở mắt. Hiệu quả của chất bột hoàng đế bỏ vào chén rượu của chàng lúc này chấm đứt. Quay lại và d8ặt đầu trên gối, Abou Hassan mở mắt và dù trời mới tờ mờ sáng cũng nhận thấy là mình đang ở trong một căn phòng được trang trí thật lộng lẫy, trần nhà chạm trổ tinh vi, chung quanh có nhiều bình lớn bằng vàng ròng, những tấm màn che cửa và tấm thảm trải sàn bằng lụa thêu kim tuyến. Nhiều cung nữ quây quần, mỗi người cầm một nhạc cụ sẵn sàng hoà tấu. Các cô đều xinh đẹp tuyệt vời cùng với các thái giám da đen ăn mặc sang trọng cùng đứng yên một cách thật khiêm nhường. Đưa mắt nhìn chăn đệm trên giường, chàng thấy đó là một tấm gấm đỏ thêu kim tuyến, đát ngọc trai và kim cương. Gần bên. giường là một bộ quần áo cũng bằng cùng thứ vải và trang trí giống như thế và trên một chiếc gối là chiếc mũ mềm của hoàng đế.
Nhìn thấy những đồ rực rỡ huy hoàng đó, Abou Hassan kinh ngạc và hoang mang không sao tả xiết. Chàng nhìn tất cả những đồ vật như trong một giấc mộng, mộng rất thật đối với chàng mà chàng muốn cứ thế mãi. Chàng tự nhủ: ''Được, thế là ta đã là hoàng đế. Nhưng - Chàng nói thêm sau một lát nghĩ ngợi - không phải là ta nhầm chứ? Đúng là một giấc mộng, kết quả của lời mong ước mà ta vừa thổ lộ với ông khách''. Và chàng lại nhắm mắt như để ngủ tiếp.
Cũng lúc đó thì một hoạn nô tới gần
- Tâu đấng Thơng lĩnh các tín đồ - Y cung kính nói - Xin bệ hạ đừng ngủ lại nữa, đã đến lúc Người dậy để cầu nguyện, bình minh đã bắt đầu ló rạng rồi!
Những lời nói trên làm cho Abou Hassan vô cùng kinh ngạc, chàng lại tự hỏi: 'Ta thức hay ta ngủ đây? Nhưng đúng là ta đang ngủ - Chàng lại tự nhủ tiếp, mắt vẫn nhắm nghiền - Không còn nghi ngờ gì nữa''.
Một lát sau, viên thái giám thấy chàng không nói năng gì và chẳng tỏ ra vẻ gì muốn trở dậy cả, liền nói tiếp:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ, xin bệ hạ cho phép tôi nhắc lại là đã tới giờ Người trở dậy nếu không thì sẽ lỡ buổi cầu kinh sáng mà Người chưa bao giờ quên.
Ta đã nhầm - Abou Hassan bật nói - Ta không ngủ mà ta đang thức. Những người ngủ thì chẳng nghe thấy gì còn ta lại nghe rõ có người đang nói với ta.
Chàng lại mở mắt và vì trời đã sáng hẳn, chàng nhìn thấy rõ rệt tất cả những đồ vật mà lúc nãy chỉ trông thấy lờ mờ. Chàng ngồi lên vui vẻ như một người tràn ngập niềm vui khi thấy mình đang ở trong một trạng thái, có một địa vị cao sang hơn rất nhiều so với điều kiện thực của mình. Còn hoàng đế đang bí mật quan sát thì vô cùng thích thú đọc được ý nghĩ của chàng.
Vừa lúc đó, các cung tần mỹ nữ của hoàng cung quỳ dậy xuống trước Abou Hassan và những người đang có nhạc cụ trong tay hoà tấn một bản nhạc đu dương thay cho lời chào gửi tớl chàng. Abòu Hassan đắm say mê mẩn đến mức không hiểu được là lúc này mình đang ở đâu và mình có còn phải là mình nữa không. Tuy nhiên ý nghĩ lúc đầu trở về trong trí và chàng hãy còn nghi ngờ tất cả những gì trông thấy, nghe thấy thực sự là có thật hay chỉ là trong một giấc mơ. Chàng giơ hai bàn tay lên trước mặt và cúi đầu suy nghĩ: ''Tất cả cái này là gì vậy - Chàng tự nhủ - Ta đang ở đâu? Lâu đài này là của ai? Những thái giám, những viên quan hầu cận ăn mặc chỉnh tề, phong thái trịnh trọng này là thế nào? Những cô nương xinh đẹp và những nữ nhạc công làm ta mê đắm này là ai? Có thể thế được không? Ta không sao phân biệt được là đang trong giấc mộng hay đúng là hiện thực?''. Chàng bỏ hai tay trước mặt xuống, mở mắt ra, ngửng đầu lên và nhìn thấy ánh sáng ban ngày đã chiếu qua cửa sổ lọt vào trong phòng chàng đang ngồi.
Trọng lúc này thì Mesrour, tổng thái giám đi vào quỳ, cúi đầu thấp trước Abou Hassan và nói với chàng khi đứng lên:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ, xin bệ hạ cho phép tôi được thưa là Người thường không có thói quen là dậy quá muộn và đã để cho thời gian cầu nguyện trơi qua. Nếu chẳng phải là vì đã có một đêm mất ngủ và thánh thể bất an thì xin Người hãy đi tới phòng thiết triều, ngồi lên ngai vàng để quần thần được chiêm ngưỡng như mọi khi. Những tướng lĩnh, những thủ hiến các tỉnh thành, và các quan đại thần khác trong triều đình chỉ còn chờ cánh cửa của cung thiết triều mở ra thôi.
Nghe lời tâu trình của Mesrour, Abou Hassan vững tin là chàng không ngủ mê và tất cả quang cảnh này chẳng phải là trong giấc mộng. Chàng chắng khỏi lúng túng và hoang mang không biết phải làm gì đây. Cuối cùng chàng nhìn thẳng vào mặt Mesrour và nghiêm trang hỏi:
- Ông đang nói với ai vậỳ, và ai là người mà ông gọi là đấng Thống lĩnh các tín đồ, tôi chưa từng biết ông là ai. Có thể là ông đã nhầm tôi với một người khác đấy.
Nếu không phải là Mesrour đã được hoàng đế cho biết trước rồi thì sẽ lúng túng trước câu hẻi của Abou Hassan. Viên tổng thái giám đóng rất tất vai trò của mình, y kêu lên:
- Thưa lãnh chúa chủ nhân tôn kính, bệ hạ nói như vậy với tôi hôm nay để thử thách tôi chăng? Bệ hạ há chẳng phải là đấng Thống lĩnh các tín đồ, chúa tể của thế giới từ đông sang tây, người đại diện cho đấng tlên tri, sứ giả của Thượng đế dưới cõi trần cũng như trên thiên đường đó ư? Mesrour, kẻ nô lệ hèn mọn này làm sao mà quên được Người sau bao năm đã có hạnh phúc và vinh dự được hầu hạ Người. Nó sẽ là đứa khổ sở nhất trong tất cả mọi người nếu nó bị bệ hạ thất sủng. Vì vậy nó cầu xin bệ hạ rủ lòng thương mà làm cho nó yên tâm: nó muốn tin là một cơn ác mộng trong đêm đã làm cho Người không được yên giấc.
Nghe Mesrour kể lể, Abou Hassan cười rộ lên, người ngả ra giường làm cho hoàng đế rất vui muốn cũng cười to như thế nếu không sợ là cuộc vui mới bắt đầu đã phải chấm dứt.
Abou Hassan, nằm cười rất lâu rồi nhổm dậy bảo một tên hoạn nô nhỏ da cũng đen như Mesrour:
- Này, nghe đây, hãy nói đi ta là ai?
- Dạ muôn tâu - Hoạn nô nhỏ cung kmh đáp - Bệ hạ là đấng Thống lĩnh các tín đồ và là người đạl diện cho cả trần gian và thượng giới.
- Mày là một thằng bé nói dối, đồ-"mặt đen như trôn chảo! - Abou Hassan tức giận bảo.
Chàng lại gọi một trong các cung nữ đứng gần:
- Hãy lại gần đây, người đẹp - Abou Hassan nói và giơ bàn tay ra - Này, hãy cắn vào đầu ngón tay tôi để xem là tôi đang ngủ hay là đang thức.
Cô gái, biết là hoàng đế đang chú ý nhìn tất cả những gì đang xảy ra trong phòng, rất hài lòng để tỏ ra vai trò mình đóng cũng không phải dở. Thế là nàng rón rén đến gần Abou Hassan, nhẹ nhàng nắm lấy một ngón tay mà chàng giơ ra, đưa tay lên miệng cắn nhẹ làm cho chàng cảm thấy hơi đau.
Giật nhanh bàn tay lại, Abou Hassan lẩm bẩm:
- Đúng là ta không ngủ mơ. Có phép lạ gì đây mà chỉ trong lnột đêm ta lại trở thành hoàng đế “Đây quả là một việc kỳ diệu và lạ lùng nhất thế gian.
Và quay lại bảo người cung nữ vừa cắn ngón tay mình:
- Xin đừng giấu tôi sự thật, xin có Thượng đế chứng giám mà nàng cũng như tôi đều tôn sùng Người, có phải tôi đúng là Thống lĩnh các tín đồ không?
- Đúng như vậy - Người cung nữ đáp - Đúng bệ hạ là đấng Thống lĩnh các tín đồ mà chúng tồi là bầy tôi của Người, tất cả những nô lệ chúng tôi đều ngạc nhiên thấy Người không tin mình là hoàng đế.
- Nàng là kẻ nói láo - Abou Hassan nói - Tôi biết rõ mình là ai chứ.
Thấy Abou Hassan muốn đứng lên, người chỉ huy các hoạn nô giơ tay ra giúp chàng bước xuống giường. Chàng vừa đứng lên, cả căn phòng vang lên tlếng chào mừng của tất cả các quan hầu và cung tần mỹ nữ: Cầu xin Thượng đế ban cho đấng Thống lĩnh các tín đồ một ngày tất đẹp.
- Ôi! Trời đất? Thật kỳ diệu làm sao! - Abou Hassan kêu lên - Chiều hôm qua ta là Ábou Hassan và sáng nay ta đã là Thống lĩnh các tín đồ! Ta không sao mà hiểu được vì đâu lại có sự đổi thay nhanh chóng và lạ kỳ như vậy.
Các quan hầu chuyên lo việc trang phục đã mau chóng mặc triều phục cho chàng và khi làm xong thì cùng với các quan hầu khác, các hoạn nô và cung tần mỹ nữ đứng thành hai hàng kéo dài ra tận cửa thông sang cung thiết triều. Mesrour đi trưôc dẫn đường, Abou Hassan theo sau. Một viên quan vén rèm, mở cửa, Mesrour b.ước vào và vẫn đi trước đến tận chân ngai vàng thì đứng lại đỡ cho Abou Hassan bước lên ngai có sự giúp của một vị quan khác, mỗi người xốc một bên nách chàng.
- Abou Hassan ngồi xuống ngai trong tiếng hoan hô của các quan chức triều thần. Họ chúc chàng tất cả những lời tốt đẹp: hạnh phúc và thịnh vượng. Chàng quay nhìn sang phải, sang trái, thấy các quan và thị vệ đứng thành hàng trật tự và trang nghiêm.
Hoàng đế lúc đó rời khỏi căn buồng ông nấp trong khi Abou Hassan đã vào cung điện. Ông chuyển đến một căn buồng khác cùng có cửa sổ hướng sang cung thiết triều, ở đây có thể nhìn và nghe thấy tất cả những gì xảy ra trong đó điều đầu tiên làm hoàng đế hài lòng là thấy Abou Hassan thay mình ngồi trên ngai cũng chững chạc bệ vệ chẳng kém gì chính ông.
Sau lúc Abou Hassan đã yên vị, tể tướng Giafar vừa tới, quì xuống trước chàng bên cạnh ngai rồi đứng lên nói vớl chàng:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ, cầu mong Thượng đế ban phúc dồi đào eho bệ hạ trên cõi đời này, nhận Người lên thiên đường ở cõi đời bên kia, và đầy xuống hoả ngục tất cả những kẻ thù của Người.
Sau tất cả những gì xảy ra từ lúc thức dậy và những lời vừa được nghe qua miệng tể tướng, Abou Hassan không còn nghi ngờ gì nữa mình đúng là hoàng đế như đã mong ước Vì vậy, chẳng cần phải xem xét vì sao hoặc có gì xảy ra để có sự đổi thay số phận bất ngờ như vậy, lập tức chàng đi vào việc sử dụng quyền lực của một hoàng đế. Vì vậy, chàng nghiêm nghị nhìn tể tướng và hỏi ông có vấn đề gì tấu trình hay không.
- Tâu đấng Thống lĩnh các tln đồ - Tể tướng thưa - Lúc này các đại thần, thượng thư và các quan chức khác trong triều đều còn đang đứng ngoài cửa, chỉ còn chờ lệnh bệ hạ cho vào để được dâng lên Người lời chúc mừng kính trọng thường lệ.
Abou Hassan tức thì bảo cho ra mở cửa. Tể tướng quay lại bảo người thị vệ trưởng đang chờ lệnh:
- Thị vệ trưởng? Đa61ng Thống lĩnh các tín đồ lệnh cho nhà ngươi làm nhiệm vụ của mình.
Cửa mở, cùng một lúc các thượng thư, các đại thần và các quan chức chủ chốt của triều đình, tất cả đều mang triều phục lộng lẫy, trật tự bước vào, tiến tới tận chân ngai, kính trọng cúi chào Abou Hassan, mỗi người đi theo hàng của mình, gối quì xuống đất, trán chạm thảm sàn, y như đối với hoàng đế và kêu chàng là Thống lĩnh các tín đồ như lời đại tể tướng đã căn dặn. Rồi lần lượt mỗi người về chỗ của mình sau khi đã làm tròn bo63n phận.
Nghi lễ kết thúc, tất cả mọi người ai về chỗ na2y, im lặng hoàn toàn trong điện.
Tể tướng vẫn đứng trước ngai, bắt đầu tâu trình mọi việc lần lượt theo xấp giấy cầm tay. Những sự vụ thực ra thì bình thường không có gì quan trọng. Nhưng Abou Hassan chẳng khỏi làm cho tất cả phải thán phục kể cả hoàng đế. Đúng vậy, chàng không chút tỏ vẻ lạ lẫm cũng không bối rối vì bất cứ sự vụ nào. Chàng cho lời phán xét thật chính xác về tất cả mọi việc dựa theo linh khiếu của mình, hoặc chuẩn y hoặc bác bỏ những gì dân cầu xin.
Trước khi tể tướng chấm dứt bản tấu trình, Abou Hassan chợt nhìn thấy viên quan tư pháp, mà chàng biết mặt, đang ngồi trong hàng quan của mình, chàng giơ tay bảo tể tướng:
- Hãy chờ một chút, ta có mệnh lệnh gấp cho viên pháp quan.
Viên quan này vẫn chăm chú nhìn Abou Hassan từ đầu, nhận thấy là chàng nhìn mình một cách đặc biệt, lại nghe nói đến mình, vội vàng đứng lên, tiến lại ngai vàng quỳ xuống, mặt chạm đất.
- Này pháp quan - Abou Hassan bảo sau khi y đứng lên - Ông hãy cho lính tới ngay phố này thuộc khu này... Ở đó có một thánh thất trong đó có một trưởng giáo và bốn lão già tóc bạc. Hãy tóm bắt luôn cả bọn và đánh cho bốn lão già mỗi lão một trăm roi gân bò, đánh cho lão trưởng giáo bốn trăm roi. Sau đó, ông cho đặt chúng lên lưng năm con lạc đà, mặt ngoảnh về phía đuôi con vật, trên người mặc quần áo rách rưới. Ông cho cả đoàn này đi diễu khắp các khu phố trong thành, đi đầu là một ngườl mõ kêu to lên: ''Đây là hình phạt cho những kẻ hay xía vào những việc không liên quan gì tới mlnh mà chỉ để quấy rối, gây chia rẽ trong gia đình những người xung quanh và gây cho họ nhiều điều khổ sở''. Ta còn muốn là chúng phải chuyển chỗ ở sang khu phố khác và không được bén mảng về khu phố cũ nữa. Trong khi người phó của ông cho chúng đi diễu phố như ta vừa nói thì ông trở lại đây trình tâu rõ mệnh lệnh của ta đã được thi hành ra sao.
Viên pháp quan đặt bàn tay lên đầu để tỏ là mình sẽ thi hành mệnh lệnh vừa nhận được, nếu không làm tròn thì xin nộp cái đầu mình. Quì xuống trước ngai lần thứ hai và sau khi đứng lên y đi ngay.
Mệnh lệnh được phát ra đầy cứng rắn làm hoàng đế thích thú và thấy đúng là Abou Hassan đã không bỏ lỡ cơ hội để trừng phạt lão trưởng giáo và bốn lão già như đã nói với hoàng đế nếu được một ngày thay ông làm vua.
Tướng tiếp tục đọc bản tấu trình và khi sắp sửa kết thúc thì viên pháp quan trở về, bệ kiến để trlnh bày sứ mệnh đã được thực hiện. Đến gần ngai vàng, quì xuống theo lễ tục rồi ông thưa khi đứng lên:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ, tôi đã thấy lão trưởng giáo và bốn lão già tại thánh thất mà bệ hạ đã chỉ, đây là tờ lục biên có chữ ký của những nhân chứng là các vị chức sắc của khu phố.
Cùng lúc y lôi từ ngực áo ra một tờ giấy và đưa cho Abou Hassan.
Abou Hassan cầm lấy đọc toàn bộ tờ lục biên đến tận các chữ ký của những nhân chứng mà chàng cũng đã quen biết. Xong, chàng cười bảo viên pháp quán:
- Tốt lắm, ta hài lòng về vlệc làm của ông, mờì ông về chỗ.
Rồi chàng hể hả tự nhủ: ''Những con chlên ghẻ nảy cứ muốn dòm ngó vào việc làm của ta, cho việc ta đón tiếp và thết đãi tại nhà những người lương thiện là xấu, chúng đáng phải chịu trừng phạt như thế''.
Hoàng đế, quan sát biết được ý nghĩ của chàng, cũng rất vui thấy chàng xử lý công việc thật hợp lý hợp tình.
Abou Hassan sau đó bảo tể tướng
- Hãy bảo tổng quản ngân khố đưa cho ông một nghìn đồng tiền vàng, tới khu phố mà ta đã phái viên pháp quan đi vừa rồi, mang đến cho bà mẹ một người có tên là Abou Hassan tục danh là Phóng-đãng. Đó là một người mà cả khu phố biết đến dưới cái tên đó. Không có ai là không chỉ nhà người ấy cho ông đâu. Đi đi và mau chóng về ngay.
Tể tướng đặt bàn tay lên đầu tỏ ý tuân lệnh và sau khi quì gối xuống trước ngai, ông đi đến chỗ tổng quản ngân khố, llnh túi tiền, đưa cho một tên nô lệ mang đi theo ông và đưa tặng cho bà mẹ Abou Hassan. Tể tướng vào gặp bà nói là hoàng đế đưa tặng và chẳng nói gì hơn. Bà nhận mà hết sức ngạc nhiên có điều gì mà hoàng đế lại tặng bà một món quà hậu hĩ như vậy và bà cũng không biết một tí gì xảy ra trong hoàng cung.
Trong khi tể tướng không có đấy, viên pháp quan tâu trình nhiều vụ việc liên quan tớl nghiệp vụ tư pháp của mình. Cuộc tấu trình kéo dài mãi tới lúc tể tướng trở về. Tể tướng cũng tâu lại sứ mệnh được trao đã hoàn thành rồi đến lượt Mesrour, tổng thái giám ra hiệu cho các thượng thư, các đại thần và tất cả các quan chức là buổi chầu đã kết thúc mọi người có thể ra về. Các triều thần trước khi đi ra đều cúi đầu lần lượt quỳ lạy trước ngai vàng cũng trật tự như khi vào triều vậy. Chỉ còn lại trong cung cạnh Abou Hassan những quan hầu của hoàng đế và tể tướng.
Abou Hassan không ngồi quá lâu trên ngai vàng hoàng đế. Chàng bước xuống cũng như khi bước lên tức là được Mesrour và một quan hầu khác đỡ hai bên và đưa tới ngự phòng, nơi chàng ở đấy đi ra. Chàng bước vào theo tể tướng đang đi trước dẫn đường. Nhưng mới đi được mấy bước, chàng tỏ ý muốn đi đại tiện. Ngay tức thì chàng được đưa tới một căn phòng nhỏ thật sạch sẽ, sản lát đá cẩm thạch, khác với phòng chàng ngủ và các phòng khác đều trải thảm rất đắt tiền. Người ta đưa cho chàng một đôi giày lụa thêu kim tuyến thường vẫn sỏ vào chân trước khi vào phòng vệ sinh. Chàng cầm lấy và vì không quen dùng nên đút luôn vào tay áo rộng.
Thường thường người ta hay bật cười trước những sự việc nhỏ nhặt như thế, nên cả tể tướng, Mesrour và tất cả các quan hầu trong cung điện, đứng gần đó đều muốn cười phá lên, nhưng lại sợ làm hỏng cả cuộc vui hoàng đế đã bày đặt nên phải cố gắng nín nhịn, và tể tướng cuối cùng phải giảng giải cho chàng biết cần phải đi đôi giày đó vào chân khi bước vào nhà vệ sinh.
Trong lúc Abou Hassan ở trong đó thì tể tướng đi gặp hoàng đế, lúc ấy đã chuyển ra chỗ khác để tiếp tục bí mật quan sát Abou Hassan, kể với hoàng đế chuyện vừa xảy ra và Người lại thấy thêm một đlều thích thú nữa.
Abou Hassan ra khỏi phòng vệ sinh, Mesrour đi trước dẫn chàng vào căn phòng phía trong, ở đó đã bầy sẵn cỗ tiệc Cửa phòng mở rộng, rất nhiều hoạn nô đi lại bảo nhau báo cho các nhạc công là hoàng đế giả sắp tới. Thế là nhã nhạc nổi lên một khúc điệu du đương, âm thanh quyến rũ khiến Abou Hassan mê man sảng khoái chỉ còn biết nghĩ tới những gì trông thấy và nghe thấy thôi.
Chàng tự nhủ thầm: ''Nếu đây là một giấc mộng thì quả là giấc mộng dài. Nhưng đâu phải là một giấc mộng - Chàng tiếp
Chương 34: Người 2 lần tỉnh mộng (Tiếp)
Abou Hassan đáng lẽ phải dịu đi và xúc động vì những giọt nước mắt của mẹ thì ngược lại không tự chủ được đi đến chỗ quên cả sự kính trọng tự nhiên đối với người đã cho mình sự sống. Chàng đột ngột đứng lên, vớ lấy một cây gậy đuổi theo bà như một thằng khùng điên, tay giơ cao, thét to:
- Mụ già đáng nguyền rủa kia? - Tiếng thét của chàng làm cho bất kỳ ai cũng phải kinh hoàng nếu đó không phải là một bà mẹ đầy yêu thương đối với con trai mình – Hãy nói mau ta là ai?
- Con của mẹ - Bà mẹ nhìn chàng âu yếm, không tỏ ra chút nào sợ hãi - Mẹ không tin là Thượng đế bỏ rơi con đến nỗi con không nhận ra chính con nữa. Mẹ không nói sai khi bảo Abou Hassan là con trai của mẹ và con đã sal lầm rất lớn khi khoác vào cho mình một danh hiệu chỉ thuộc về hoàng đế Haroun Alraschid, đức vua của con và cả của mẹ khi mà vị quốc vương này đã bàn cho chúng ta, mẹ và con biết bao là của cải bằng tặng phẩm gửi cho hôm qua. Tóm lại con phải biết là đại tể tướng Giafar đã thân chinh tới tìm mẹ, đặt vào tay mẹ một túi tiền có tới một nghìn đồng sequin vàng. Ông ấy bảo mẹ cầu Thượng đế phù hộ cho đấng Thống lĩnh các tín đồ, Người đã tặng quà cho mẹ. Và cái khoản tiền của này nhằm vào con là chính chứ mẹ thì còn sống được bao năm nữa đâu.
Nghe đến đây, Abou Hassan thấy không còn phải băn khoăn gì nữa. Những tình huống của sự ban thưởng rộng rãi của hoàng đế mà mẹ chàng vừa nói cho thấy là chàng không nhầm và chắc chắn hơn bao giờ hết chính mình là hoàng đế vì viên tể tướng mang túi tiền đến cho mẹ là theo lệnh của chàng.
- Nào, nào! Mụ già phù thuỷ kia- Chàng quát - Mụ đã chịu tin chưa khi ta bảo là chính ta đã gửi cho mụ khoản một nghìn đồng tiền vàng đó qua đại tể tướng Giafar của ta, người chỉ biết thi hành lệnh ta với danh nghĩa Thống lĩnh các tín đồ? Thế mà đáng lẽ phải tin ta thì mụ lại chỉ tìm cách làm cho ta loạn trí bằng những lời phản kháng của mụ, cứ khăng khăng nhận ta là con trai mụ. Nhưng ta sẽ chẳng để cho mụ nói năng bậy bạ mãi thế mà không trừng trị.
Nói xong, trong cơn điên giận, chàng như một kẻ mất hết nhân tính, sẵn gậy trong tay hắn đập túi bụi vào bà mẹ.
Người mẹ đáng thương không ngờ là đứa con chuyển nhanh đột ngột từ doạ dẫm sang hành động hung bạo như thế bèn dùng hết sức cất tiếng kêu cứu vang, lên cho đến lúc những hàng xóm, láng giềng chạy đến. Abou Hassan không ngừng tay, và mỗi đòn giáng xuống hắn lại hỏi:
- Có phải ta là đấng Thống lĩnh các tín đồ không?
Bà mẹ vẫn một mực trìu mến đáp:
- Con là con trai của mẹ.
Abou Hassan bắt đầu khoan tay một chút khi những người láng giềng xông vào phòng hắn. Người đến đầu tiên nhảy ngay vào giữa bà mẹ và hắn và sau khi giật lấy cây gậy trong tay đứa con bất hiếu này, bảo chàng:
- Anh làm gì vậy, Abou Hassan? Anh có còn sợ Thượng đế và lẽ phải nữa không? Có bao giờ một đứa con có giáo dục như anh mà lại dám giơ tay lên đánh mẹ mình? Anh có thấy xấu hổ khi ngược đãi mẹ mình như thế này không, mà bà thì luôn luôn giữ trọn một tấm tình mẫu tử Abou Hassan hãy còn đầy giận dữ, nhìn người vừa nói chẳng hé răng nửa lời và liếc đôi mắt như lạc thần trí nhìn tất cả mọi người đã vào đầy trong phòng, hỏi họ:
Abou Hassan mà các người nói là ai vậy? Có phải là tôi mà các người gọi bằng cái tên đó không?
Câu hỏi làm cho các người láng glềng ngẩn người ra một phút. Rồi người vừa nói với chàng hỏi:
- Sao? Thế ra anh chưa từng biết bà này ư? Chính là người đã nuôi dạy anh và chúng tôi luôn thấy anh sống với bà, tóm lại là với mẹ anh?
- Các người là những tên láo xược - Abou Hassan lớn tiếng cãi - Ta không biết mụ ấy là ai, cả nhà ngươi nữa và ta không muốn quen biết các người. Ta không phải là Abou Hassan, ta là đấng Thống lĩnh các tín đồ. Nếu các người không biết điều đó, thì ta sẽ cho các người biết, lúc đó thì đừng trách ta.
Nghe Abou Hassan nói vậy, những người láng giềng không còn nghi ngờ gì nữa, chàng ta đã bị loạn trí nặng rồi và để ngăn không cho chàng hành động như vừa rồi với chính mẹ mình nữa nên cả bọn hè vào tóm chặt lấy, trói cả chân lẫn tay lại chàng mặc cho chàng giẫy giụa. Và thấy là chẳng nên để chàng ta ở lại một mình với bà mẹ, họ cho người nhanh chóng đến báo với người gác cổng của bệnh viện tâm thần chuyện đã xảy ra. Người này liền cùng họ tới ngay nhà Abou Hassan, một đám đông hàng xóm cũng đi theo. Họ mang đi nào là dây xích, còng tay và cả một roi gân bò nữa.
Thấy họ đến, Abou Hassan không ngờ là xảy ra chuyện khủng khiếp như vậy nên cố sức giẫy giụa chống lại nhưng bị người của bệnh viên thần kinh vụt roi gân bò tới tấp nên đành chịu để cho bọn họ khoá tay, trói chân và khênh vào bệnh viện.
Chàng bị nhất vào một cái cũi sắt và mỗi ngày trong suốt ba tuần lễ, bị quất năm chục roi gân bò vào lưng, vào vai cùng với câu: “Hãy mau tĩnh trí lại và nói cho chúng ta biết mày có còn là đấng Thống lĩnh các tín đồ nữa không?''.
Mỗi lần như thế, Abou Hassan lại đáp:
- Ta không cần lời khuyên của mày. Ta không điên. Nếu ta có hoá điên thì cũng chỉ vì những trận đòn đánh dã man của mày thôi.
Tuy nhiên bà mẹ của Abou Hassan vẫn đều đặn đến thăm con hàng ngày. Bà không sao cầm được nước mắt thấy mỗi ngày chàng lại gầy yếu đi trông thấy và nghe chàng thở đài than vãn về nỗi đau đớn của annh. Quả vậy, vai chàng, lưng chàng bầm tím những vết roi, nằm không biết trở mình về phía nào cho đỡ đau. Làn da của chàng đã hơn một lần tróc ra trong suất thời gian bị đày ải ở cái nơi khủng khiếp này. Mẹ chàng nhiều lần muốn an ủi và thăm dò xem đầu óc chàng còn bị ám ảnh bởi cái danh nghĩa Thống lĩnh các tín đồ nữa hay không nhưng cứ mỗì khi mở miệng thì chàng lại nổi cơn điên khùng nên đành chịu quay về với bao buồn tủi trước sự cứng đầu cứng cổ của chàng. Những ý nghĩ rất mạnh, gây ấn tượng sâu sắc trong đầu óc Abou Hassan là: trong triều phục hoàng đế, sử lý có hiệu quả các sự vụ, sử dụng uy quyền đầy hiệu lực được mọi người tuân phục coi như một hoàng đế thực sự, được củng cố rõ, ràng khi thức giấc và làm cho chàng đắm mình mãi vào sự sai lầm đó. Những ý nghĩ trên đây bắt đầu từ từ nhạt dần trong đầu óc chàng. Đôi khi chàng tự nhủ:
Nếu ta là hoàng đế và là Thống lĩnh các tín đồ thì vì sao lúc 'thức giấc tại nhà mình, ta lại mặc quần áo thường? Vì sao ta lại không nhìn thấy nào là tổng thái giám và bao nhiêu hoạn nô, nào là một đám rất đông các cung nữ xinh đẹp xúm quanh lấy ta? Vì sao ta lại không thấy đại tể tướng Giafar quì dưới chân ta? Rồi biết bao nhiêu các đại thần, thủ hiến của tỉnh và vô số các quan hầu khác không thấy bao quanh ta. Họ bỏ rơi ta rồi chăng? Thấy ta trong cái hoàn cảnh khốn khổ này đã bấy lâu ắt là họ phải ra tay gải thoát ta mới phải chứ, nếu ta còn có chút nào uy lực đối với họ. Thôi, đúng tất cả những cái đó chỉ là trong một giấc mộng mà thôi, chẳng phải khó khăn gì mà không tin như vậy. Ta đã ra lệnh, đúng thế cho viên pháp quan trừng trị lão trưởng gláo và bốn lão già trong hội đồng của hắn. Ta lại cũng ra lệnh cho đại tể tướng Giafar đem về cho mẹ ta một nghìn đồng tiền vàng và tất cả lệnh của ta đều được nghiêm chỉnh thi hành. Điều này làm ta bối rốl chẳng còn hiểu ra sao nữa. .Nhưng rồi còn biết bao nhiêu chuyện gì khác xảy ra nữa đây mà ta không sao hiểu được và sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi. Vậy thì đành phó mặc vào đôi tay của Thượng đế, Người hiểu và biết tất cả mọi sự.
Abou Hassan còn đang trầm ngâm với những suy nghĩ như trên thì bà mẹ tới. Bà nhìn thấy chàng suy nhược và tiều tuỵ chẳng còn ra hồn người nữa nên khóc oà lên, thương cảm gấp bội từ trước tới nay. Glữa những tiếng nức nở nghẹn ngào bà thăm hỏi con như thường lệ, và Abou Hassan đã ôn tồn đáp lại khác hẳn với thói quen từ khi chàng bị nhất ở nhà thương này. Bà cho đó là một dấu hiệu tốt nên gạt nước mắt hỏi chàng:
- Con thấy sức khoẻ của mình ra sao hả con? Đầu óc con thế nào rồi? Con đã gạt bỏ đi tất cả những điều ngông ngạo vớ vẩn mà ma quỉ đã nhồi nhét vào đầu óc con chưa?
Abou Hassan điềm tĩnh và lộ vẻ đau buồn hối hận đáp:
Mẹ ơi? Con đã thấy sự lầm lạc của mình. Xin mẹ tha cho con cái tội bất hiếu đối với mẹ. Con cũng xin mẹ giúp con nói lại với những nhà hàng xóm lời xin lỗi của con đã xử sự rất đáng chê trách đối với họ. Con đã bị một giấc mơ ám ảnh nhưng đó là một giấc mơ ky lạ, giống như in với thực tế đến mức con có thể khẳng định là bất cứ ai bị như con cũng sẽ rơi vào tình trạng hành động điên rồ như con thôi. Con hãy còn hoang mang ngay trong lúc này, lúc con đang nói với mẹ đây và con thấy khó mà dám chắc là những gì xảy ra với con không phải là thật vì nó giống vô cùng với những gì xảy ra giữa những người đang thức vậy.
Dù sao thì con cũng coi và luôn chắc chắn coi như đó là một giấc mơ, một ảo ảnh. Con cũng tự xác định mình chẳng phải là cái bóng ma hoàng đế và Thống lĩnh các tín đồ nhưng là Abou Hassan, con trai của mẹ. Con bao giờ cũng kính yêu mẹ, và sẽ còn kính yếu mẹ đến trọn đời con. Mỗi khi nhớ lại cái ngày định mệnh đó, con thấy vô cùng xấu hổ
Nghe những lời lẽ khôn ngoan và đầy đạo lý đó, những giọt nước mắt đau thương, buồn tủi của bà mẹ Abou Hassan đã đổ ra từ bao lâu nay lúc này biến thành những giọt nước mắt mừng vui, được an ủi và yêu thương về người con trai mà bà như thấy lại. Bà kêu lên tràn ngập hân hoan:
Ôi, con của mẹ! Mẹ thật hả lòng hả dạ được nghe những lời con vừa nói sau biết bao sự việc đau lòng xảy ra. Mẹ thấy như vừa được sinh con ra lần thứ hai vậy. Mẹ cần phải nóỉ cho con biết mẹ đã nghĩ gì về hành động của con và mẹ nói cho con biết một việc mà có thể con không để ý. Người khách lạ mà con mời về nhà ăn uống buổi tối hôm đó, khi ra về đã không đóng cửa buồng như cơn đã dặn. Mẹ cho là vì thế mà đã tạo điều kiện cho ma quỉ lọt vào và làm cho con u mê lú lẫn như vậy. Vì thế, con ơi, chúng ta cần phải cảm tạ Thượng đế đã ra tay giải thoát cho con, và cầu xin Người phù hộ cho từ nay đừng rơi vào cạm bẫy của quỉ dữ nữa.
- Mẹ ơi, mẹ đã tìm ra nguyên nhân căn bệnh của con - Abou Hassan nói - Đúng là đêm hôm đó con đã bị giấc mơ làm đảo lộn cả đầu óc. Thế mà con đã dặn đi dặn lại nhà thương gia phải đóng chặt cửa lại khi ông ta ra về, bây giờ con mới biết là ông ta đã chẳng làm gì cả. Con cũng thấy chắc chắn như mẹ là quỉ dữ thấy cửa mở đã vào buồng con và nhồi vào đầu óc con tất cả những thứ ngông ngạo đó. Ở Moussoul, nơi nhà thương gia đó sinh sống chắc người ta không biết như chứng ta ở Bagdad là nếu cửa phòng ngủ để mở trong khi ngủ thì thể nào quỉ dữ cũng lọt vào để gây ác mộng và làm nhiều điều tồi tệ. Nhân danh Thượng đế, mẹ ơi, vì nhờ trời con đã hoàn toàn khỏi bệnh, con van mẹ, người mẹ hiền đức của con, hãy giải thoát con khỏi bàn tay tên đao phủ nhất định nó sẽ rút ngắn cuộc sống của con nếu còn phải ở đây lâu hơn nữa.
Bà mẹ Abou Hassan được hoàn toàn an ủi và hể hả thấy con trai không còn tí dấu vết nào của sự hoang tưởng cho mình là hoàng đế nũa nên lập tức đi tìm người gác cổng nhà thương đã dẫn chàng tới đây và cai quản chàng tới lúc này. Khi nghe nói chàng đã hoàn toàn khỏi bệnh, y liền tới xem xét rồi thả chàng ra ngay trước mặt bà mẹ.
Abou Hassan trở về nhà mình, nghỉ ngơi nhiều ngày và ăn uống tẩm bổ cho lại sức bù với bao ngày thiếu thốn và bị hành hạ trong nhà thương đlên. Nhưng khi thấy sức khoẻ mình đã gần được như trước, chàng lại bắt đầu thấy buồn chán vì tối tối không có bạn bè trò chuyện. Vì vậy chẳng bao lâu chàng lại muốn quay về cách sống như trước nghĩa là lại bắt đầu hàng ngày ra chợ mua thức ăn đủ để đãi một người khách vào buổi tối.
Chiều chlều chàng lại tha thẩn ra đầu cầu Bagdad đón người khách lạ đầu tiên, mời về nhà ăn cơm và ngủ lại.
Hôm đó là một ngày đầu tháng, như chúng ta đã nói hoàng đế thường có cái thú cải trang vi hành để xem xét dân tình xem có gì làm rói, làm trái với lệ luật mà chính ông đã soạn thảo và cho thi hành từ hồi lên ngôi báu không.
Ngồi trên chiếc ghế đài đặt tựa vào thành cầu chưa được mấy chốc, khi liếc mắt sang đầu cầu bên kia, Abou Hassan nhìn thấy hoàng đế cải trang thành một thương gia ở Moussoul như lần trước và theo sau vẫn là người nô lệ đó. Đinh ninh tất cả tai hoạ mà chàng đã phải chịu đựng là ở con ngưởi này, đã để cửa buồng ngủ của chàng mở toang khi ông ta ra về để cho ma quỉ vào quấy nhiễu. Run lên vì tức giận khi trông thấy ông.ta, chàng tự nhủ:
- Cầu xin Thượng đế phù hộ! Nếu ta không nhầm thì kia đúng là tên phù thuỷ đã ám hại ta.
Chàng liền quay mặt ra sông, tựa người trên thành cầu để không nhìn, mặc cho ông ta đi qua.
Nhà thương gia ở Moussoul hầu như cùng một lúc nhìn thấy chàng cũng nhu chàng nhìn thấy ông. Cử chỉ vừa rồi của chàng làm ông hiểu rõ là chàng đã căm giận ông tới mức nào và cố tình tránh mặt ông. Ông bèn đi men theo thành cầu, đến thật gần chỗ Abou Hassan đang đứng. Ông cúi xuống nhìn thẳng vào mặt chàng:
- Ồ thế ra là bạn đấy ư, người anh em Abou Hassan của tôi? Chào bạn, hãy để tôi ôm hôn bạn nào! Abou Hassan, không nhìn mặt người thương gia giả hiệu, đột ngột đáp:
- Còn tôi thì tôi không chào ông. Tôi chẳng cần đến cái chào cũng như cái ôm hôn của ông. Ông hãy cứ đi đường của ông.
- Ồ, sao .nào? Bạn không nhận ra tôi ư? Bạn có còn nhớ cái buổi tối, cách đây một tháng, tôi được bạn mời về nhà và cùng nhau ăn tối. Bạn đã chiêu đãi tôi thật là hào hiệp.
Không? - Abou Hassan đáp vẫn bằng cái giọng dấm dẳn như trước - Tôi không biết ông và cũng chẳng hiểu ông nói gì cả. Một lần nữa xin mời ông đi đi cho.
Hoàng đế vẫn không nản lòng vì thái độ thiếu thân thiện của Abou Hassan. Ông cũng đã biết cái lệ của Abou Hassan đặt ra là không giao thiệp gì nữa với người đã một lần được chàng chiêu đãi. Abou Hassan đã tuyên bố với ông như vậy nhưng ông cứ vờ như không biết. Ông nói:
- Tôi không thể ngờ được là bạn lại không nhận ra tôi. Chúng ta gặp nhau lần trước nào đã lâu la gì, tôi không sao tin được là bạn lại quên tôi dễ đàng như vậy. Chắc hẳn là bạn đã gặp một chuyện không hay nào đó mà sinh ra ghét bỏ tôi như thế. Bạn nên nhớ lại là tôi đã biểu lộ sự biết ơn của tôi bằng những lời chúc tốt đẹp. Hơn nữa, điều mà bạn mong ước thiết tha nhất, tôi cũng đã giúp bạn hết lòng và không thể coi thường cái gì đã mang lại.
- Tôi chẳng biết gì - Abou Hassan nól - về cái chuyện ông nói là giúp và kết quả không thể coi thường nhưng lại biết rất rõ là những lời chúc của ông chỉ đưa tôl đến chỗ trở thành một thằng đlên. Nhân danh Thượng đế, tôi xin ông một lần nữa là ông đi đi cho và chớ làm phiền tôi nữa.
- Ồi! Abou Hassan, người anh em của tôi? - Hoàng đế kêu lên và lại ôm hôn chàng - Tôi chẳng muốn chia tay bạn như thế này đâu. Ngôi sao may mắn của tôi đã xui khiến tôi gặp được anh bạn lần thứ hai, bạn cũng phải lần thứ hai thù tiếp tôi mới phải chứ, để chúng ta lại được cùng nhau nâng chén.
Đó chmh là đlều mà Abou Hassan phản kháng để giữ được điều đã tự hứa với mình. Chàng nói:
- Tôi có đủ nghị lực để tự ngăn mình không được giao du với ông, người đã mang đến cho tôi điều bất hạnh. Chắc ông đã biết câu phương ngôn: ''Biết điều thì hãy cao chạy xa bay...''. Có cần phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần nữa không? Mong Thượng đế chỉ đường cho ông! Ông đã gây cho tôi biết bao đau khổ, tôi không muốn hứng chịu nhiều hơn nữa.
- Anh bạn thân mến Abou Hassan của tôi? - Hoàng đế nói và lại ôm hôn chàng lần nữa - Bạn đã đối xử với tôi thật khắc nghiệt mà tôi thật không ngờ tới. Tôi xin bạn đừng quá xúc phạm tôi mà nói năng như vậy và ngược lại hãy tin tưởng ở tình bạn của tôi. Bạn hãy làm ơn kể cho tôi nghe có điều gì đã xảy đến với bạn, tôi thì chỉ luôn muốn cho bạn được mọi sự tốt lạnh và sẽ còn mong mãi như thế. Tôi cũng muốn tìm dịp tốt để sửa chữa lại những điều chẳng hay mà bạn nói là do tôi mà ra, nếu đúng là tôi có điều gì khiếm khuyết với bạn.
Abou Hassan mềm lòng vì những lời khẩn khoản của Hoàng đế. Sau khi chỉ cho ông ngồi xuống cạnh mình chàng bảo:
- Sự hoài nghi và quấy đảo của ông làm tôi không kiên nhẫn được nữa. Những gì mà tôi sẽ kể cho ông nghe đây sẽ làm rõ là việc tôi oán trách ông là đúng hay sai.
Hoàng đế ngồi sát gần vào Abou Hassan nghe chàng kể đầu đuôi tất cả những chuyện xảy ra từ lúc chàng thức giấc trong cung điện cho tới lần thức giấc thứ hai trong buồng ngủ của chàng. Chàng kể tất cả coi như một giấc mộng thực với tất cả các chi tiết mà hoàng đế cũng đã nắm được chẳng kém gì chàng, do đó hoàng đế như lại được thêm một lúc để cười thầm thích thú. Chàng còn nhấn mạnh là ấn tượng mà giấc mơ dõaể lạ; trong đầu làm chàng cứ lúc nào cũng cho mình là hoàng đế và là đấng Thống lĩnh các tín đồ. Chàng thêm:
- Cái ấn tượng đó đã khiến tôi làm lắm điều kỳ cục ngông ngạo đến nỗi những người láng giềng phải trói tôi lại như một kẻ điên khùng và đưa tôi vào nhà thương điên. Ở đây người ta đã đối xử với tôi một cách có thể gọi là rất tàn tệ, độc ác, dã man và vô nhân đạo. Nhưng điều làm ông không ngờ tới và chắc là chẳng mong đợi là tất cả những gì xảy ra với tôi đều là đo lỗi của ông. Chắc hẳn ông còn nhớ là tôi yêu cầu ông phải đóng cửa buồng tôi lại khi ông ra về. Nhưng ông đã chẳng làm thế cho, ngược lại ông để cửa mở toang hoang, thế là quỷ dữ lần vào nhồi vào đầu óc tôi giấc mộng đó xem ra thì thật là dễ chịu, khoái chá nhưng nó đã gây ra cho tôi biết bao đau khổ. Ông là nguyên nhân của tất cả cái đó vì sự tắc trách của mình (đã làm cho ông phải chịu trách nhiệm về tội ác của tôi), mà tôi đã phạm một điều khủng khlếp và bỉ ổi là đã giơ tay không những là để đánh mẹ mà còn định giết bà vì bà đã dám gọi tôi là con trai bà và không muốn công nhận tôi là Thống lĩnh các tín đồ. Mỗi khi nghĩ tới tôi lại đỏ mặt lên vì xấu hổ. Ông còn là nguyên nhân của việc tôi gây nên vụ xích mích mâu thuẫn với bà con hàng xóm láng giềng. Nghe tiếng mẹ tôl kêu cứu, họ đã chạy tới và kịp thời ngăn được tôi khỏi phạm vào tội giết mẹ. Điều này không thể nào xảy ra nếu ông cẩn thận giúp tôi đóng cửa buồng lại khi ra về như tôi đã yêu cầu và những người bà con hàng xóm đó sẽ không kéo vào phòng tôi khl chưa được phép. Và điều làm tôi khổ tâm hơn nữa là họ đã chứng kiến sự điên rồ của tôi. Tôi đã đánh họ để tự vệ và họ đã trói ghì tôi lại, nhất tôi vào nhà thương điên mà có thể đoan chắc với ông là trong suốt thời gian tôi bị giam tại đó như trong địa ngục họ không quên thết tiệc tôi hàng ngày bằng những nhát roi gân bò quật thật lực.
Abou Hassan kể cho hoàng đế nghe nguyên cớ của sự kêu ca than vãn của chàng một cách sôi nổi và hăng hái. Hoàng đế còn biết hơn chàng tất cả những gì xảy ra và ông thấy ngầm thích thú là đã thành công trong ý định đưa chàng ta vào chỗ hoang mang bất định mà lúc này hãy còn rơi rớt. Nhưng nghe chàng kể với đầy vẻ ngây thơ tội nghiệp, ông không khỏi phá lên cười.
Abou Hassan cứ tưởng chuyện của chàng đáng được sự thương cảm và tất cả mọi người nghe cũng phải thấy xúc động như chàng. Vô cùng bất bình vì tràng cười ròn của nhà buôn giả hiệu ở Moussoul, chàng tức giận nói:
- Ông còn muốn chế giễu tôi chăng? Hoặc ông tưởng là tôi bịa chuyện khi tôi rất nghiêm chỉnh kể cho ông nghe toàn sự thật. Ông muốn xem những chứng cứ cụ thể ư? Xin hãy nhìn đây, trông cho kỹ và nói cho biết có phải là tôi muốn giỡn ông không?
Vừa nói, chàng vừa cúi người vạch vai và trật áo lưng ra để hoàng đế nhìn những vết sẹo và những lằn bầm tím do những trận đòn roi gân bò chàng đã hứng chịu.
Nhìn những vết thương đó, hoàng đế không khỏi ghê sợ Ông thương hại Abou Hassan và giận mình vì đã đẩy trò đùa đi quá xa. Ông lấy lại bình tĩnh, ôm hôn thật âu yếm Abou Hassan và nghiêm trang bảo chàng:
Hãy đứng lên đi, tôi van bạn? Chúng ta hãy cùng về nhà bạn. Tôi muốn cùng người anh em vui vẻ tốị nay và ngày mai, nhờ ơn Trời, bạn sẽ thấy mọi việc đều tất đẹp.
Abou Hassan, mặc dù đã quyết định và đã thề là không tiếp tại nhà cùng một người lạ đó lần thứ hai. Nhưng không sao cưỡng lại được những lời ngon ngọt dỗ dành của hoàng đế mà chàng vẫn tưởng đó là nhà buôn ở Moussoul, chàng bảo người thương gia:
- Thôi cũng được - Và nói thêm - Nhưng ông phải hứa với tôi là vì tôi mà chớ quên đóng cửa phòng lại khl ra về để quỷ dữ khỏi lẻn vào làm cho đầu óc tôi rối loạn cả lên như lần trước ấy.
Người thương gia giả hiệu nhận tất cả các điều kiện. Họ đứng lên và cùng bước về thành phố.
Để làm cho Abou Hassan không còn ngần ngại gì nữa, hoàng đế bảo:
- Người anh em hãy tin ở tôi. Hứa trên danh dự tôi không nuết lời đâu. Chẳng nên quá đa nghi với một người như tôi luôn luôn chỉ mong cho bạn những điều tết lành và rồi bạn sẽ thấy hiệu quả.
- Tôi không đòi hỏi ở ông điều đó - Abou Hassan nói và dừng lại - Tôi vui lòng nhượng bộ để cùng ông vul vẻ tối nay, nhưng xin miễn cho lời cầu chúc. Tôi van ông, nhân danh Thượng đế, là đừng cầu chúc cho tôi bất cứ cái gì. Tất cả tai hoạ đã đến với tôi cho đến nay chẳng qua chỉ là đo cái cửa để ngỏ mà thôi chứ chẳng phải là đo những lời ông cầu chúc cho tôi.
Hoàng đế cười thầm trong bụng vì thấy trí tưởng tượng của Abou Hassan vẫn còn bị ảnh hưởng, ông bảo:
- Nếu bạn muốn vậy thì cũng xin chiều lòng. Tôi hứa là sẽ chẳng bao giờ chúc tụng bạn gì nữa.
- Tôi vui lòng thấy ông nói thế đấy- Abou Hassan nói- Và tôi cũng chẳng đòi hỏi ở ông điều gì cả. Tôi sẽ thấy rất hài lòng miễn là ông giữ lời hứa. Còn tất cả mọi điều khác, tôi coi như ông chẳng bị ràng buộc tí gì.
Abou Hassan và hoàng đế, theo sau là người nô lệ, vừa đi vừa nói chuyện như thế mà về tới nhà lúc nào cũng không hay. Trời cũng vừa sập tối, Abou Hassan gọi mẹ và sai người nhà mang đèn lên. Chàng mời hoàng đế ngồi lên tràng kỷ và ngồi xuống bên ông. Một lát sau bữa ăn đã được dọn trên bàn. Họ ăn uống tự nhiên không khách khí. Ăn xong, bà mẹ Abou Hassan vào dọn dẹp, đặt đla trái cây lên bàn, chai. rượu và chén uống rượu để cạnh con trai. Rồi bà đi ra và không xuất hiện nữa. Abou Hassan bắt đầu rót rượu trước tiên cho mình rồi sau đó rót cho hoàng đế. Họ uống bốn năm tuần như thế, vừa uống vừa nói đủ các thứ chuyện. Khi hoàng đế thấy Abou Hassan bắt đầu lơ mơ say, ông đề cập đến vấn đề yêu đương và hỏi chàng đã từng yêu bao giờ chưa. Abou Hassan coi như đang nói chuyện với một người ngang hàng, thân mật đáp:
- Ông anh ạ, tôi luôn coi tình yêù hoặc hôn nhân nếu ông thích gọi thế, chỉ là một thứ rợ buộc chân mà tôi cố tránh. Thú thực với ông, cho tới nay tôi chỉ yêu cái bàn ăn, những thức ăn hợp khẩu vị và nhất là rượu ngon. Tóm lại một câu: thú vị nhất là được cùng bè bạn vui chơi, chuyện trò tâm sự thoải mái. Tuy nhiên tôi cũng muốn nói là mình thờ ơ với hôn nhân không phải vì bất lực trong chuyện yêu đương mà bởi vì... nếu tôi gặp được một người đàn bà xinh đẹp và đuyên dáng tươi vui như những thiếu nữ thấy trong giấc mơ của cái đêm định mệnh đó... Nhưng tìm đâu cho thấy một người đẹp như vậy ngoài cung điện của hoàng đế, ngoài lâu đài của đại tể tướng Giafar, ngoài dinh thự các đại thần hùng mạnh của triều đình ta? Ỏ những nơi đó thiếu gì vàng, thiếu gì bạc để có không biết bao nhiêu người đẹp? Vì vậy tôi thích làm bạn với chai rượu hơn. Đó là một thú vui không mấy tốn kém mà đối với họ, mình thấy cũng chẳng thua gì.
Dứt lời, chàng cầm chén tự rót rượu cho mình và bảo hoàng đế.
Ông cầm chén lên nào! Để tôi rót cho ông. Chúng ta hãy cùng thưởng thức cái thú vui bất hủ này?
Hai người uống cạn chén rượu và hoàng đế bảo:
- Thật vô cùng đáng tiếc, một thanh niên hào hoa như bạn, không thờ ơ lạnh nhạt với tình yêu mà cứ phải cam sống độc thân và ẩn dật như thế này!
- Tôl chẳng lấy làm buồn - Abou Hassan nói - mà vẫn thích một cuộc sống yên ả như ông thấy đấy, hơn là sống cùng với một người đàn bà chưa chắc đã có một sắc đẹp làm mình vừa mắt mà còn gây ra bao nỗi phiền toái về những bất cập và tính khí thất thường của cô ta.
Họ chuyện trò khá lâu về vấn đề này và khi hoàng đế nhìn thấy Abou Hassan đã ở một trạng thái ông mong đợi liền bảo chàng: Hãy để việc ấy cho tôi. Vì bạn có xu hướng tất với tất cả những người trung thực, tôi sẽ cho bạn được hài lòng mà chẳng phải tốn kém gì đâu.
Và ngay lúc đó, ông cầm lấy chén của Abou Hassan khéo léo bỏ vào một đúm bột mà ông đã sử dụng lần trước, rót rượu vào và đưa mời chàng:
- Bạn hãy cầm lấy và chúc sức khoẻ trước cho người đẹp sẽ đem hạnh phúc về cho bạn. Chắc chắn là bạn sẽ hài lòng.
Abou Hassan vừa cười vừa đỡ lấy chén rượu, đầu lắc lư nói:
- Muốn ra sao thì ra vì ông anh đã muốn như vậy. Tôi không thể tỏ ra bất lịch sự và vô ơn đối với một khách quí như ông anh để không làm một việc mà tôi cho là sẽ chẳng đi đến đâu cả. Vậy là tôi phải uống chúc sức khoẻ cho cái người đẹp đó, dù là tôi vẫn vui vẻ an phận mình và chẳng kỳ vọng gì nhiều vào lời hứa của ông anh đâu.
Abou Hassan vừa cạn chén thì cơn buồn ngủ ập đến làm tê liệt mọi giác quan giống như hai lần trước và hoàng đế lại làm chủ để định đoạt số phận chàng theo ý chí mình. Ông bèn bảo tên nô lệ đi theo mang Abou Hassan về hoàng cung. Tên nô lệ vác chàng lên vai và hoàng đế không có ý đem trả lại chàng như lần trước nên khi ra đã đóng chặt cửa buồng lại.
Về tới hoàng cung, hoàng đế bảo đặt Abou Hassan nằm trên tràng kỷ trong phòng khách thứ tư nơi cách đây nột tháng ông đã cho đưa trả chàng về nhà chàng trong tình trạng thiếp đi vì ngủ rất say. Trước khi vẫn để cho chàng tiếp tục ngủ như thế, ông bảo người hầu thay cho chàng cũng bộ quần áo mà chàng đã mặc để làm nhân vật hoàng đế. Việc này được làm ngay trước mặt ông. Sau đó lệnh cho tất cả đi ngủ, ông dặn tổng thái giám và những hoạn quan khác cùng tất cả những quan hầu phòng, những nữ nhạc công và cả các cung nữ có mặt trong phòng khách này khi Abou Hassan úống chén rượu cuối cùng làm cho chàng thiếp đi... tất cả, sáng hôm sau lúc tờ mờ sáng đều phải có mặt tại đây khi chàng ta thức đậy. Ông còn dặn mỗi người đều phải đóng tất vai trò của mình.
Hoàng đế đi ngủ sau khi bảo Mesrour nhớ đánh thức mình đậy trước khi mọi người vào phòng khách để ông lại vào căn buồng nhỏ, nấp kín quan sát.
Mesrour không quên đánh thức hoàng đế đúng giờ đã đặn. Ông mặc áo quần nhanh chóng và đl tới phòng khách ở đó Abou Hassan còn đang ngủ. Ông thấy những quan chức hoạn nô, các quan hầu phòng, các cung nữ và các nữ nhạc công tụ tập trước cửa chờ ông. Ông nói với họ vắn tắt mấy lời về ý định của mình, rồi đi vào ẩn trong căn phòng nhỏ có mành che kín. Mesrour cũng như các quan hầu khác, các cung nữ và các nữ nhạc công đi vào sau ông và xếp hàng xung quanh chiếc trường kỷ có Abou Hassan đang nằm, sao cho không che lấp để hoàng đế có thể nhìn thấy tất cả những cử chỉ hành động của chàng.
Tất cả những sự bố trí trên đây đều được hoàn tất trong thời gian mà chất bột gây ngủ còn có hiệu quả. Abou Hassan thức giấc lúc đã giã thuốc nhưng mắt vẫn nhắm, nhổ một bãi nước miếng vào cái ơng nhổ bằng vàng như lần đầu. Đúng lúc này cả bảy đàn nhạc cùng tấu một bản nhạc du dương kèm theo với lời ca thánh thót.
Abou Hassan cực kỳ ngạc nhiên khi nghe thấy một nhạc điệu hình như đã được nghe quen. Chàng mở mắt và lại càng ngạc nhiên gấp bội khi nhìn thấy các cung nữ và các quan hầu vây quanh mà chàng thấy như đã quen mặt. Phòng khách mà chàng ở đó lúc này dường như cũng là phòng khách chàng đã nhìn thấy trong giấc mơ trước, cũng ánh sáng đó, cũng bàn ghế đó và sự trang trí cũng như vậy.
Bản hoà tấu dừng lại để hoàng đế quan sát và nghe rõ hơn lời người khách mới thốt ra trong lúc kinh ngạc. Mesrour và tất cả các quan hầu phòng đều hết sức im lặng và đứng tại chỗ với vẻ hết sức tôn kính.
- Than ôi! - Abou Hassan cắn vào ngón tay mình và kêu thật to làm cho hoàng đế vô cùng thích thú - Thế là ta lại rơi vào vẫn cái gíấc mơ đó, cũng trong cái ảo giác đó cách đây một tháng? Ta chỉ còn phải đợi một lần nữa những nhát roi gân bò, nhà thương điên và cái lồng sắt. Hỡi Thượng đé quyền uy? - Chàng thêm - Con xin tự phó thác vào đôi bàn tay thiêng liêng của đấng Tạo hoá. Con đã tiếp đãi một con người bất lương chiều tối hôm qua tại nhà và đó là nguyên nhân của ảo ảnh này và những cực hình có thể sẽ phải chịu đựng. Cái tên phản trắc và vô lại đó đã thề là khi đi ra sẽ khép cửa buồng con lại nhưng nó đã không làm thế và thế là ma quỉ đã lẻn vào và làm đầu óc con rối mù lên vì cái giấc mơ chết tiệt, làm mắt con chói loà lên vì Thống lĩnh các tín đồ và hàng đống ma quỉ. Mong cho Thượng đế trừng phạt mày, hỡi quỷ dữ! Mày sẽ bị cả một núi những đá tảng đè nát!
Nói đến đây, Ábou Hassan nhắm mắt lại và gắng tĩnh tâm trong lúc đầu óc vô cùng hoang mang. Một lát sau chàng mở mắt, liếc nhìn ra xung quanh, nhìn vào tất cả những vật bày ra trước mắt rồi kêu to lên một lần nữa đã phần nào bớt vẻ kinh ngạc và lại còn mỉm cười:
Thượng đế vĩ đại? Con lại xin tự trao phó mình vào bàn tay đầy quyền uy của Người. Xin Người hãy bảo vệ con khỏi sa vào âm mưu của quỉ dữ.
Rời lại nhắm mắt vào, chàng nói tiếp:
- Ta biết điều gì ta sẽ làm: ta sẽ ngủ cho tới khi quỷ dữ bỏ ta mà cút về chỗ của nó, dù có phải chờ cho đến buổi trưa.
Người ta không cho chàng ngủ lại như chàng vừa tự nêu ra. Tâm Nương, một trong những người đẹp mà chàng đã thấy lần trước, đến gần chàng và ngồi xuống mép tràng kỷ, cung kính nói:
Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ, xin bệ hạ tha tội nếu thiếp mạo muội bẩm với Người là không nên ngủ lại nữa mà cố gắng tỉnh thức và đứng dậy vì mặt trời đã bắt đầu nhô lên.
- Cút mau đi, quỉ dữ - Abou Hassan thét lên khi nghe tiếng đó nói.
Rồi nhìn vào Tâm Nương chàng hỏi:
- Có phải là tôi mà nàng kêu là Thống lĩnh cáe tín đồ? Chắc hẳn là nàng đã nhầm với một người khác rồi đó.
- Chính là với bệ hạ - Tâm Nương nói - mà thiếp mới gọi bằng danh hiệu ấy, danh hiệu thuộc về hoàng đế của tất cả những con dân đạo Hồi mà thỉếp là một nô lệ hèn hạ nhất. Chắc là bệ hạ muốn giỡn chơi một chút - Nàng nói thêm - giả cách như quên đi chính mình, nếu không phải đó là dư âm của một giấc mơ xấu đáng buồn. Nhưng nếu Người vui lòng mở to đôi mắt thì những đám mây làm vẩn đục cái bầu trời tưởng'tượng của Người sẽ tan và Người sẽ thấy Người đang ở trong cung điện của Người và quây quần xung quanh là những quan hầu của Người và tất cả chúng em, những nô lệ của Người sẵn sàng phục vụ Người những công việc thường ngày. Ngoài ra, xin bệ hạ chớ ngạc nhiên thấy mình ở trong phòng khách này chứ không ở trên giường ngự. Tối qua Người đã bất thình lình ngủ lịm đi, chúng em chẳng dám mạo muội đánh thức để đưa về nghĩ phòng nên đành phải đặt Người nằm thoải mái trên chiếc trường kỷ này.
Tâm Nương còn nói với Abou Hassan nhlều điều khác nữa mà chàng cho là đúng đắn nên cuối cùng đã ngồi nhỏm dậy. Chàng mở mắt ra và nhận thấy nàng cũng như nhận thấy Bạch Ngọc và các nàng khác mà chàng đã quen. Thế là tất cả các nàng xúm lại. Tâm Nương tiếp tục nói:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ và đại diện đấng tiên tri trên thế gian này, xin Người cho phép chúng thiếp được tâu lại một lần nữa là đã đến thời đlểm Người đứng dậy, kìa trời đã sáng rõ.
Abou Hassan giụi giụi mắt, lầm bầm:
Các người là những kẻ vô đuyên và quấy đảo? Tôi đâu phải là Thống lĩnh các tín đồ, tôi là Abou Hassan, tôi biết rõ là như thế, các người không thể nói trái lại được đâu.
- Chúng em chẳng biết Abou Hassan mà bệ hạ nóì là ai cả - Tâm Nương lại nói - Và chúng em cũng chẳng muốn biết hắn làm gì. Chúng em chỉ biết bệ hạ là đấng Thống lĩnh các tín đồ và chắc là Người chẳng thể bảo với chúng em Người không phải là như vậy.
Abou Hassan đưa mắt nhìn xung quanh và sững sờ khi thấy mình đang ở trong một phòng khách đã từng ở qua, nhưng chàng gán cho tất cả những cái đó là ở trong một giấc mơ mà chàng đã từng mơ và rất sợ những chuyện tai hại xảy ra tiếp đó.
Mong được Thượng đế cứu rỗi- Chàng giơ hai tay kêu lên, đôi mắt dáo dác như một người không biết mình đang ở chỗ nào - Con xin tự trao phó cho Người. Cứ những gì con trông thấy đây thì không còn nghi ngờ gì nữa: đúng là quỉ dữ đã lọt vào phòng con, ám vào con và làm đầu óc con lộn xộn vì tất cả những ảo anh này.
Hoàng đế nhìn thấy chàng, nghe thấy tất cả những lời than vãn của chàng, bật lên tiếng cười thật hồn nhiên mà Người không sao kìm giữ được.
Nhưng Abou Hassan đã lại nằm xuống và nhắm mắt lại Tâm Nương bèn tâu:
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, vì bệ hạ vẫn còn muốn ngủ nữa mặc dầu trời đã sáng, nên chúng em phải làm bổn phận mà chính Người đã trao cho là nhắc Người còn phải ra thiết triều để xử lý mọi công việc mà quốc gia đã trao phó.
Cùng lúc, nàng nắm lấy một cánh tay chàng và gọi những thiếu phụ khác tới giúp kéo chàng ra khỏi giường nằm và lôi chàng xềnh xệch, nếu có thể nói như vậy, ra đến giữa phòng và đặt chàng ngồi xuống. Rồi các nàng nắm tay nhau làm thành một vòng tròn nhảy múa xung quanh chàng theo tiếng trống và tất cả các nhạc cụ tấu ngay trên đầu và bên tai chàng.
Abou Hassan thấy mình trong tình trạng hoang mang không sao tả xiết. ''Phải chăng ta đúng là hoàng đế và Thống lĩnh các tín đồ?'' Chàng tự nhủ. Cuối cùng trong tâm trạng hoài nghi như thế, chàng muốn nói gì đó nhưng tiếng ồn ào của các thứ nhạc cụ chơi quá mạnh làm chẳng ai nghe được. Chàng ra hiệu cho Bạch Ngọc và Sao Mai đang nắm tay nhau nhảy múa xung quanh chàng, là chàng muốn nói. Thế là hai nàng bảo ngừng nhảy, thôi chơi nhạc và đến gần chàng. Chàng ngây thơ bảo hai người”
- Xin các nàng chớ nói dối, hãy bảo cho blết đúng sự thực tôi là ai?
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ - Sao Mai đáp - Bệ hạ muốn làm cho em bất ngờ vì câu hỏi đó chăng? Bệ hạ cứ muốn làm như mình chẳng phải là Thống lĩnh các tín đồ, là đại điện đấng tiên tri của Thượng đế, là chúa tể của thế giới chúng ta đang sống và cả thế giới mà chúng ta tới sau khi chết. Nếu không phải thế thì đúng là một giấc mộng kỳ quái nào đó đã làm Người quên đến cả chuyện không biết mình là ai nữa. Có thể như thế được lắm vì đêm qua bệ hạ đã ngủ lâu hơn tất cả mọi ngày. Tuy nhiên nếu Người vui lòng cho phép thì em sẽ gợi cho Người nhớ lại tất cả những gì Người đã làm trong ngày.
Thế rồi nàng kể lại chuyện chàng đi đến cung thiết triều, ra lệnh cho pháp quan trừng trị tên trưởng giáo và bốn lão già hội đồng, phái đại tể tướng đem tặng một túi tiền vàng cho bà mẹ một người tên là Abou Hassan. Rồi những gì chàng làm bên trong cung điện và những gì xảy ra trong các phòng ăn, phòng điểm tâm và phòng uống rượu. Nàng nói thêm:
- Ở trong căn phòng cuối cùng này, bệ hạ đã cho phép chúng em được ngồi hai bên cạnh Người, cho chúng em vinh dự được hát cho Người nghe, được chuốc rượu cho Người, cho đến lúc Người gục xuống ngủ như chị Tâm Nương vừa kể. Từ lúc đó, trái với thói quen thường lệ, bệ hạ ngủ say li bì cho tới tận lúc này khi trời đã sáng bạch. Bạch Ngọc, tất cả các nô tì khác và tất cả các quan hầu có mặt tại đây cũng sẽ chứng nhận đúng như thế. Vậy thì xin bệ hạ hãy bắt đầu cầu nguyện vì đã tới giờ rồi.
- Đươc! được đấy! - Abou Hassan lắc lư đầu nói – Các nàng đến làm ta tin mất nếu cứ nghe các nàng nói dông dài mãi nhừ thế. Và ta - Chàng tiếp - thì ta bảo các nàng tất cả là một lũ điên rồ mất trí. Thật là đáng tiếc vì tất cả các nàng đều xinh đẹp. Nên biết rằng từ lúc ta nhìn thấy các nàng, ta đã đi về nhà và đã hành hạ mẹ già của mình đến nỗi người ta phải bắt ta vào nhà thương điên và ngoài ý muốn của mình, ta phải ở trong đó suốt ba tuần lễ, mỗi ngày xơi năm chục roi gân bò của tên gác cổng. Và các nàng thì cho tất cả những cái đó chỉ là một giấc mộng. Các nàng muốn giễu ta chăng?
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ - Sao Mai lại nói - Chúng em sẵn sàng lấy tất cả những gì thân thiết nhất của mình ra mà thề độc là tất cả những gì Người vừa nói đều chỉ là trong một giấc mộng. Chứng cứ là từ hôm qua tới lúc này Người chưa từng bước chân ra khỏi phòng khách này và Người đã ngủ suốt đêm tại đây cho đến bây giờ.
Cô cung nữ Sao Mai cả quyết với Abou Hassan là tất cả những gì cô ta nói đều là sự thật, chàng chưa hề ra khỏi phòng khách này kể từ lúc bước chân vào. Điều khẳng định này lại đẩy chàng vào tình trạng không biết tin vào những gì đã xảy ra cho mình hay những gì đang nhìn thấy. Chàng như đắm trong suy tư một khoảng thời gian khá lâu. “Trời đất ơi! - Chàng tự hỏi - Ta là Abou Hassan hay là Thống lĩnh các tín đồ? Thượng đế tối linh! Xin Người hãy làm cho sáng tỏ, cho con rõ sự thật để con còn biết phải xử sự ra sao”.
Sau đó chàng vạch áo để hở vai còn đầy những vết thâm tím ngang dọc ra, chỉ cho các nàng xem.
- Các nàng hãy trông đây - Chàng bảo họ - Và thử xét xem những vết thương như thế này có thể tới từ một giấc mơ hay trong khi ngủ được không. Về phần tôi, tôi có thể cả quyết với các nàng rằng những vết thương đó là rất thực và cái đau vì bị đòn mà lúc này tôi còn cảm thấy là một bảo đảm chắc chắn không cho phép tôi nghi ngờ chút nào. Nếu thảng hoặc điều đó đã xảy ra cho tôi trong giấc ngủ thì đó là một điều vô cùng kỳ lạ, vô cùng khác thường. Và xin thú thực với các nàng là nó vượt ra ngơài tầm hiểu biết và sự chấp nhận của tôi.
Trong cái tình trạng phân vân chưa ngã ngũ ra sao đó Abou Hassan gọi một trong các quan hầu hoàng đế đứng cạnh mình ôn tồn bảo:
- Ống hãy đến gần đây và cắn vào tai tôi một cái để xem tôi ngủ hay đang thức.
Viên quan hầu tới gần ghé răng vào chót tai Abou Hassan cắn mạnh một cái làm cho Abou Hassan bị đau quá thét lên rất to.
Cùng với tiếng kêu đó là tất cả nhạc cụ cùng tấu lên một lúc và các cung nữ, các quan hầu nâm lấy tay nhau nhảy múa xung quanh Abou Hassan gây thành một tiếng động ầm ĩ, ồn ào khiến chàng cũng hưng phấn đứng lên làm lắm trò điên rồ. Chàng cũng cất tiếng hát cùng với mọi người. Chàng xé rách cả tấm áo triều phục ìộng lẫy mà người ta đã mặc cho chàng. Chàng ném toạch cả mũ đội xuống đất, và chỉ còn trên mình chiếc quần đùi cùng áo lót chàng bất ngờ nhảy xổ vào giữa hai cung nữ, nắm lấy bàn tay họ và nhảy như choi choi, uốn éo đủ kiểu ngộ nghĩnh tức cười làm cho hoàng đế không sao ở yên được nơi đang nấp. Sự quay lộn nhảy hát bất ngờ của Abou Hassan làm ông phá lên cười nghiêng cười ngả, tiếng cười của ông át cả tiếng đàn tiếng trông ầm ĩ. Cười hết trận nọ đến trận kia làm ông đau cả bụng. Cuối cùng ông đứng lên, mở rèm và thò đầu ra, ông vẫn vừa cười vừa kêu to:
- Abou Hassan, Abou Hassan! Nhà ngươi muốn làm cho ta chết vì cười hay sao thế?
Nghe thấy tiếng hoàng đế, tất cả mọi người đều im lặng và mọi tiếng động đều chấm dứt. Abou Hassan cũng dùng lại nhú mọi người và quay đầu về phía có tiếng nói. Chàng nhận ra hoàng đế đồng thời với nhà buôn ở Moussoul cũng là người này. Không chút bối rối về chuyện đó, chàng hiểu là lúc này chàng đang thức và tất cả những gì xảy ra ở đây là rất thực chứ không phải là trong một giấc mộng. Chàng xoay ra chuyện trò đùa và đó cũng là khớp với ý đồ của hoàng đế.
- Ha? Ha? - Chàng nhìn thẳng vào vua kêu lên - Ra là ông đấy phải không, ông nhà buôn ở Moussoul? Sao? Ông kêu là tôi làm ông chết vì cười ư? Ông chính là nguyên nhân để tôi đối xử tàn tệ với mẹ tôi và cũng là nguyên nhân để tôi bị đối xử tàn tệ trong một thời gian khá lâu trong nhà thương điên. Cũng chính ông đã trừng trị nặng lão trưởng giáo trong thánh thất ở khu phố tôi và cả bốn lão già hội đồng, hàng xóm của tôi (không phải là tại tôi đấy nhé!). Ông là người đã gây cho tôi biết bao nhiêu nỗi khổ tâm và bao điều ngang trái! Cuối cùng, có phải đúng ông là người đã gây ra mọi sự và tôi chỉ là nạn nhân của ông không?
- Nhà ngươi nói đúng, Abou Hassan ạ - Hoàng đế nói và vẫn tiếp tục cười - nhưng để an ủi và để bù lại tất cả những gì khổ cực nhà ngươi đã phải chịu đựng, thề có Thượng đế chứng giám, ta sẵn sàng đền bù lại cho ngươi bằng tất cả những gì ngươi đặt ra, tuỳ ý ngươi chọn lựa.
Nói xong, hoàng đế rời khỏi căn buồng nhỏ, đi vào phòng khách lớn. Ông sai mang một trong những bộ áo quần đẹp nhất của mình bảo các cung nữ làm thay việc của những quan hầu mặc cho Abou Hassan. Khi chàng đã chững chạc trong bộ áo quần lộng lẫy, hoàng đế ôm lấy chàng hôn và bảo:
- Ngươi là người anh em của ta, hãy đòi hỏi ở ta những gì có thể làm cho nhà ngươi vui lòng, ta sẽ chiều ngươi tất cả.
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ - Abou Hassan nói - Xin bệ hạ hãy làm ơn cho biết Người -đã làm những gì khiến cho đầu óc của tôi bị nhiễu loạn như vậy, và ý đồ của Người là gì? Điều này đối với tôi hiện nay quan trọng hơn tất cả mọi thứ khác để cho đầu óc tôi trở lại thanh thản bình thường.
Hoàng đế cũng rất muốn làm cho ý muốn của Abou Hassan được thoả mãn, nên bảo chàng:
- Trước hết nhà ngươi cũng cần biết là ta thùờng hay cải trang vi hành nhất là về ban đêm, để tự mình tìm hiểu tình hình trật tự an ninh trong thành phố Bagdad. Và vì ta cũng rất muốn biết những gì xảy ra ở các vùng phụ cận nên ta đã ấn định vào ngày đầu mỗi tháng để vi hành một vòng ra phía ngoài hoàng cung khi thì ở phía này khi thì ở phía khác và bao giờ cũng qua cầu để trở về. Ta vừa đi một vòng và trở về chiều hôm đó thì nhà ngươi mời ta về nhà ăn cơm tối. Trong chuyện trò, nhà ngươi cho ta hay là điều độc nhất mong ước của mình là được làm hoàng đế và Thống lĩnh các tín đồ chỉ trong khoảng thời gian hai mươi bốn tiếng đồng hồ để chỉnh đốn lại tên trưởng giáo ở thánh thất khu phố nhà ngươi và bốn lão cố vấn hội đồng của y. Ước mong của nhà ngươi làm ta nẩy ra ý đồ muốn làm một trò giải trí và với mục tiêu đó, ta phác ngay ra cách thức để làm cho ước muốn của ngươi trở thành hiện thực. Sẵn trong người có thứ bột gây ngủ có tác dụng tức thì lúc uống vào và chỉ thức gíâc sau một thời gian nào đó. Chén rượu cuối cùng tối đó ta đã lén bỏ loại bột ấy cho ngươi uống. Giấc ngủ say li bì đã tới liền. Người nô lệ đi theo ta đã mang nhà ngươi về hoàng cung sau khi đã để cửa buồng nhà ngươi mở toang. Có lẽ chẳng cần phải kể lại những diễn biến trong hoàng cung từ lúc nhà ngươi thức giấc suốt ngày hôm đó cho mãi đến chiều tối. Sau khi đã chiêu đãi ngươi đủ thứ theo lệnh ta trong ba phòng ăn, một trong những cung nữ hầu rượu ngươi đã lén bỏ vào chén rượu cuối cùng của ngươi cùng liều lượng bột gây ngủ như thế và cũng tên nô lệ đã mang nhà ngươi tới lại mang ngươi trả về với lệnh là vẫn để cửa buồng ngỏ như thế khi đi ra. Nhà ngươỉ đã kể tất cả cho ta nghe những gì xảy ra hôm sau và nhùng ngày tiếp theo. Ta thật cũng không ngờ là nhà ngươi lại phải chịu bao cảnh đau lòng khổ sở như thế. Nhưng, cũng như ta đã giao ước với ngùơi, ta sẽ làm tất cả để nhà ngươi được an ủi và cũng là địp để nhà ngươi quên đi tất cả những khổ ải đã phải chịu thời gian qua. Nào, xem ta có thể làm gì để cho ngươi được hài lòng. Hãy mạnh dạn lên, nhà ngươi muốn gì nào?
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ - Abou Hassan nói - Dù tôi đã phải chịu đựng nhiều đau đớn vừa rồi nhưng những điều không hay đó đã bị xoá sạch trong trí nhớ của tôi khi biết là những cái đó đều do đức vua, lãnh chúa và chủ nhân của tôi gây ra. Còn về những ân huệ mà Người hứa ban cho tôi một cách hào hiệp thì tôi tin chắc lời của Người như đao chém đá, không thể đổi thay. Nhưng tôi vốn không tham lợi lộc, vì Người đã cho phép được nói ra điều yêu cầu, tôi chỉ xin Người một đặc ân là luôn được gần gũi Người để có cái vinh dự suốt đời được chiêm ngưỡng sự vĩ đại của Người.
Lời nói của Abou Hassan thể hiện rõ sự vô tư trong sáng, không mưu cầu danh lợi càng làm hoàng đế quí mến chàng gấp bội. Nhà vua bảo chàng:
- Ta vui lòng chấp nhận lời, thỉnh cầu đó. Nhà ngươi có thể tự do ra vào nơi cung cấm, bất cứ vào giờ nào, bất cứ ở đâu nơi mà ta có mặt.
Cùng lúc đó, nhà vua cấp cho chàng một nơi ở trong hoàng cung. Còn về khoản bổng lộc, ông bảo chàng không phải phụ thuộc vào ngân qũi quốc gia mà cứ trông ở hoàng đế Ngay lập tức, ông bảo thủ ngân riêng của mình cấp cho chàng một ngân khoản một nghìn đồng vàng. Abou Hassan trân trọng tạ ơn hoàng đế và Người cũng rời đi để đến cung thiết triều như thường lệ.
Abou Hassan lợi dụng thời gian đó về nói cho mẹ biết ngay tất cả những gì xảy ra để bà biết số phận may mắn của mình. Chàng cũng nói cho mẹ biết là tất cả những gì xảy ra cho chàng chẳng phải là xảy ra trong một giấc mộng. Chàng đã là hoàng đế và thực sự đã điều hành công việc triều đình suốt một ngày trời và đã nhận được nhiều vinh dự. Chàng bảo mẹ chớ nghi ngờ gì về những điều chàng nói vì chính hoàng đế, từ miệng Người đã xác nhận như vậy.
Câu chuyện về Abou Hassan chẳng bao lâu đã lan truyền ra toàn thành phố Bagdad, lan sang cả các tỉnh lân cận và từ đó tới các địa phương xa hơn với những tình tiết ly kỳ và trào lộng được thêm thắt vào.
Với ân huệ mới, Abou Hassan rất cần mẫn trong việc hàng ngày đi chầu vua. Vì bản chất luôn vui vẻ yêu đời nên bất cứ chàng đi tới đâu cũng gieo được niềm vui tới đó bằng những lời hài hước có duyên. Hoàng đế cảm thấy không thể thiếu chàng nên không bao giờ không đòi chàng cùng đi trong những cuộc vui chơi giải trí. Đôi khi hoàng đế dắt chàng tới cả cung hoàng hậu Zobéide mà vua cũng đã kể cho vợ nghe chuyện về chàng khiến hoàng hậu rất thích thú. Nhưng bà có một nhận xét là mỗi lần chàng đi theo hoàng đế sang cung điện thăm bà, đôi mắt chàng thường hay liếc nhìn về một trong những nữ tì của bà là cô hầu Nouzhat-Oulaoudat. Vì vậy bà quyết định nói cho hoàng đế hay việc đó. ' Một hôm hoàng hậu nól nhỏ với hoàng đế.
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, có lẽ Người không như thiếp chú ý tới chuyện này: tất cả các lần Abou Hassan tháp tùng Người tới đây, nó đều không rời mắt khỏi Nouzhat-Oulaouđat làm con bé này ửng đỏ cả mặt mày. Chắc Người cũng thấy đó là dấu hiệu nó tỏ ra là cũng chẳng đến nỗi ghét bỏ cậu ta.
Bởi vậy nếu bệ hạ tin lời thiếp thì chúng ta sẽ làm cái việc xây dựng lứa đôi cho chúng.
- Hậu ạ - Hoàng đế nói - Nàng làm cho ta nhớ đến một việc mà đáng lẽ ta phải làm rồi mới phải. Ta biết xu hướng của Abou Hassan về vấn đề hôn nhân, vì chính nó nói ra. Ta cũng đã hứa là sẽ tìm cho nó một người vợ hợp với nó. Ta rất vui là hậu đã đề cập tới vấn đề mà không hiểu sao ta đã quên bẵng đi mất. Nhưng cứ để cho Abou Hassan tự chọn cho mình thì có lẽ hơn đấy. Vả lại, theo như hậu nói thì con bé Nouzhat-Oulaoudat cũng có vẻ quyến luyến nó. Vậy thì chúng ta chẳng nên do dự nữa mà không vun vén cho chúng. Này, cả hai đứa đều có mặt tại đây. Chúng chỉ cần nói lên là chúng có bằng lòng hay không.
Abou Hassan sụp quì xuống bên chân hoàng đế và hoàng hậu, vô cùng xúc động:
- Tôi không mong gì hơn là được nhận một người vợ từ tay của những người cực kỳ đôn hậu. Nhưng tôi chưa dám hy vọng là Nouzhat-Oulaoudat cũng yêu thương tôi như tôi thương yêu nàng.
Dứt lời, chàng đưa mắt nhìn sang cô nữ tì của hoàng hậu. Cô nàng cũng tỏ lộ sự vui mừng ưng ý
Chương 35: Aladdin và chiếc đèn thần
Tâu bệ hạ, trong kinh thành một vương quốc thuộc Trung Hoa, rất giàu và rộng mà tiện thiếp không nhớ tên, có một người thợ may tên là Mustafa, đặc điểm không gì khác ngoài phong thái nghề nghiệp.
Mustafa rất nghèo, công việc chỉ vừa đủ ăn cho ông, vợ và một đứa con trai Trời ban cho.
Đứa con trai, Aladdin, được nuôi dạy rất cẩu thả nên tiếp xúc với những xu hướng xấu, nghịch ngợm, bướng bỉnh, không vâng lời bố mẹ. Lớn lên một ít, bố mẹ không giữ được cậu bên mình, ngay từ sáng sớm cậu ra khỏi nhà suốt ngày rong chơi trên đường ở những nơi công cộng, với những đứa trẻ lang thang thậm chí ít tuổi hơn cậu.
Đến tuổi cậu phải học nghề, song bố cậu không thể tạo dựng cho cậu một công việc gì khác ngoài nghề nghiệp của mình, ông đưa con vào cửa hiệu tập cho may vá. Nhưng kể cả ngọt ngào lẫn đe doạ, ông bố không sao ngăn được tính lêu lổng của con, không buộc được cậu chịu khó, chăm chỉ và chú tâm vào công việc như ông mong muốn. Mustafa quay lưng đi, là Aladdin chạy ngay ra ngoài đi suốt ngày không về. Bố trừng phạt Aladdin mấy cũng không sửa chữa được. Và dù rất tiếc, Mustafa đành phải bỏ mặc con lêu lổng. Việc đó làm ông đau lòng và nỗi buồn không dạy được con khiến ông lâm bệnh nặng sau mấy tháng thì chết.
Mẹ Aladdin thấy con không học nghề của chồng, liền đóng cửa hiệu may, bán đồ đạc hành nghề của chồng để mẹ con sinh sống, phụ thêm vào chút ít tiền công mà bà kiếm được nhờ kéo sợi.
Aladdin không còn phải sợ bố nữa và lại càng không sợ mẹ, thậm chí bà chỉ hơi mắng mỏ là cậu đã doạ lại bà nên cậu thoả sức tự do càng ngày eàng ehơi bời say sưa hơn trước đây với lũ trẻ cùng lứa! Cậu tiếp tục cuộc sống như thế cho đến năm mười lăm tuổi, không làm gì để mở mang trí tuệ và chẳng suy nghĩ sau này mình sẽ ra sao. Trong tình trạng đó, một hôm cậu đang chơl ngoài bãi rộng với toán trẻ lang thang thì một người lạ đi qua đứng lại nhìn cậu.
Người này chính là một lão phù thuỷ đáng gờm, người ta gọi lão là phù thuỷ châu Phi.
Có lẽ lão phù thuỷ châu Phi biết tướng số nhận thấy trên mặt Aladdin những gì cần thiết cho việc thực hiện mục đích của mình hoặc lão đã khôn khéo thăm dò về gia đình, bản thân và khuynh hướng của cậu. Lão lại gần chàng trai, kéo cậu ra cách bạn bè mấy bước, hỏi:
- Này cậu, bố cậu có phải là ông thợ may Mustafa không?
-Thưa ông đúng đấy nhưng bố tôi mất lâu rồi.
Nghe nói thế, lão phù thuỷ châu Phi ôm lấy Aladdin hôn nhiều lần, nước mắt xen lẫn thở than. Aladdin thấy lão khóc, liền hỏi vì sao. Lão phù thuỷ kêu lên:
- Chà, cháu ơi! Làm sao không khóc được? Ta là chú của cháu, bố cháu là người anh phúc hậu của ta. Ta đi xa đã nhiều năm và lúc về với hy vọng gặp lại anh, đưa niềm vui lại cho anh thì cháu cho biết bố chết rồi! Ta rất đau đớn vì không có được niềm an ủi như mong đợi. Nhưng ta cũng nhẹ lòng một phần thấy trên khuôn mặt cháu có những nét của anh ta, ta thấy đã không lầm khi hỏi chuyện cháu.
Tay bỏ vào túi tiền lão hỏi mẹ cậu ở đâu. Aladdin trả lời ngay và lão phù thuỷ vừa đưa cho cậu một nắm tiền lẻ, vừa nói:
Cháu ạ, về gặp mẹ nói chú gửi lời chào, nếu thời gian cho phép, ngày mai chú sẽ đến thăm mẹ để tự an ủi thấy được nơi anh chú sinh sống và đã qua đời.
Lão phù thuỷ vừa rời cậu cháu vừa nhận nhằng, Aladdin liền chạy về gặp mẹ, vui sướng muốn khoe số tiền chú vừa cho.
- Mẹ ơi - cậu hỏi - con có một người chú không?
- Không con ạ - Bà mẹ trả lời - Bên bố con cũng như bên mẹ không có người chú nào cả.
- Thế mà con vừa gặp một ông nói là chú về bên bố vì là em bố con. Điều làm con tin chắc là vì khi con nói, bố chết rồi, ông khóc và ôm lấy con - Cậu đưa tiền ra và nói thêm - Con nói thật đấy. Ông ấy cho con tiền đây, gửi lời chào mẹ và nói nếu ngày mai có thì giờ ông sẽ đến thăm nhà và nơi bố con mất.
Con ạ - Bà mẹ lại nói - Đúng bố con có một người em nhưng chết đã lâu và mẹ không bao giờ nghe nói có người em nào nữa.
Hai mẹ con không nói gì hơn về người lạ ấy.
Hôm sau lão phù thuỷ lại gặp Àladdin lần thứ hai đang chơi một chỗ khác trong thành phố. Lão ôm lấy cậu như lần trước, bỏ vào tay cậu hai đồng tiền vàng và nói:
- Cháu ơi, đưa cái này về cho mẹ nói chiều nay ta đến thăm, bà đi mua gì để chúng ta cùng ăn tối với nhau. Trước hết chỉ cho ta nhà cháu ở đâu đã.
Cậu nói rõ địa chỉ và lão để cậu đi về.
Aladdin đưa hai đồng vàng cho mẹ. Nghe nói ý định của ông chú, bà đi mua thức ăn ngon và sang hàng xóm mượn thêm một số nồi niêu. Bà để cả buổi chuẩn bị bữa ăn tối. Và chiều đến khi bữa ăn đã sẵn sàng, bà bảo con:
- Có lẽ chú con không biết nhà chúng ta, con đi đón chú đưa ông về.
Tuy đã chỉ rõ nhà mình cho lão phù thuỷ châu Phi, song Aladdin cũng sắp đi thì nghe tiếng gõ cửa. Cậu mở và thấy ông ta đang bước vào, mang theo mấy chai rượu và nhiều loại quả cây cho bữa tối.
Đưa những thứ cho Aladdin lão chào bà mẹ, xin bà cho biết chỗ ông anh Mustafa thường ngồi. Bà vừa chỉ chỗ lão liền, quỳ xuống hôn chỗ ấy nhiều lần, rớt nước mắt đầm đìa kêu lên:
- Ông anh khốn khổ, em rất đau lòng không đến được sớm hơn để ôm hôn anh một lần nữa truớc khi anh mất! Dù mẹ Aladdin mời nhiều lần, lão vẫn không ngồi vào chỗ ấy.
- Không - Lão nói - Tôi ngồi đối điện đây để nếu không được thoả mãn gặp người anh thân yêu mà tôi kính trọng như chính bố của mình thì ít nhất tôi cũng được nhìn như thấy anh đang ở đấy.
Khi đã chọn được chỗ ngồi khác, lão bắt đầu nói chuyện với mẹ Aladdin:
- Chị quý hoá của tôi, chị đừng ngạc nhiên không thấy tôi trong suốt thời glan chị là vợ anh Mustafa. Tôi ra đi khỏi đất nước này đã bốn mươi năm. Từ ngày đó sau khi đi hết Ấn Độ, Ba Tư, A Rập, Xy Ri, Ai Cập qua những thành phố đẹp nhất các nước đó, tôi sang châu Phi và ở lại đó lâu nhất: Cuối cùng theo lẽ tự nhiên của người dù xa quê hương đến mấy cũng không quên nhớ về bố mẹ và anh em ruột thịt, tôi chuẩn bị hành lý và lên đường mong muổn trở về đất nước mình, đến ôm hôn người anh thân yêu trong lúc còn sức và lòng can đảm làm một cuộc hành trình dài. Tôi không kể lại với chị thời gian lăn lộn trải qua những gian nan, vất vả để về được đến đây. Chỉ nói với chị không gì làm tôi day dứt, buồn rầu bằng được tin anh đã mất, người anh tôi luôn yêu kính với một tình cảm thực sự. Tôi chú ý đến những nét của anh trên khuôn mặt cháu và điều đó làm tôi phân biệt cháu với những đứa trẻ khác cùng chơi. Cháu có thể nói tôi buồn đến mức nào khi biết anh tôi đã mất. Nhưng cũng phải tạ ơn Trời về mọi việc: tôi tự an ủi thấy lại người anh trong đứa con trai giữ được những nét nổi bật của anh.
Lão phù thuỷ châu Phi thấy bà mẹ đau lòng về kỷ niệm ông chồng, liền thay đổi câu chuyện, ngoảnh lại Aladdin hỏi tên cậu.
- Cháu là Aladdin - Cậu trả lời.
- Thế cháu làm việc gì Aladdin? Cháu có biết nghề gì không?
Nghe hỏi thế, Aladdin cúi mặt bối rối. Mẹ cậu trả lời:
- Aladdin là một đứa lười biếng. Bố nó lúc còn sống đã ra sức dạy nghề của ông cho nó nhưng không được. Từ khi ông mất, mặc đù tôi nhắc nhở hàng ngày, nó không làm nghề gì khác ngoài việc lêu lổng, suốt ngày chơi với trẻ con như chú thấy, không nghĩ mình chẳng còn bé nữa; nếu chú không làm cho nó thấy xấu hổ, và không sửa chữa nhân dịp này, tôi sẽ thất vọng vì không bao giờ nó có thể nên người. Nó biết bố mất chẳng để lại tài sản gì và cũng thấy tôi kéo sợi suốt ngày khó kiếm đủ ăn. Tôi đã quyết định một ngày nào đó sẽ đuổi nó ra khỏi nhà cho đi kiếm sống ở chỗ khác.
Sau khi bà mẹ vừa khóc vừa nól thế, lão phù thuỷ châu Phi bảo Aladdin:
- Như vậy không tốt cháu ạ, cần phải tự lực mà kiếm sống. Có nhiều nghề nghiệp, phải tìm cho mình một hướng ưa thích. Có lẽ cháu không thích nghề của bốvà thấy mình phù hợp với một nghề khác hơn; đừng giấu chú suy nghĩ của mình, chú sẽ tìm cách giúp cháu.
Thấy Aladđin không trả lời, lão nói:
- Nếu cháu sợ phải học nghề mà vẫn muốn trở thành một người lương thiện, chú sẽ mở cho một cửa hàng vải vóc đẹp, cháu đứng bán lấy tiền mua tiếp hàng, với cách đó cháu sẽ sống xứng đáng. Hãy tự nói thật với chú: ý của cháu ra sao? Cháu nhớ là bao giờ chú cũng giữ lời hứa.
Sự giúp đỡ đó kích thích Aladdin vốn không muốn làm công việc chân tay và cũng khá hiểu biết để nhận thấy những cửa hàng loại ấy sạch sẽ, có nhiều người đến, những người bán hàng ăn mặc đẹp và được coi trọng. Cậu lưu ý lão phù thuỷ mà cậu xem là chú mình rằng cậu có xu hướng về mặt ấy hơn cả và rất cám ơn chú về điều tết ông định xây dựng cho mình. Lão phù thuỷ châu Phi lại nói:
- Vì cháu thích công việc ấy, mai chú đưa cháu cùng đi, cho cháu ăn mặc sạch sẽ, sang trọng phù hợp với phong cách một nhà buôn lớn trong thành phố này; ngày kia chúng ta sẽ nghĩ đến việc mở cửa hàng như chú nói.
Mẹ Aladdin trước đó vẫn không tin người lạ là em chồng bà, lúc này nghe mọi điều tốt lành lão hứa xây dựng cho con thì không còn nghi ngờ gì nữa. Bà cảm ơn lão về dự định quý hoá ấy, khuyên nhủ Aladdin cố gắng xứng đáng với những điều tốt đẹp chú sẽ giúp cho rồi bà bày bữa ăn tối. Cuộc nói chuyện xoay quanh vấn đề ấy suốt bữa ăn cho đến lúc thấy đã khuya, lão phù thuỷ xin phép ra về.
Sáng hôm sau, lão trở lại nhà bà vợ goá ông thợ may Mustafa như đã hứa, dẫn Aladdin đi theo mình, đến một cửa hàng bán quần áo may sẵn đủ các loại vải, phù hợp với mọi lứa tuổi và mọi tầng lớp. Lão bảo cho xem quần áo vừa cỡ người Aladdin, để riêng những loại lão ưng ý rồi nói với Aladdin:
- Cháu chọn trong số này những bộ quần áo thích nhất đi.
Cậu phấn khởi về thái độ thoải mái của ông chú mới, chọn một bộ. Lão phù thuỷ mua tất cả những gì kèm theo và trả tiền không cần mặc cả.
Khi Aladdin thấy mình mặc quần áo đẹp từ chân đến đầu, cậu vô cùng cám ơn ông chú; lão phù thuỷ còn hứa không bao gíờ rời cậu. Thực thế, lão đưa cậu đến những chỗ đông vui nhất thành phố, vào những cửa hàng vải vóc nhiều và đẹp nhất bảo Aladdin:
- Rồi cháu sắp thành một thương nhân như những người cháu thấy, nên đi lại với họ và để họ quen biết cháu.
Lão cũng dẫn cậu đi xem nhà thờ Hồi giáo đẹp và lớn nhất, ung dung vào lâu đài những thương nhân nước ngoài tạm trú. Sau khi cùng nhau đi khắp những chỗ đẹp của thành phố, họ đến một lâu đài và thuê một căn hộ. Ở đấy có một số thương nhân lão làm quen khi vừa mới đến, mời họ cùng tập hợp ăn uống với nhau và giới thiệu đứa cháu hờ.
Tiệc xong trời vừa tối. Aladdin muốn xin phép chú ra về nhưng lão phù thuỷ không muốn để cậu đi một mình, đích thân đưa cậu về với mẹ. Thấy con trai ăn mặc đẹp đến thế bà mẹ vui mừng khôn xiết, rối rít cám ơn ông chú đã chi tiêu nhiều cho con mình:
- Chú thật độ lượng, chị không biết làm thế nào để cám ơn lòng hào phóng của chú, chị biết con chị không xứng đáng với điều tết lành chú đưa lại nếu như nó không cố gắng đáp ứng được ý chú định xây dựng cho nó một cơ ngơi làm ăn vững vàng. Riêng chị - Bà nói thêm - chị vô cùng cảm kích, chúc chú trường thọ để chứng kiến lòng biết ơn của con trai chị thể hiện tất nhất ở cách quản lý cửa hàng theo lời chú dạy.
Lão phù thuỷ đáp:
- Aladdin là một đứa trẻ ngoan biết nghe lời, và tôi nghĩ chúng tôi sẽ làm được điều gì đó cớ kết quả. Chỉ phiền là chưa thể thực hiện lời hứa vào ngày mai, thứ sáu, các cửa hàng đóng cửa hết, thương nhân chỉ vui chơi, đành để lại ngày thứ bảy. Nhưng ngày mai tôi sẽ đến đưa cháu đi chơi ở các công viên, chỗ giới khá giả lui tới. Có lẽ nó chưa biết gì về những trò giải trí ở đấy, cho đến nay nó chỉ tiếp xúc với trẻ con, phải cho cháu gặp người lớn.
Lão phù thuỷ cáo lui. Aladdin vô cùng sung sướng vì đã được diện quần áo sang trọng, tận hưởng trước một niềm vui lớn được dạo quanh thành phố vốn rất đẹp và dễ chịu.
Hôm sau cậu dậy sớm, ăn mặc tử tế chờ chú đến đưa đi. Có vẻ như chờ lâu, cậu nóng lòng mở cửa, đứng ở bậc thềm nhìn ngóng. Thấy lão, cậu báo tin với mẹ và chào từ biệt bà, đóng cửa lại chạy đến vớl ông chú.
Lão phù thuỷ thấy cậu, vuốt ve và cười cợt nói:
- Nào, cháu thân yêu, hôm nay ta muốn cho cháu thấy những điều còn kỳ diệu hơn nhiều những lâu đài tuyệt vời, với những khu vườn tươi tốt kia.
Trước mỗi lâu đài lão lại hỏi cậu thấy có đẹp không, Aladđin, lại đáp:
- Thưa chú, đây lại là một toà đẹp hơn những toà chúng ta vừa đi qua.
Tuy nhiên họ mỗi lúc một tiến dần ra phía ngoài thành phố mà lão phù thuỷ vừa tinh ranh muốn đi xa hơn nữa để thực hlện ý định trong đầu. Thừa dịp vào trong một khu vườn, lão đến ngồi gần chiếc bể lớn có nước chảy ra từ mõm một con sư tử bằng đồng đen, giả vờ mệt để nghỉ.
- Cháu ạ - lão nói - chắc cháu cũng mệt như chú, chúng ta nghỉ một lúc cho lại sức để tiếp tục đi dạo.
Lão lấy ở thắt lưng ra một túi bánh và các loại quả cây bày trên thành bể, chia đôi bánh và để Aladdin chọn nhũng quả mình thích. Trong bữa ăn tạm đó, lão khuyên cậu cháu hờ thôi lêu lổng với bọn trẻ con nên quan hệ với những người lớn tuổi thông thái và không ngoan để tranh thủ nghe họ và học hỏi qua những lời trao đổi của họ. Lão bảo: ''Rồi cháu sẽ là người lớn như họ, sẽ sớm quen nói những lời tất đẹp theo gương họ''. Ăn xong họ đứng dậy tiếp tục đi qua nhiều khu vườn cách nhau bằng nhiều hào nhỏ làm ranh giới nhưng vẫn qua lại được: Những người dân ở kinh thành này có lòng tin vào nhau, không cần phải bảo vệ kỹ hơn để ngăn chặn việc làm hại lẫn nhau. Không ai nhận thấy lão phù thuỷ đã đưa Alađdin qua những khu vườn khá xa, qua những cánh đồng gần đến rừng núi.
Aladdin suốt đời chưa đi nhiều như thế, thấy rất mệt mỏi. Cậu nói với lão phù thuỷ:
- Chú ơi, chúng ta đi đâu vậy? Đã qua những khu vườn rất xa và cháu chỉ thấy rừng núi. Nếu đi nữa không biết cháu còn đủ sức trở về thành phố không?
- Can đảm lên cháu, ta muốn cho cháu thấy một khu vườn tuyệt vời hơn rất nhiều những khu cháu vừa thấy. Không xa đây đâu, chỉ một bước chân nữa thôi và tới nơi, cháu sẽ không thấy phí công chút nào.
Aladdin bị thuyết phục, lão phù thuỷ còn dẫn cậu đi rất xa, vừa đi vừa kể những chuyện vui làm cậu thấy con đường đỡ buồn và đỡ mệt mỏi hơn.
Cuối cùng họ đến giữa hai ngọn núi thấp ngang nhau, giữa là một khu đồi hẹp. Đấy là nơi đáng chú ý mà lão phù thuỷ muốn đưa Aladdln đến để thực hiện một ý đồ đã đưa lão từ cuối châu Phi đến đất nước Trung Hoa. Lão nói với cậu:
Chúng ta không đi xa hơn nữa; ta muốn cho cháu thấy ở đây những vật khác thường người đời không biết và khi thấy cháu sẽ cám ơn ta đã cho cháu chứng kiến những kỳ quan có một không hai. Trong lúc ta chuẩn bị, cháu thu thập mọi cành lá xung quanh, những ìoại khô nhất để đất lửa.
Aladdin dồn rất nhiều rác rưởi thành một đống to. Lão phù thuỷ châm lửa và trong lúc cành lá bùng cháy, lão vứt vào đấy một loại bột thơm đã chuẩn bị sẵn. Một làn khói dày đặc bốc lên, lão quay hết phía này sang phía khác và lẩm nhẩm những cậu thần chú mà Aladdin, chẳng hiểu gì.
Cùng lúc ấy mặt đất nơi đó rung chuyển, trước mặt hai người lộ ra một tảng đá rộng khoảng một bộ rưỡi vuông và dày một bộ bằng phẳng, giữa gắn chặt một vòng đồng đen dùng nâng tảng đá. Alađđin sợ hãi thấy những gì xảy ra trước mắt, muốn bỏ chạy. Cần đảm bảo bí mật, lão phù thuỷ giữ cậu lại, mắng và tát một cái mạnh đến nỗi cậu ngã ra đất và răng cắn vào miệng đến chảy máu Cậu bé khốn khổ run rẩy khóc nói:
- Chú ơi, cháu đả làm gì mà chú đánh cháu đau như vậy?
- Ta có lý do để đánh - Lão phù thuỷ trả lời - Ta là chú, bây giờ thay thế bố, cháu không được cãi lại. Nhưng cháu ạ - Lão dịu lại nóỉ thêm - Đừng sợ, ta không đòi hỏi gì cháu ngoài việc theo đúng lời ta bảo nếu cháu muốn cố gắng đạt được và xứng đáng với những món lợi lớn ta làm cho cháu.
Những lời hứa ngọt ngào ấy làm Aladdin yên lòng và khi thấy cậu đã hoàn toàn bình tĩnh, lão tiếp tục nói:
- Cháu đã thấy đlều gì xảy ra nhờ bột thơm và lời thần chú. Nên biết hiện tại dưới tảng đá này có một kho báu dành riêng cho cháu, người mà một ngày nào đó sẽ giàu hơn tất cả những ông vua lớn nhất trên thế giới. Điều ấy là sự thực vì không ai trên đời này ngoài cháu được phép sờ vào tảng đá, nâng lên để chui vào. Cả ta cũng không được sờ vào và xuống kho báu khi đã mở. Cháu phải thực hiện đúng từng điểm theo lời ta bảo. Công việc có kết quả rất lớn đối với cháu và với ta.
Aladdin vô cùng ngạc nhiên về điều mình thấy và những gì vừa nghe ông chú nói về kho báu sẽ làm cậu sung sướng cả đời. Quên hết chuyện vừa bị đánh mắng cậu đứng dậy nói với lão phù thuỷ:
Nào! Thưa chú, cần làm gì đây? Chú ra lệnh đi, cháu sẵn sàng vâng lời.
- Cháu của ta, ta hân hoan thấy cháu đồng ý- Lão vừa ôm hôn cậu vừa nói - Lại gần đây, cầm lấy chiếc vòng nâng tảng đá lên.
- Nhưng thưa chú, cháu không đủ sức nâng nó lên; chú phải giúp cháu.
- Không, cháu không cần chú giúp, chúng ta sẽ không làm được gì nếu ta giúp cháu, cháu nâng lên một mình thôi. Cứ gọi tên bố cháu và tên ông cháu khi cầm chiếc vòng nhấc lên, cháu sẽ thấy không khó khăn gì.
Aladdin làm như lão phù thuỷ bảo, nâng tảng đá lên dễ dàng đặt sang bên cạnh.
Tảng đá được cất đi lộ ra một căn hầm nhỏ sâu ba đến bốn bộ, có một cánh cửa và bậc thang đi xuống. Lão phù thuỷ bèn nói với Aladdin:
Cháu của ta, hãy làm đúng như ta bảo. Cháu đi xuống căn hầm, đến bậc thang cuối cùng sẽ thấy cánh cửa mở đưa cháu đến một vòm rộng chia làm ba phòng lớn liên tiếp nhau. Trong mỗi phòng cháu thấy bên phải và bên trái có bốn chiếc vại lớn bằng đồng đen, đựng đầy vàng và bạc nhưng đừng sờ vào. Trước khi vào phòng thứ nhất cháu vén áo buộc chặt vào người; vào trong ấy cháu đi thẳng qua phòng thứ hai không dừng lại, từ đó qua phòng thứ ba cũng không dừng lại. Chú ý đừng lại gần và đụng vào những bức tường, nếu đụng vào tường, đù chỉ là áo đụng vào cháu cũng chết ngay. Cuối gian phòng thứ ba có một cánh cửa mở ra khu vườn cây rất đẹp đầy quả. Cháu cứ đi thẳng, qua khu vườn theo con đường dẫn đến bậc thang năm mươi bậc đưa lên một cồn đất. Trên cồn đất cháu thấy một cái hốc và trong hốc có chiếc đèn thầp sáng. Cháu cầm lấy đèn, tắt đi, vứt bỏ ngọn đèn, đổ nước trong đó ra, bỏ đèn vào lòng mình đưa ra cho chú. Cháu đừng sợ hỏng áo vì nước ấy không phải dầu và khi không còn nước, đèn sẽ khô ráo. Nếu cháu thích quả cây, cứ hái bao nhiêu cũng được, việc ấy không bị cấm.
Nói thế xong, lão phù thuỷ rút chiếc nhẫn đeo ở ngón tay, đeo vào một ngón tay của Aladdin nói là để dự phòng những gì xấu có thể gặp phải và dặn dò nhớ kỹ lời lão. Tiếp đó lão bảo:
- Đi đi, cháu của ta, bước xuống táo bạo lên, chúng ta sắp giàu suất đời rồi.
Aladdin nhẹ nhàng nhảy vào căn hầm, xuống tận bậc đưới cùng, vào cửa thấy ba gian phòng như ông chú tả, và cậu cẩn thận đi qua các phòng, qua khu vườn không dừng lại Cậu leo lên cồn đất, cầm lấy chiếc đèn đang cháy trong hốc, vứt ngọn đổ nước trong đèn ra, thấy khô ráo như lão phù thuỷ đã nói bèn bọc vào lòng. Cậu xuống khỏi cồn đất, đứng lại trong vườn ngắm những quả cây đã thấy khi đi qua. Cây trong vườn đầy những quả khác thường, mỗi cây mang quả màu sắc khác nhau. Có những quả trắng, ánh lên và trong suốt như thuỷ tinh, những quả đỏ, xanh, tím, hơi vàng và nhiều màu khác. Những quả cây màu trắng là ngọc, lấp lánh và trong suốt là kim cương, màu đỏ là hồng ngọc, màu xanh là ngọc bích vân vân... Những quả ấy to lớn và hoàn hảo người ta chưa từng thấy trên đời. Aladdin không biết giá trị, không xúc động gì trước những quả ấy, không thích bằng những quả vả, nho và những quả ngon khác phổ biến ở Trung Hoa. Cậu hình đung đây chỉ là những quả thuỷ tinh màu, không đáng giá hơn nhiều. Tụy vậy những màu săc muôn vẻ, mỗi quả lại đẹp và to lớn khác thường làm cậu muốn hái đủ các loại nhét đầy hai túi chiếc áo và hai túi vải mới lão phù thuỷ mua cho. Khi áo đã căng phồng, cậu buộc vào hai bên thắt lưng còn giắt vào gấp nếp thắt lưng và không quên nhét vào bụng, giữa áo dài và sơ mi quấn quanh người.
Aladdin mang bao nhiêu của cải như thế mà không biết, trở lại gấp con đường để ông chú khỏi phải chờ lâu. Sau khi qua ba gian phòng cẩn thận như lần trước, cậu bước lên lối vào căn hầm chỗ lão phù thuỷ đang nóng lòng chờ đợi. Thấy lão, cậu nói:
- Thưa chú, chú đưa tay kéo glúp cháụ lên.
Lão phù thuỷ bảo:
- Cháu ạ, đưa chiếc đèn cho chú trước đã khỏi bị vướng.
- Xin lỗi chú, nó không làm vướng cháu đâu, lên đến nơi cháu sẽ đưa.
Lão phù thuỷ cương quyết muốn Aladdin đưa chiếc đèn trước khi kéo cậu lên và Aladdin vướng chiếc đèn với các loạl quả cây mang khắp người nhất định từ chối đưa chiếc đèn trước khi lên khỏi hầm. Thất vọng về sự chống cự của chàng trai, lão phù thuỷ điên lên vì giận, ném một ít bột thơm vào lửa, vừa đọc mấy câu thần chú thì tảng đá tự chuyển ìại chỗ cũ đóng cửa hầm, đất lại phủ lên trên như trước lúc lão và Aladdin mới đến.
Chắc chắn lão phù thuỷ không phải em ông Mustafa thợ may, do đó không phải là chú của Aladdin. Lão là người châu Phi, sinh ra tại đó, châu Phi là một nước có nhiều người hành nghề phù thuỷ hơn bất cứ chỗ nào. Lão tập làm từ khi còn trẻ và sau khoảng bốn mươi năm làm phù phép, bói toán đọc sách phù thuỷ lão phát hiện ra trên đời có một chiếc đèn thần, nếu chiếm được sẽ có quyền lực hơn bất cứ một ông vua nào trên thế giới. Theo một đợt bói phong thuỷ, lão biết chiếc đèn đang để trong đất nước Trung Hoa, ở một chỗ mà trong quang cảnh như đã nói trên. Tin chắc vào sự phát hiện đó lão tiến hành một cuộc đi xa, vất vả, đến gần thành phố tiếp cận với kho báu. Nhưng tuy chiểc đèn đúng ở chỗ đã biết, lão không được phép tự mình nâng tảng đá lên và xuống đưới căn hầm. Phải có một người khác xuống đấy lấy chiếc đèn đưa vào tay lão. Vì thế lão làm quen với Aladdin, cậu có vẻ là một đứa trẻ vô tư thích hợp với việc lão cần và lão quyết định khi đã có chiếc đèn, sẽ phù phép đóng cửa hầm, hy sinh cậu bé để phi tang. Lão tát Aladdin và ra oai với cậu nhằm làm cậu sợ nhất nhất vâng lời để khi bảo đưa chiếc đèn thần cậu phải đưa ngay. Sự việc diễn ra ngược lại ý muốn, lão vội độc ác thủ tiêu Aladdin, sợ chần chừ sẽ có người nghe, biết điều muốn giấu kín.
Khi lão phù thuỷ thấy không còn hy vọng lão lên đường trở về châu Phi, không qua thành phố nơi lão ra đi với Aladdin, sợ nhìều người đã thấy cùng đi với cậu mà trở lại không có cậu.
Xem ra người ta không được nghe nói về Aladdin nữa. Nhưng ngay cả người muốn cậu biến mất mãi mãi cũng quên việc lão đã đeo vào ngón tay Aladdin một chiếc nhẫn có thể cứu cậu.
Aladdin chưa hề nghĩ đến tâm địa độc ác của ông chú mạo danh chỉ biết đến những âu yếm và điều tết lão đã làm cho cậu. Khi thấy bị chôn sống, cậu gọi chú hàng nghìn lần, kêu lên sẵn sàng đưa chiếc đèn nhưng vô ích. Đành ở trong cảnh tối tăm của căn hầm, sau khi khóc chán chê cậu xuống cuối thang định ra ngoài ánh sáng khu vườn đã đi qua. Bức tường trước đây mở ra vì phép lạ đã tự đóng lại rồi, cậu sờ soạng khắp nơi không thấy cánh cửa, cậu càng kêu khóc gấp bội, ngồi ở bậc thang căn hầm không hy vọng gì thấy lại ánh sáng, buồn bã chắc chắn về cái chết đến gần.
Aladdin trong tình trạng đó hai ngày không ăn uống. Ngày thứ ba thấy cái chết không tránh khỏi, cậu giơ hai tay lên kêu trời. Với cử động chắp hai tay ấy, cậu vô tình xát mạnh chiếc nhẫn lão phù thuỷ đeo vào ngón tay cho mà chưa biết quyền lực của nó. Ngay lập tức một vị thần khuôn mặt đồ sộ, cái nhìn đáng sợ, sừng sững hiện ra trước mặt như từ dưới đất lên, đầu đung tới vòm hầm, nói với Aladdin:
- Người muốn gì? Tôi sẵn sàng vâng lệnh Người như kẻ nô lệ của những người có chiếc nhẫn ở ngón tay, tôi và những kẻ nô lệ khác của chiếc nhẫn đều thế.
Ở mọi trường hợp khác, Aladdin vốn không quen thấy như vậy, sẽ sợ hãi và không nói nên lời trước khuôn mặt kỳ lạ ấy. Nhưng lo lắng về mối nguy hiểm hiện tại, cậu không ngập ngừng bảo:
- Ông là ai cũng thế, nếu có quyền lực thì đưa tôi ra khỏi nơi này.
Cậu vừa dứt lời, mặt đất mở ra và cậu đã đứng ngoài cửa hầm, đúng ở chỗ lão phù thuỷ dẫn đến.
Aladdin ở lâu trong đêm tối, lúc đầu khó chịu đựng được ánh sáng ban ngày. Mắt quen dần, cậu nhìn quanh mình thấy rất lạ không có lỗ hổng trong đất, không hiểu mình ra khỏi lòng đất bằng cách nào. Chỉ còn chỗ đất rác làm cậu nhận ra tương đối căn hầm ở đâu. Ngoảnh về phía thành phố, cậu thấy những khu vườn quanh đấy và nhận ra con đường lão phù thuỷ đã đẫn cậu đến đây. Cám ơn trời đất đã cho mình được trở về cuộc sống, cậu theo đường ấy trở lại thành phố và mệt nhọc lê về đến nhà. Vui mừng gặp lại mẹ, thêm vào sức yếu vì ba ngày không ăn, cậu ngất đi một lúc. Bà mẹ đã khóc con vì mất tích hay đã chết, thấy cậu trong tình trạng ấy, lo chạy chữa để cậu tỉnh lại. Bước đầu hồi phục, những lời đầu tiên của cậu là:
- Mẹ ơi, trước hết cho con ăn đã, đã ba ngày nay con không được ăn tí gì.
Bà mẹ đưa lại cho con những gì mình có,và bảo:
- Con trai, đừng ăn vội vàng rất nguy hiểm, ăn từng ít một rồi sau hãy ăn tuỳ thích, con cần nghỉ ngơi, thậm chí mẹ không muốn con nói chuyện. Khi đã khoẻ con sẽ kể lại với mẹ: Được gặp lại con mẹ rất yên tâm sau bao lọ lắng từ hôm thứ sáu thấy trời tối mà con không về nhà.
Aladdin nghe lời mẹ, bình tĩnh ăn dần dần, uống từng ngụm. Xong bữa, cậu nói với mẹ:
Mẹ ơi, con rất buồn là mẹ đã dễ dàng phó thác con cho cái người có ý định thủ tiêu con và tròng lúc con đang nói đây, hắn chắc chắn con đã chết rồi. Mẹ nghĩ hắn là chú con và con cũng tưởng thế. Chài Chúng ta nghĩ thế nào khác được trước một người âu yếm, tốt với con và hứa hẹn những việc làm có lợi như thế? Mẹ biết không, hắn chỉ là một kẻ phản phúc, độc ác, lừa lọc. Hắn tốt với con, hứa hẹn như thế để đi tới mục đích thủ tiêu con như con đã nói mà cả mẹ và con đều không biết vì nguyên nhân gì. Mẹ sẽ hiểu ra khi nghe con kể lại cặn kẽ sự việc xảy ra từ khi con đi với hắn cho đến khi hắn thực hiện ý đồ.
Aladdin thuật lại những gì từ ngày thứ sáu lão phù thuỷ đến dẫn cậu đi xem nhũng lâu đài, những khu vườn bên ngoài thành phố trên đường đến hai ngọn núi, chỗ lão phù thuỷ làm phép lạ vứt một loại bột thơm vào ngọn lửa và đọc mấy câu thần chú, mặt đất mở ra ngay và có một lối vào căn hầm dẫn tới kho báu vô giá. Cậu không quên cái tát của lão phù thuỷ và sau đó dịu lại, lão hứa hẹn nhiều, đeo chiếc nhẫn vào ngón tay cậu, bảo đi xuống căn hầm. Cậu không bỏ sót một chút nào về những gì mình đã thấy qua ba gian phòng, khu vườn và cồn đất. Sau đó cậu đưa cho mẹ xem chiếc đèn cậu đã lấy ở đó cùng những quả cây trong suốt, nhiều màu đã hái khi trở lại bỏ đầy hai túi vải. Những quả ấy thực ra là những đá quý, lóng lánh như mặt trời, chiếu sáng cả gian phòng, có thể đoán được giá trị rất lớn. Mẹ Aladdin cũng chẳng biết gì về những cái đó hơn con trai, bà được nuôi dưỡng trong điều kiện khốn khó, chồng bà không giàu có để cho bà những đá quý, bà cũng không bao giờ thấy những đá quý như vậy ở nhà người thân hoặc hàng xóm. Vì vậy không lạ lùng gì khi bà nhìn chúng như những vật ít giá trị, có chăng chỉ làm vui mắt vì nhiều màu sắc. Do đó Aladdin để những túi đá quý phía sau chiếc ghế cậu đang ngồi. Cậu kể tiếp câu chuyện từ lúc sắp sửa ra khỏl cửa hầm, vì từ chối đưa cho lão phù thuỷ chiếc đèn, lão ta phù phép làm cửa hầm đóng ngay lại. Cậu không ngăn được nước mắt chảy khi kể tình trạng khổ sở dưới hầm lúc thấy mình bị chôn sống trong lòng đất và chỉ trở lại trên đời nhờ vô tình chà xát vào chiếc nhẫn. Kể xong cậu nói với mẹ:
- Phần còn lại mẹ đã biết không cần nói thêm gì. Đây là cuộc phiêu lưu của con, mối nguy hiểm con trải qua từ khi mẹ không thấy con nữa.
Mẹ Aladdin chăm chú nghe hết câu chuyện thần kỳ lạ lùng đã làm đau lòng người mẹ yêu thương con mình tuy nó có những khuyết điểm. Trong những chỗ cảm động nhất thể hiện rõ tmh gian đốl của lão phù thuỷ bà không ngăn được cử chỉ giận dữ căm ghét của mình. Con trai kể xong, bà chửi rủa tên lừa bịp hàng tràng, gọi hắn là lừa đảo, gian dối, dã man, giết người, phù thuỷ, kẻ thù phá hại loài người. Bà nói thêm:
- Đúng đấy con ạ, hắn là một lão phù thuỷ, là kẻ thù của mọi người, phù thuỷ quan hệ với ma quỷ bằng những phù phép, hành động bí hiểm. Nhờ Trời con thoát được cái chết không tránh khỏi vì việc làm độc ác của hắn không thực hiện được .
Bà còn nói nhiều điều, căm ghét lão phù thuỷ lừa gạt con trai bà nhưng nhận thấy Aladdin đã ba ngày không ngủ, bà bảo con đi nằm và bà cũng đi ngủ.
Chàng trai ngủ say suốt đêm, chỉ thức đậy rất muộn vào sáng hộm sau. Cậu ra gặp mẹ, câu đầu tiên cậu nói với mẹ là đói, rất vui sướng được mẹ cho ăn trưa. Bà mẹ trả lời:
- Than ôi? Con trai, mẹ không còn một mẩu bánh cho con; hôm qua con đã ăn hết số thực phẩm ít ỏi còn lại trong nhà. Nhưng con chịu khó một lúc, mẹ có một số sợi vải đưa đi bán, chẳng mấy chốc sẽ mua bánh và thức ăn về chúng ta cùng ăn tối.
- Mẹ ơi - Aladdin nói - Mẹ để dành sợi vải vào dịp khác; đưa con chiếc đèn con đem về hôm qua, con sẽ đi bán lấy tiền mua thứ gì ăn trưa, tối và có lẽ sẽ đủ cho cả bữa khuya nữa đấy.
Bà mẹ vào chỗ bà đã cất giữ lấy đèn ra:
- Đây bà nói với con - nhưng bẩn lắm, lau chùi sạch đi chắc sẽ có giá hơn.
Bà lấy cát mịn và nước để đánh sạch đèn. Vừa xát vào chiếc đèn, ngay lập tức trước mặt bà và cậu con xuất hiện một vị thần xấu xí, to lớn đồ sộ, giọng oang oang:
- Người muốn gì? .Tôi sẵn sàng vâng lệnh như kẻ nô lệ của Người, nô lệ của những ai có đèn trong tay, tôi và những nô lệ khác của đèn đều thế.
Mẹ Aiadđin không còn sức để trả lời. Thấy khuôn mặt xấu xí, đáng sợ, vừa nghe thần cất tiếng nói bà đã kinh hãi ngã lăn ra bất tỉnh.
Aladđin đã thấy thần xuất hiện gần như thế dưới căn hầm, nên không bỏ phí thì giờ suy xét, cầm ngay lấy chiếc đèn bổ sung thiếu sót của mẹ, cậu trả lời thay bà:
- Tôi đói, đem thức gì ăn đến cho tôi.
Vị thần biến mất, một lúc sau trở lại đội trên đầu một khay lớn bằng bạc đựng mười hai đĩa bạc đầy thức ăn thật ngon cùng sáu chiếc bánh trắng như tuyết, hai chai rượu vang và hai chiếc ly bạc cầm tay. Ông ta đặt những thứ ấy lên ghế xô-pha rồi biến mất.
Việc ấy xảy ra chỉ trong giây lát trong lúc mẹ Aladdin đang bất tỉnh. Cậu con trai phải vẩy nước lên mặt mẹ đến mấy lần để giúp bà hoàn hồn và có lẽ cả mùi vị thức ăn ngon vị thần đưa tới cũng có góp phần tác động, nên một lúc sau bà tỉnh ìại. Aladdin nói:
- Mẹ ơi, việc đó không là gì đâu, mẹ đậy và lại ăn đi, đây là những thứ làm mẹ yên lòng và thoả mãn yêu cầu ăn uống của con. Đừng để nguội lạnh nhửng thức ăn ngon như thế, chúng ta ăn thôi.
Bà mẹ vô cùng ngạc nhiên khi thấy khay lớn đầy các thứ ăn ngon, bánh, rượu và mùi thơm toả ra từ những đa thức ăn, hỏi con:
- Con ơi, do đâu mà dồi dào đến thế và chúng ta phải ơn ai về sự hào phóng này? Có phải nhà vua biết chúng ta nghèo khó đã chiếu cốcho chúng ta không?
- Thưa mẹ, chúng ta lại bàn ăn thôi, mẹ cũng cần như con, ăn xong con sẽ nói rõ với mẹ.
Họ ngồi vào bàn, ăn rất ngon miệng như chưa bao giờ có được một bữa ăn đầy đủ.
Trong lúc ăn, mẹ Aladdin nhìn ngắm không mỏi khay và những đa thức ăn tuy không biết rõ bằng bạc hay chất liệu gì vì chưa từng thấy những dụng cụ như vậy, nói đúng ra là không biết giá trị của chúng mà chỉ sự mới lạ của chúng đã đủ làm bà thán phục, con trai bà cũng chẳng biết gì hơn.
Aladdin và mẹ không nghĩ đó chỉ là một bữa ăn trưa đơn giản mà họ dùng làm bữa ăn tối luôn. Những thức ăn tuyệt ngon làm họ thấy ngon miệng và vì trong lúc thức ăn còn nóng, họ nghĩ nhập hai bữa ăn làm một cũng tốt, không phải ăn làm hai lần. Bữa ăn kép xong, còn lại không chỉ cho bữa ăn khuya mà khá đủ cho hai bữa ăn no nê vào ngày hôm sau.
Sau khi mẹ Aladdln ăn xong và cất riêng thức ăn còn lại cho những bữa sau bà đến ngồi trên ghế xô pha gần con mình.
- Aladdin - Bà nói - Ta nóng lòng muốn nghe câu chuyện con đã hứa.
Aladdin kể lại đúng việc xảy rạ giữa vị thần và cậu trong lúc bà mẹ ngất đi.
Bà rất ngạc nhiên về lời kể của con và sự xuất hiện của vị thần, liền hỏi con:
- Con muốn nói gì về những vị thần của con thế? Từ khi ta sinh ra đến nay, không nghe nói có ngườl nào đã gặp thần thánh. Tại sao vị thần xấu xí ấy đến trước mặt mẹ? Vì lẽ gì ông ấy nới với mẹ chứ không phải với con, người mà ông đã xuất hiện trước mặt dưới căn hầm?
- Thưa mẹ, vị thần vừa rồi không phải là người đã đến với con. Họ giống nhau về đáng đlệu khổng lồ nhưng hoàn toàn khác nhau về khuôn mặt và cách ăn mặc. Họ thuộc về những người chủ khác nhau. Nếu mẹ nhớ lại, người con đã thấy xưng là nô lệ của chiếc nhẫn ở ngón tay con và người mẹ vừa thấy là nô lệ của chiếc đèn mẹ cầm trong tay.
- Thế nào? Như vậy chiếc đèn của con là nguyên nhân vị thần đáng sợ ấy nói với mẹ? Chà, con ơi? Con cất chiếc đèn khỏi mắt ta, để vào đâu tuỳ thích, ta không muốn sờ mó đến nố nữa. Ta bằng lòng vứt nó hoặc bán đi còn hơn nguy cơ chết vì sợ hãi. Nếu tin mẹ, con cũng nên bỏ chiếc nhẫn đi. Không nên quan hệ với các vị thần, đó là những ma quỷ mà các nhà tiên tri đã nói.
- Thưa mẹ, nếu mẹ cho phép, con sẽ không bán nó như đã dự định, chiếc đèn sẽ rất có ích cho mẹ con chúng ta. Mẹ không thấy nó vừa cho ta những gì à? Phải để nó tiếp tục cung cấp cho chúng ta ăn, mặc. Chắc mẹ cũng đoán được phải có lý đo gì ông chú hờ độc ác của con mới có hành động ấy, làm một chuyến đi dài và vất vả như vậy. Chính để chiếm được chiếc đèn thần, ham muốn hơn cả mọi vàng bạc ông ta biết có trong các phòng và con cũng đã thấy tận mắt. Ông ta biết rõ giá trị của chiếc đèn nên chẳng đòi hỏi gì khác ngoài kho báu dồi đào ấy. Sự tình cờ đã cho chúng ta biết quyền lực của đèn, chúng ta phải sử dụng nó, cho có lợi nhưng phải thật kín đáo, để chòm xóm khỏi thèm muốn và ghen ghét chúng ta. Con sẽ cất giấu một chỗ khuất mắt mẹ, sẽ tìm lại khi cần. Về chiếc nhẫn con cũng không vứt bề được, không có nhẫn mẹ đã không bao giờ gặp lại con nữa. Mẹ cho con giữ nó lại và luôn đeo nó vào ngón tay như vật quý. Biết đâu con sẽ gặp một hiểm nguy khác, mẹ và con không lường được và chính nó sẽ cứu con?
Aladdin nói rất có lý, mẹ cậu không có gì bàn cãi thêm. Bà nói:
- Con trai, con hãy làm như con nghĩ. Riêng mẹ, mẹ không muốn dính líu với các vị thần. Mẹ nói rồi, mẹ không dính líu về chuyện đó hơn nữa.
Chiều tiếp théo và bữa khuya ăn nốt thức ăn vị thần đã đưa tới. Hôm sau Aladdin không chờ đói thôi thúc, cầm một chiếc đĩa bạc giấu dưới áo đem đi bán ngay từ sáng sớm. Cậu gặp một người Do Thái trên đường, kéo riêng ra đưa chiếc đa cho xem hỏi có muốn mua không.
Ngựời Do Thái, tinh ranh, cầm chiếc đĩa ngắm nghía, biết ngay thuộc loại bạc tốt, hỏi giá bao nhiêu. Aladdin vốn không biết giá trị và chưa mua bán loại này bao giờ đành bảo lão tự nói giá trị của chiếc đĩa và cậu tin tưởng lão thành thật. Người Do Thái bối rối trước thái độ ngây thơ của Aladdin, nhưng lão nghĩ rằng cậu không biết chất lượng và giá trị, nên rút ra một đồng tiền vàng chỉ là một phần sáu mươi hai, giá bán chiếc đĩa đưa cho cậu. Aladdin vội cầm lấy đồng tiền và đi ngay khiến người Do Thái chưa hài lòng về món lời chưa thật lớn, ông ta bực mình vì đã không nghĩ Aladdin không biết giá, lẽ ra phải trả tiền ít hơn nhiều. Lão ta định đi theo chàng trai lấy lại một ít nhưng Ataddin chạy đã xa đuổi không kịp.
Aladdin trên đường về nhà, dùng đồng tiền vàng mua bánh cho mẹ và mình, số tiền thừa đưa cho mẹ đi chợ mua thực phẩm, cần thiết để mẹ con ăn mấy ngày.
Họ tiếp tục sống như thế, nghĩa là Aladdin bán tất cả những chiếc đĩa cho người Do Thái lần lượt đến chiếc thứ mười hai theo như lần đầu tiên mỗi khi gia đình hết tiền. Người Do Thái đứa một đồng tiền vàng như lần trước, không dám bớt sợ mất món hời quá lớn lão trả tất cả những chiếc đĩa cùng một giá. Đến lượt chiếc khay, nặng gấp mười lần mỗi chiếc đĩa cậu đã đưa cho người Do Thái đem về nhà; lão ta sau khi cân trọng lượng, trả ngay mười đồng vàng, Aladdin chấp nhận.
Khi tiêu hết mười đồng tiền vàng, cậu lại nhờ vào đèn. Cầm chiếc đèn trong tay tìm chỗ mẹ đã xát vào đó, cậu xát như mẹ đã làm, vị thần trước đây xuất hiện ngay. Do Aladdin xát nhẹ hơn, thần nói với giọng dịu hơn:
- Người muốn gì? Tôi sẵn sàng vâng lời như kẻ nô lệ của Ngườỉ và tất cả những ai có đèn trong tay, tôi và những nô lệ khác của đèn cũng thế.
Aladdin bảo:
- Tôi đói, mang cho tôi thức gì ăn.
Thần biến đi, một lúc sau trở lại đội một bữa ăn như lần trước để trên ghế xô-pha và biến mất.
Mẹ Aladdin được báo về ý định của con, ra ngoài làm một số công việc để không ở nhà khi thần đèn xuất hiện. Ít lâu sau đó bà trở về, cũng gần ngạc nhiên như lần trước về tác dụng kỳ diệu của chiếc đèn. Hai mẹ con ngồi vào bàn và sau khi ăn xong phần còn lại của thức ăn vẫn còn đủ cho hai ngày sau.
Khi Alađdin thấy trong nhà không còn bánh, thực phẩm khác, cũng không có tiền để mua, cậu cầm một chiếc đĩa bạc đi tìm người Do Thái để bán. Qua cửa hiệu một người thợ kim hoàn một người đáng kính vì già cả; trung thực và ngay thẳng, bỗng ông gọi cậu vào bảo:
- Con trai, ta thấy anh đi qua đây nhiều lần cầm cái gì đó như mọi lần đến gặp người Do Thái ấy và trở về không cầm gì nữa, ta hình dung anh đã bán cho ông ta. Có lẽ anh không biết đấy là một tay lừa bịp, thậm chí mánh khoé hơn những người Do Thái khác và những ai đã biết rõ không quan hệ với ông ta. Ta nói thật đấy. Ánh đưa ta xem anh mang cái gì vậy và muốn bán, ta sẽ trả đúng giá nếu phù hợp với ta, nếu không ta sẽ giới thiệu với những nhà buôn khác không lừa bịp anh.
Hy vọng được nhiều tiền hơn, Aladdin rút chiếc đĩa dưới áo ra đưa cho người thợ kim hoàn xem. Ông già biết là bạc tinh khiết, hỏi cậu có bán những chiếc đa loại này cho người Do Thái không và ông ta trả bao nhiêu? Aladdin ngây thơ nói đã bán mười hai chiếc, mỗi chiếc một đồng vàng. Người thợ kim hoàn kết luận:
- Chàl Thằng ăn cướp! Nhưng con trai, việc gì đã làm là xong, không nghĩ đến nữa. Ta cho anh xem chiếc đĩa đáng giá ra sao, đó là loại bạc tốt nhất ta vẫn dùng ở cửa hiệu, anh sẽ biết rõ tay Do Thái lừa anh đến mức nào.
Ông lấy cân ra, cân trọng lượng chiếc đĩa và sau khi giải thích chất lượng bạc, ông lưu ý cậu theo trọng lượng chiếc đĩa, nó giá đến bảy mươi hai đồng vàng, ông đếm trả ngay bằng tiền mặt nói:
- Đấy là giá đúng của chiếc đĩa. Nếu anh nghi ngại cứ đi hỏi những thợ kim hoàn khác tuỳ thích, họ nói đáng giá hơn ta hứa sẽ trả anh gấp đôi. Chúng ta chỉ lãi về công làm đồ trang sức với số bạc chúng ta mua và những người Do Thái chính trực nhất cũng không làm thế.
Aladdin rất cám ơn người thợ kim hoàn về lời khuyên xác đáng, và nhờ đó cậu đã có lợi lớn. Sau đó cậu bán cho ông những chiếc đĩa khác và cả chiếc khay, được trả đúng giá thực trọng lượng. Tuy Aladdin và mẹ có một nguồn tiền bạc vô tận từ chiếc đèn, họ vẫn tiếp tục sống đạm bạc như trước, để dành tiền lại sống một cách lương thiện và mua một số vật dụng cần thiết. Mẹ cậu cũng chỉ tiêu pha, may quần áo dựa vào số tiền mười hai chiếc đĩa và khay bạc bán cho người thợ kim hoàn. Họ sống theo cách đó mấy năm, thỉnh thoảng mồi phải dùng đến đèn thần.
Trong thời gian ấy chàng rất chăm gặp gỡ những người có tiếng tăm trong giới cáe nhà buôn lớn nhất về chăn đệm quý, vải vóc đẹp, tơ lụa và đồ trang sức. Qua những câu chuyện của họ, chàng có được phong thái của tầng lớp quý tộc từ lúc nào không hay đặc biệt qua những cửa hàng trang sức đá quý, chàng biết mình đã lầm tưởng những quả cây trong suốt nhiều màu hái trong khu vườn khi đi lấy đèn chỉ là thuỷ tinh màu, đấy chính là những đá quý rất cao giá. Nhiều lần thấy người ta mua bán các loại đá quý, chàng biết được giá trị của chúng và thấy không có loại nào đẹp và lớn như những quả của chàng, chàng hiếu rõ mình đã có một kho báu vô giá. Chàng khôn ngoan không nói với ai, kể cả với mẹ và đinh ninh sự im lặng đó đưa lại cho chàng một số phận cao sang.
Một hộm dạo chơi trong một khu phố, Aladdin nghe thông báo một mệnh lệnh của nhà vua bắt đóng cửa các hàng quán, các cửa nhà và mọi người phải ở trong nhà đế công chúa Badroulboudour, con gái vua đi qua ra nhà tắm cho đến khi lúc trở về.
Lời thông báo ấy làm Aladdin nảy sinh tò mò muốn nhìn mặt công chúa không che mạng. Chàng có thể làm việc đó bằng cách đứng trong nhà một người quen hé nhìn, song chàng không hài lòng thế vì theo phong tục, công chúa phải che mặt. Để thoả mãn chàng tìm một cách chắc chắn hơn đó là đến đứng phía sau cánh cửa nhà tắm nấp kín để nhìn được mặt công chúa.
Aladdin chờ không lâu. Chàng thấy nàng đi tới với một đoàn thị nữ hộ tống xung quanh và phía sau. Khi cách cánh cửa nhà tắm ba bốn bước, nàng cất tấm mạng che mặt làm vướng víu đi nên Aladdin nhìn thấy nàng thoải mái đi thẳng lại phía chàng.
Cho đến lúc đó Aladdin chưa từng được nhìn người phụ nữ nào khác cởi mạng che mặt ngoài mẹ mình vốn đã là không còn những nét đẹp đáng kể để thấy những người đàn bà khác đẹp hơn. Chàng có nghe nói về sắc đẹp lạ thường của công chúa nhưng chưa có lời nói nào tả được hết vẻ đẹp như chính bản thân sắc đẹp của nàng.
Khi thấy công chúa Badroulbouđour, chàng mất hẳn ý nghĩ mọi phụ nữ đều gần giống như mẹ. Tâm trạng bối rối và tim chàng không thể không hướng về đối tượng vừa làm chàng ngây ngất. Thực vậy, công chúa là cô gái đẹp nhất trên đời. Đôi mắt to tinh nhanh và lóng lánh, cái nhìn hiền dịu và khiêm tốn, mũi cân đối, miệng nhỏ, đôi môi tuyệt đẹp hài hoà. Tóm lại, những nét trên khuôn mặt đều đặn hoàn hảo. Không lạ gì khi Aladdin bị choáng ngợp, thất thần trước vẻ đẹp xưa nay lạ lẫm đối với cậu. Ngoài những nét tuyệt hảo ấy công chúa có một thân hình đầy đặn, phong thái trang nghiêm mà chỉ nhìn thấy nàng người ta đã hết lòng kính trọng.
Khi công chúa vào phòng tắm, Aladdin đứng ngẩn người một lúc, khoan khoái hình đung lại những gì làm chàng say mê tận đáy lòng. Bình tĩnh lại, thấy công chúa đã đi vào chàng có đứng tại chỗ cũng vô lch vì khi ra nàng đã che mặt nên chỉ thấy lưng, chàng đành rút lui khỏi chỗ .
Về đến nhà Aladdin không giấu được mẹ sự bối rối băn khoăn của mình. Bà ngạc nhiên thấy chàng buồn và mơ mộng trái với thường ngày nên hỏi có việc gì xảy ra hay chàng bị ốm. Chàng không trả lời, luôn lơ đãng ngồi xuống ghế xô-pha, bận tâm vẽ lại hình ảnh tuyệt vời của công chúa Badroulboudour. Bà mẹ chuẩn bị bữa ăn khuya không gặng hỏi thêm. Khi xong bà đưa lại gần eùng ăn nhưng chàng con vẫn không hề chú ý. Bà giục chàng ăn mà khó khăn lắm chàng mới thay đổi tư thế ngồi. Chàng ăn ít, cúi mặt, tuyệt đối im lặng; bà mẹ không sao gặng được chàng nói một lời về sự thay đổi khác thường ấy.
Sau bữa ăn, bà mẹ lại muốn hỏi về nỗi buồn sâu nặng ấy nhưng chàng muốn đi nằm hơn là cho mẹ biết chuyện của mình.
Chẳng cần kể lại Aladdin say mê sắc đẹp công chúa Badrouthoudour đã qua một đêm như thế nào, chỉ biết hôm sau ngồi trên ghế trước mặt mẹ đang kéo sợi chàng nói với mẹ như thế này:
- Mẹ ơi, hôm qua ra ngoài khu phố lớn trở về con im lặng mãi làm mẹ phiền lòng, cỏn biết. Con nói để mẹ rõ, con không đau ốm gì như mẹ nghĩ, bây giờ cũng không. Nhưng có thể nói điều con cảm thấy vâ không ngừng trăn trở còn tệ hại hơn một căn bệnh. Con không biết thế nào nhưng nghe con nói chắc mẹ biết rõ.
Trong khu người ta không biết, mẹ cũng không thế biết chiều hôm qua công chúa Badroulboudour, con gái nhà vua đi tắm. Đang đi ngoài đường phố con nghe được tin ấy. Người ta ra lệnh đóng các cửa hàng, vào trong nhà để đảm bảo danh dự cho công chúa, cho nàng tự do đi trên đường. Con đang ở gần nhà tắm, tò mò muốn xem mặt công chúa nên nảy ra ý định đến nấp sau cửa nhà tắm nghĩ rằng nàng sẽ bỏ mạng che mặt lúc bước vào. Mẹ biết cánh cửa được bố trí ra sao rồi và có thể đoán con đã nhìn nàng thoải mái. Thực thế, nàng bỏ mạng ra khi vào nhà tắm và con có diễm phúc chiêm ngưỡng sắc đẹp của công chúa. Thưa mẹ đấy là nguyên cớ tình trạng của con khi về nhà và giữ im lặng cho đến bây giờ. Con yêu công chúa dữ dội đến mức không diễn tả được với mẹ; lòng say mê của con lúc nào cũng mãnh liệt, tươi nguyên và con cảm thấy tình yêu ấy chỉ được thoả mãn khi lấy được công chúa Badroulboudour nên con quyết định phải xin hỏi nàng làm vợ .
Mẹ Aladdin chú ý nghe con nói đến hết nhưng khi biết ý định của con là xin hỏi công chúa làm vợ, bà phá lên cười Aladdin muốn tiếp tục nói nhưng bà lại ngắt lời con:
- Này, con ơi, con nghĩ gì thế? Phải mất trí rồi mới nói với mẹ điều ấy.
- Mẹ ơi, xin cam đoan với mẹ, con không mất trí đâu, rất tỉnh táo, con đã lường trước mẹ sẽ mắng con điên rồ, quái gở và những gì mẹ có thể làm, nhưng tất cả những điều đó không ngăn cản được con nói một lần nữa với mẹ là con đã quyết định xin nhà vua cho hỏi công chúa Badroulboudour làm vợ.
- Thực ra con ơi, - bà mẹ lại rất nghiêm chỉnh nói với con, - mẹ không thể không nói là con quên mất mình là ai rồi, và dù con muốn thực hiện ý định đó thì mẹ chẳng thấy ai là người con đám nhờ chuyển yêu cầu đó lên nhà vua.
- Nhờ ngay chmh mẹ chứ ai.
- Nhờ mẹ à?- Bà mẹ kêu lên kinh ngạc. - Đến đề nghị nhà vua? Chà! Mẹ không dấn thân làm việc đó đâu. Con là ai, con trai, mà dám ngông cuồng nghĩ đến con gái vua? Con quên con là con trai một người thợ may hèn kém trong kinh thành và của một người mẹ nguồn gốc không cao quý rồi ư? Con có biết những ông vua không thèm gả con gái cho cả những người con trai vua không hy vọng cũng có ngôi vị tôn quý như họ?
- Mẹ ơi - Aladdin đáp - Con nói con đã dự kiến trước những điều mẹ vừa nói với con và con cũng nói như vậy về những điều mẹ có thể nói thêm nữa. Mẹ nói gì và thái độ ra sao cũng không làm con thay đổi tình cảm được. Con đã nói nhờ mẹ đi xin hỏi công chúa Badrouthoudour làm vợ, đấy là với lòng kính trọng xin mẹ làm ơn. Con khẩn cầu mẹ đừng từ chối nếu mẹ không muốn con chết đi hơn là cho con cuộc sống một lần nữa.
Mẹ Aladdin rất bối rối thấy con ngoan cố với ý định xa rời
Chương 36: Aladdin và chiếc đèn thần (Tiếp)
Aladdin giao nhiệm vụ xây dựng lâu đài cho thần đèn xong thì mặt trời vừa lặn. Rạng sáng hôm sau, Aladdin vừa dậy thì thần đèn đã đến trước mặt nói: Ông chủ, lâu đài của ông đã xong, ông đến xem có hài lòng không”.
Chưa trả lời được rất muốn thì thần đã mang chàng đến đấy ngay. Chàng thấy nhà vượt xa sự mong đợi của mình, không ngớt khen ngợi. Thần dẫn chàng đi khắp nơi, chỗ nào cũng chỉ thấy giàu sang, sạch sẽ và đẹp đẽ, với những nô lệ, tất cả đều ăn mặc theo thứ bậc và công việc được giao. Thần không quên, như một trong những điều chủ yếu, đưa chàng đến xem kho của cải có người trông kho : trung thành canh giữ, có nhũng túi tiền kích thước khác nhau theo lượng tiền chứa đựng, xếp cao đến trần, thứ tự trông thật thích mắt. Ra ngoài thần dẫn chàng đến những chuồng ngựa có người đang chăm sóc nhộn nhịp những con ngựa đẹp nhất trên đời, đến những kho hàng đủ mọi thứ cần thiết cho ngựa.
Khi Aladdin quan sát hết từng căn nhà, từng phòng trong lâu đài, từ trên xuống dưới đặc biệt là phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, chàng chỉ thấy toàn của cải, tráng lệ với mọi tiện nghi chàng không ngờ tới, chàng nói với thần đèn:
Thần đèn, tôi không thể nào hài lòng hơn. Còn một việc tôi chưa nói với thần vì chưa nghĩ ra, đó là trải một tấm thảm nhung tất nhất từ cửa căn phòng dành cho công chúa trong lâu đài này để nàng bước đi trên thảm khi từ hoàng cung tới.
- Tôi trở lại ngay - Thần đèn nói.
Thần biến mất và một lúc sau Aladdin thấy điều mình mong muốn đã được thực hiện, không biết bằng cách nào. Thần trở lại, đưa chàng trở về nhà trong lúc người ta mở cổng hoàng cung.
Những người gác cửa rất kinh ngạc thấy ở khu đất trống trước đây một toà lâu đài có tường bao quanh và từ phía ấy một tấm thảm nhung trải đến tận cửa nhà vua. Lúc đầu họ không phân biệt rõ nhưng cấng ngạc nhiên hơn khi nhìn kỹ toà lâu đài tráng lệ của Aladdin. Tin tức về một kỳ quan kỳ lạ chẳng mấy chốc lan khắp hoàng cung. Quan tể tướng đến tận cổng hoàng cung cũng ngạc nhiên không kém những người khác. Ông là người đưa tin đầu tiên đến vua nhưng cho việc đó là một phù thủy. Vua nói:
- Tể tướng, sao khanh lại nghĩ là một phù thủy? Khanh cũng biết rõ như ta đấy là lâu đài của Aladdin xây dựng, được ta cho phép trước mặt khanh để công chúa con gái ta ở. Sau những của cải chúng ta đã thấy, chúng ta còn lấy gì làm lạ khi chàng ấy cho xây dựng lâu đài này nhanh như thế. Chàng muốn làm chúng ta ngạc nhiên và cho thấy với tiền của trong tay người ta có thể làm nên phép lạ. Giờ thiết triều đã đến nên họ không nói về vấn đề ấy nữa.
Khi Aladdin đã được thần đèn mang trở về nhà và biến đi, chàng thấy mẹ đã dậy và bắt đầu diện một bộ trang phục chàng cho mang đến. Gần đến giờ vua thiết triều xong, Aladdin đưa cho để mẹ đến hoàng cung cùng với những nô lệ nữ thần đèn đưa tới. Chàng muốn mẹ tấu trình với vua rằng mình đến để vinh dự đi cùng công chúa vào buổi tối, sang lâu đài mới. Bà và nô lệ nữ đều ăn mặc như những bà hoàng và ra đi. Aladdin đi ngựa, không quên mang theo chiếc đèn đã đưa chàng lên hạnh phúc tột đỉnh, cùng đoàn tuỳ tùng đến hoàng cung hôm trước, đàng hoàng tiến về lâu đài của mình. Khi những người gác cổng thấy mẹ Aladdin đang tới, họ liền tâu lên vua. Nhà vua lệnh cho những toán kèn đồng, não bạt, sáo, kèn ô-boa chờ sẵn ở các gò quanh hoàng cung, lên tiếng nhạc hoà âm thông báo niềm vui vang khắp kinh thành. Các thương gia bắt đầu trang hoàng cửa hiệu và chuẩn bị ánh sáng rực rỡ cho ban đêm. Thợ thủ cống nghỉ việc, dân chúng vội vã đến tập trung ở quảng trường nằm gìữa hoàng cung và lâu đài của Aladdin. Điều làm họ hết sức kinh ngạc là không hiểu có một phép lạ nào đã cho họ thấy một lâu đài đẹp đến thế tại chỗ ngày hôm trước không có nguyên vật liệu hoặc nền móng gì.
Mẹ Aladdin đươc đón tiếp trọng thể trọng cung, có tlưởng thái giám đẫn vào căn phòng của cộng chúa Badroulboudour. Công chúa vừa nhìn thấy bà vội chạy đến ôm hôn bà, mời ngồi lên ghế xô-pha và trong lúc thị nữ chuẩn bị mặc quần áo, trang sức cho nàng những viên đá quý nhất Aladdin đã tặng, nàng thiết đãi bà một bữa ăn rất ngon. Nhà vua đến để kéo đài hơn giây phút chia tay với công chúa trước khi nàng sang lâu đài của Aladdin cũng gặp chúc mừng bà. Mẹ Aladdin đã nói nhiều lần với nhà vua giữa công chúng nhưng ngài chưa thấy bà bỏ mạng che mặt như lúc đó. Tuy bà đã có tuổi nhưng vẫn còn những nét cho biết rõ thời trẻ bà là một trong số những phụ nữ đẹp. Vua mới chỉ thấy bà ăn mặc giản đị nếu không nói nghèo nàn, nay ngài vô cùng thán phục thấy bà mặc quần ao cũng giàu sang và đẹp như của cổng chúa. Điều đã làm ngài hài lòng Aladdin vừa khôn, thông minh và biết điều trong mọi việc.
Đêm xuống, công chúa cáo biệt phụ hoàng. Sự chia tay của họ lưu luyến xen lẫn nước mắt, họ ôm hôn nhau nhiều lần không nói gì, cuối cùng công chúa ra đi cùng với mẹ Aladdin bên trái nàng, theo sau là một trăm nô lệ nữ ăn mặc thật đẹp. Các toán âm nhạc vẫn tiếp tục hoà tấu từ khi mẹ Aladdin đến, lúc ấy tập hợp nhau lại bắt đầu cùng đi phía sau là một trăm thị vệ, ngần ấy thái giám da đen bước theo hai hàng, dẫn đầu là chỉ huy của họ. Bốn trăm thị đồng trẻ của nhà vua đi thành hàng hai bên mỗi người cầm một bó đuốc hòa thêm vào ánh sáng của hoàng cung và lâu đài Aladdin làm nên nguồn ánh sáng thật đẹp trong đêm.
Theo thứ tự đó công chúa bước trên tấm thảm trải từ hoàng cung đến lâu đàì và càng tiến tới tiếng hoà nhạc của toán đi trước đoàn người càng gần lại và hoà lẫn với tiếng nhạc vang lên từ bậc thềm lâu đài, tạo nên một âm vang tuy lẫn lộn mà rất kỳ lạ, càng tăng thêm niềm vui không chỉ trên quảng trường đông người mà cả trong hai lâu đài, toàn thành phố và xa hơn nữa.
Công chúa đến lâu đài mới, Aladdin vui mừng không hình dung nổi chạy đến căn phòng dành cho nàng để đón tiếp Mẹ chàng có ý làm cho công chúa nhận rõ con trai mình trong đám người vây quanh, công chúa hân hoan nhận thấy chàng rất tuấn tú. Aladdin trông thấy công chúa, kính cẩn chào và nói:
- Công chúa đáng tôn thờ, nếu tôi bất hạnh làm nàng không vừa lòng vì cả gan mong muốn có được một nàng công chúa đáng yêu đến thế, tôi xin nói nàng phải trách cứ chính đôi mắt đẹp và sự duyên dáng của nàng chứ không phải tôi.
- Phò mã, bây giờ đây thiếp có quyền xử sự như thế này đây - Công chúa trả lời - Thiếp vâng lệnh phụ hoàng và chỉ mong gặp chàng để nói thiếp đã vâng lệnh mà không ân hận.
Aladdin phấn khởi vì câu trả lời êm dịu và làm chàng hài lòng, không để công chúa đứng lâu sau khi đi đường, nàng vốn không quen, chàng cầm lấy tay công chúa hôn rất tươi vui, dẫn nàng vào một phòng khách lớn được vô số ngọn nến chiếu sáng và thần đèn đã sắp sẵn một bữa tiệc tuyệt vời. Các đá đều bằng vàng khối đựng đầy thịt ngon. Bát đĩa, cốc chén và tủ thức ăn chất đầy đều bằng vàng và được chế tạo công phu. Những trang trí khác cũng hoàn toàn phù hợp với của cải dồi dào. Công chúa vui thích thấy bao nhiêu của cải tập trung vào một chỗ như thế, nói với Aladdin:
- Phò mã, thiếp đã nghĩ trên đời không có gì đẹp hơn hoàng cung của phụ hoàng thiếp nhưng chỉ nhìn riêng phòng khách này thiếp nhận thấy mình đã nhầm.
- Công chúa - Aladdin trả lời và đưa nàng ngồi vào chỗ dành cho nàng - rất thành thực mà nói ta biết mình phải tin vào điều gì.
Công chúa Badroulboudour, Aladdin và bà mẹ cùng ngồi vào bàn ăn và bỗng một bản hoà tấu thật du dương, cảm động nhất kèm theo những giọng hát rất mê ly của phụ nữ kéo dài tận hết bữa ăn. Công chúa say mê đến mức nàng nói chưa bao giờ được nghe đàn hát như thế ở lâu đài của phụ hoàng. Nàng không biết những nhạc sĩ, ca sĩ ấy là những tiên nữ do thần đèn chọn.
Bữa ăn khuya kết thúc, người ta dọn dẹp nhanh chóng và một toán nam nữ nghệ sĩ múa tiếp theo các nhạc công. Họ múa nhiều điệu vũ khác nhau hình dung theo phong tục trong nước, kết thúc bởi một nam và một nữ nhảy riêng với nhau nhẹ nhàng lạ kỳ, mỗi người đều thể hiện sự duyên dáng, khéo léo của họ trong điệu nhảy. Đã gần nửa đêm, theo phong tục thời ấy, Aladdin đứng dậy đưa tay cho công chúa mời nàng cùng nhảy và như vậy kết thúc lễ cưới của họ. Họ nhảy rất đẹp được cả cử toạ khen ngợi. Cuối điệu nhảy, Aladdin không buông tay công chúa, họ cùng nhau qua gian phòng đã chuẩn bị giường tân hôn. Thị nữ cởi quần áo cho công chúa, đưa nàng lại giường, hầu cận của Aladdin cũng làm thế và mọi người rút lui. Như vậy là kết thúc lễ cưới và những vui chơi trong hôn lễ của Aladdin và công chúa Badroulboudour.
Sáng hôm sau, Aladdin vừa thức dậy những người hầu phòng đã đến mặc quần áo cho chàng một bộ khác bộ ngày cưới cũng sang trọng và đẹp như vậy. Sau đó họ dắt đến một trong những con ngựa dành riêng. Chàng lên ngựa đi tới hoàng cung giữa một toán đông nô lệ đi trước, đi sau và bên cạnh. Nhà vua tiếp đón chàng với những vinh dự như lần đầu, ôm hôn, cho ngồi bên cạnh ông và ra lệnh chuẩn bị bữa ăn trưa. Aladdin nói:
- Thưa phụ hoàng, con xin bệ hạ hôm nay miễn cho con vinh dự đó. Con đến đề nghị Người đến ăn một bữa trong lâu đài của công chúa cùng tể tướng và các cận thần của Người.
Vua vui lòng ban ân huệ đó. Ngài đứng dậy ngay và vì đường không xa, ngài muốn đi bộ. Như vậy là ngài ra khỏi cung, Aladdin bên phải tể tướng bên trái, các cận thần theo sau, đi trước là các thị vệ và những võ quan chủ yếu trong cung.
Càng đến gần lâu đài của Aladdin vua càng thấy đẹp. Vào trong nhà càng khác hẳn, ông không ngớt khen từng phòng một. Nhưng lên đến phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, thấy sự trang trí nhất là những chiếc mành sáo giắt kim cương, ngọc bích, hồng ngọc tất cả đều hoàn hảo tuyệt mỹ về cả số lượng và nghệ thuật, ông ngạc nhiên sững người. Sau một lúc đứng lm lặng, ông nói với. tể tướng đang đứng gần ông:
- Tể tướng, có thể nào trong vương quốc ta và gần ngay hoàng cung vẫn có một lâu đài đẹp đến thế mà đến nay ta không biết.
- Thưa bệ hạ - Tể tướng trả lời - bệ hạ có thể nhớ lại ngày hôm kia Người cho phép Aladdin vừa được chấp nhận làm rể, xây dựng một lâu đài đối diện với hoàng cung. Ngay ngày ấy lúc mặt trời lặn còn chưa có lâu đài ở chỗ này và hôm qua thần được vinh dự đầu tiên báo cáo với Người lâu đài đã xây dựng xong.
- Ta nhớ nhưng còn đang nghĩ lâu đài ấy là một kỳ quan trên đời. Dưới bầu trời này tìm đâu ra nền nhà toàn bằng vàng, bạc khối thay vì đá hoặc cẩm thạch, cửa sổ thì giắt đầy kim cương, hồng ngọc và ngọc bích? Không bao giờ trên đời làm được vật như vậy.
Vua thích thú ngắm nghía hai mươi bốn chiếc cửa sổ. Đêm lần lượt mành cửa ông thấy chỉ có hai mươi ba chiếc cùng trang trí lộng lẫy quý giá như nhau, chiếc thứ hai mươi bốn đang dở dang. Ông bảo tể tướng (vì ông này có nhiệm vụ luôn ở bên cạnh vua):
- Tể tướng, ta rất lạ vì một lâu đài như thế này mà chưa hoàn tất vì một chỗ này.
- Thưa bệ hạ - Tể tướng trả lời, - có vẻ Aladdin vội quá, không đủ thì gỉờ trang trí cửa sổ này như những cái khác nhưng tin rằng cậu đủ đá quý để bổ sung vào ngày đầu tiên.
Aladdin ra ngoài sai bảo người hầu một lát, lúc đó đã trở lại.
- Phò mã - Nhà vua nói - phòng khách này là chỗ đáng thán phục nhất. Có điều ta lấy làm lạ là chiếc màn cửa này chưa hoàn thành. Phải chăng vì quên, lơ là hoặc thợ không đủ thì giờ làm nất cho xong một mảnh kiến trúc đẹp như vậy?
- Thưa bệ hạ, không phải vì những lý do đó đâu ạ. Đây là thợ làm theo kế hoạch của con. Con muốn để bệ hạ ra lệnh cho hoàn thành phòng khách này và đồng thời là hoàn thành lâu đài. Xin bệ hạ vui lòng chấp nhận ý định của con để con luôn nhớ đến ân đức của Người.
- Nếu con có ý định đó, ta rất sẵn lông và sẽ cho lệnh làm việc đó ngay.
Thực vậy ông ra lệnh triệu tập những nhà kim hoàn nhiều đá quý nhất và những thợ trang sức giỏi nhất trong kinh thành. Vua xuống khỏi phòng khách, Aladdin dẫn ông đến phòng mở tiệc trong ngày cưới. Một lúc sau công chúa đến, đón tiếp vua cha với thái độ làm ông vui mừng biết nàng rất hài lòng về cuộc hôn nhân. Hai bàn đầy thức ăn ngon trên bát đĩa bằng vàng. Nhà vua ngồi vào bàn trước tiên, cùng ăn với công chúa, Aladdin và tể tướng. Các cận thần khác của triều đình được chiêu đãi ở chiếc bàn thứ hai rất dài. Vua thấv thức ăn rất ngon, thú nhận chưa bao giờ được thưởng thức ngon hơn. Ngài cũng nói như thế về rượu, đó cũng là loại hảo hạng. Ngài khen ngợi nhất là bốn chiếc tủ búp phê đầy chai lọ, bát đĩa bằng vàng khảm ngọc. Ngài cũng rất thích những bản nhạc hoà tấu trong phòng khách trong lúc tiếng vang những kèn, trống, não bạt ở một khoảng cách vừa phải bên ngoài, bổ sung cho nhau đầy thi vị.
Lúc vua vừa ăn xong, người ta tâu lên rằng các nhà kim hoàn và thợ trang sức được gọi đã tới. Ngài trở lên phòng khách hai mươi bơn cửa sổ, chỉ cho thợ kim hoàn đi theo mình chiếc cửa chưa xong:
- Ta cho gọi các ngươi đến để các ngươi hoàn thành chiếc cửa này, cũng tinh xảo như những cửa sổ khác. Hãy quan sát kỹ đi và làm thật giống cho ta. Những người thợ kim hoàn quan sát rất kỹ hai mươi ba mành cửa và sau khi trao đổi với nhau, xác nhận mỗi người đóng góp được phần việc nào, họ đến trình diện trước vua và người thường phụ trách trang sức trong hoàng cung trình bày
- Thưa bệ hạ, chúng thần sẵn sàng đem khả năng kỹ nghệ ra để vâng theo lời Người nhưng dù chúng thần hành nghề đã lâu, chúng thần vẫn không có đá quý và nhiều đến nhừ thế để làm công trình lớn này.
- Ta có - Vua nói - và nhiều hơn số lượng cần thiết đấy. Đến hoàng cung ta đưa cho mà chọn.
Về cung, vua cho đem một lượng rất lớn đá quý đặc biệt từ số Aladdin đưa tặng. Họ đưa tới làm nhưng không đủ, trở lại lấy thêm nhiều lần và trong một tháng chưa hoàn thành một nửa công trình. Họ dùng tất cả những đá quý của vua và cả số đá quý mà tể tướng cho mượn, tất cả cũng chỉ làm được một nửa tấm mành.
Aladdin biết vua cố gắng cho làm cũng không giống được và không bao giờ hoàn thành, liền gọi thợ kim hoàn đến không những bảo họ không làm nữa mà còn gỡ ra hết những gì đã làm, đưa trả lại tất cả những đá quý của vua và của vị đại thần.
Công trình thợ kim hoàn ra sức trong sáu tuần lễ chỉ phá ra trong mấy giờ. Họ ra về để một mình Aladdin trên phòng khách. Chàng lấy chiếc đèn xát mạnh, thần hiện ra ngay Aladdin bảo:
- Tôi ra lệnh cho thần để lại một tấm mành chưa hoàn thành, thần đã làm thế, bây giờ tôi gọi thần đến cho làm nốt giống như những tấm kia.
Thần đèn biến mất, Aladdin xuống dưới nhà, ít lâu sau trở lên thấy tấm mành cửa đã như chàng mong muốn và giống hệt những tấm kia.
Trong lúc đó thợ kim hoàn về cung, được đưa vào gặp vua. Trưởng toán thợ đưa ra những viên đá quý mang trả lại và thay mặt anh em trình bày:
- Thưa bệ hạ, chúng thần đã bỏ ra biết bao nhiêu thời gian, đưa kỹ nghệ tinh xảo vào để thực hiện công việc Người giao cho. Công trình đã tiến hành khá kết quả nhưng Aladdin không những bảo thôi làm mà còn phá bỏ hết đưa trả lại bệ hạ và tể tướng tất cả những viên đá quý.
Vua hỏi lý do, họ bảo Aladdin không nói gì. Ông ra lệnh thắng ngựa ra đi, chỉ có hầu cận đi bộ theo hộ tống. Ngài tới lâu đài con gái, xuống ngựa lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, không báo tin cho Aladdin biết, nhưng vừa lúc Aladdin có mặt đúng lúc đón nhà vua ở cửa.
Không để Aladdin phân trần, ngài nói:
- Phò mã, ta đến hỏi con vì lý do gì lại muốn để dở dang một phòng khách đẹp và đặc biệt đến thế như phòng khách của lâu đài con.
Aladdin giấu lý do thực sự là vua không đủ đá quý để tiêu tốn như vậy nhưng để ông biết lâu đài này không chỉ vượt hẳn hoàng cung mà hơn mọi lâu đài trên đời và không phải chàng không thể hoàn tất, trả lời:
- Bệ hạ, đúng là Người đã thấy phòng khách chưa trang trí xong hẳn nhưng bây giờ xin Người xem lạl có thiếu gì không.
Nhà vua lại thẳng cửa sổ trước đó có tấm mành bỏ dở thấy nó cũng giống hệt nhũng tấm khác, đã ngỡ mình nhầm. Ngài quan sát hai cửa sổ bên cạnh và lần lượt từng cái khác công nhận tấm mành ngài cho làm trong bao nhiêu thời gian, tốn nhiều công thợ vừa mới hoàn tất không mấy chốc. Ngài hết sức ngạc nhiên ôm lấy Aladdin hôn vào trán và nói:
- Phò mã, con là ai mà làm những việc kỳ lạ đến thế trong nháy mắt? Con không giống ai trên đời; càng biết rõ con, ta càng thán phục.
Aladdin rất khiêm tốn đáp lời khen của nhà vua:
- Thưa bệ hạ, thật vinh dự lớn cho con được nhận lòng tốt và lời khen của bệ hạ. Con cam đoan sẽ không quên điều gì để ngày càng xứng đáng với hai ân huệ đó.
Vua trở về hoàng cung theo cách ngài đến, không cần Aladdin tháp tùng. Ngày thấy tể tướng đang chờ ngài ở đấy Nhà vua còn hoan hỉ về kỳ quan vừa chứng kiến, kể lại mọi điều làm tể tướng tin vào lời vua và càng khẳng định lại mối nghi ngờ lâu đài của Aladdin do phù phép mà có như ông đã nói với vua ngay lúc lâu đài xuất hiện. Ông muốn nhắc nhở lại vua điều ấy. Nhà vua ngắt lời ông:
- Tể tướng, khanh cũng đã nói với ta như thế, ta thấy rõ là ông chưa quên việc kết hôn của con gái ta yà con trai ông.
Vị tể tướng cho là nhà vua đang thoả lòng, nên không muốn cãi lại nhà vua. Hàng ngày như thành lệ, khi vua ngủ dậy đã không quên đến một căn phòng có thể thấy rõ toàn bộ lâu đài Aladdin và trong ngày cũng tới đó ngăm nghía và thán phục.
Aladdin không khép mình trong lâu đài, môi tuần ra phố một vài lần, đi dọc kinh ở nhà thờ hoặc đến thăm tề tướng hoặc những cận thần chính của nhà vua mà chàng thường đãi tiệc. Mỗi lần chàng ra ngoài, chàng cho vài nô lệ đi kèm bên ngựa tung những nắm tiền vàng trên đường phố đi qua hoặc ở những quảng trường đông đân chúng. Vả lại không một người nghèo nào đến trước lâu đài Alađdin không hài lòng trở về với sự hào phóng người ta đối xử theo lệnh chàng.
Tuần lễ nào Aladdin cũng đi săn ít nhất một lần, lúc thì xung quanh thành phố, đôi lúc xa hơn, bao giờ trên đường đi chàng cũng hào phóng. Xu hướng độ lưòng đó được dân chúng hàm ơn nhiều có thể nói với thái độ dễ mến và hào phóng, chàng được dân chúng mến mộ hơn cả vua, tuy không che lấp vua mà chàng triều kiến rất đều đặn. Với những đức tính vốn có chàng nhiệt tình, đề cao quyền lợi quốc gia làm người ta không ngớt khen ngợi. Chàng lại chứng tỏ sốt sắng nhân dịp một cuộc nổi loạn xảy ra ở biên giới vương quốc. Vừa nghe vua thành lập một toàn quân đi tiễu trừ, chàng xin nhận việc chỉ huy. Nhà vua chấp thuận dễ dàng. Đứng đầu đoàn quân chàng mau lẹ dẹp tan cuộc nổi loạn. Việc đó làm tên tuổi chàng vang khắp vương quốc rộng lớn nhưng lòng chàng không thay đổi, vẫn hiền lành dễ mến như trước đây.
Đã nhiều năm Aladdin sinh sống như vậy cho đến lúc lão phù thuỷ kẻ đã vô tình tạo điều kiện cho chàng giàu sang cao độ, đã trở về châu Phi bỗng nhớ đến chàng. Tuy luôn nghĩ Aladdin đã chết dưới hầm đất từ khi lão chôn sống chàng, lão cũng muốn biết cụ thể kết cục ra sao. Vốn giỏi bói toán, lão lấy trong tủ ra một hộp vuông dùng để bói toán. Ngồi trên ghế xô-pha đặt chiếc hộp mở ra trước mặt, với ý định xem Aladdin có chết dưới long đất không, lão san bằng cát trong hộp, vẽ hình, tính toán vị trí các sao theo cách tính tử vi. Quan sát các sao trong tử vi để phán đoán, thay vì thấy Aladdin chết trong long đất, lão thấy chàng đã ra khỏi đó, sống một cuộc đời cực kỳ tốt đẹp, rất giàu, chồng một công chúa, được kính trọng, tôn vinh.
Nhờ ma thuật biết được điều đó xong lão phù thủy bèn nổi giận điên người tự nhủ:
- Thằng con trai thợ may khốn kiếp đã phát hiện ra bí mật của chlếc đèn thần. Ta tưởng nó chết nhưng nó lại đang hưởng thành quả công sức và mong ước của ta. Ta thà chết chứ không thể để nó hưởng thụ lâu hơn nữa.
Không đắn đo gì về việc phải làm nữa, ngay sang hôm sau lão lên ngựa sẵn có trong chuơng ra đi. Qua thành phố này đến thành phố khác, tỉnh này đến tỉnh khác, không ngừng lại trừ khi cần thiết cho ngùa khỏi mệt, lão đến Trung Hoà và vào ngay kinh thành Aladdin đang sống với con gái nhà vua. Lão xuống ngựa vào một nhà trọ, thuê phòng ở lại qua đêm cho lại sức.
Hôm sau, trước hết, lão phù thuỷ châu Phi thăm dò xem người ta nói về Aladdin như thế nào. Đi trong thành phố lão vào những chỗ thường những người có danh tiếng lui tới, chỗ người ta tập hợp uống một chén nước nóng lão đã quen lần đến tlước. Vừa ngồi xuống chỗ người ta mời lão một chén nước. Vùa nhấm nháp lão vừa lắng nghe xung quanh mọi người nói chuyện về lâu đài Aladdin. Uống xong lão đến gần một trong bọn họ, hỏi về lâu đài nào mà người ta nói sôi nổi như vậy. Người này nói:
- Ông ở đâu tới thế? Phải mới đến đây cho nên mới chưa thấy hoặc được nghe nói về lâu đài của phò mã Aladdin (Người ta gọi chàng như thế từ khi cưới công chúa Badrouthoudour). Tôi chưa nói với ông đấy là một trong những kỳ quan mà còn chưa từng có một kỳ quan nào trên đời, to lớn, giàu sang và lộng lẫy đến thế. Chắc ông đến từ xa lắm mới chưa biết. Từ khi lâu đài ấy xây dựng đến nay người ta chỉ nói về nó. Ông đến xem và sẽ thấy là tôi không nói sai sự thật.
- Thứ lỗi cho tôi - Lão phù thuỷ lại nói- Tôi từ tận cùng châu Phi vừa đến hôm qua, lúc tôi đi thì tiếng tăm về lâu đài chưa tới đó. Đi đường vì công việc gấp, tôi chắng thấy gì khác và không dừng lại để tìm hiểu, nên không biết điều ông vừa nói. Nóng lòng thoả tính tò mò, tôl sẽ đi ngay bây giờ, nhờ ông chỉ đường cho.
Người kia sẵn lòng hướng dẫn lão phù thủy phải đi qua con đường nào. Để thấy lâu đài Aladdin lão phù thuỷ đứng dậy đi ngay. Đến nơi, lão quan sát các mặt của lâu đài, chắc chắn Aladdin dùng chiếc đèn dựa vào những nô lệ thần đèn để cho xây dựng những kỳ công như thế. Căm tức vì Aladdin hạnh phúc và đã trở nên tôn quý không khác gì nhà vua, lão trở về nhà trọ suy tính kế hoạch.
Phải biết chiếc đèn ở đâu, Aladdin có mang trong người không hay để một chỗ nào đó và lão phù thuỷ phát hiện nhờ bói toán. Lão lấy hộp vuông và cát mang theo, vẽ hình tính toán, biết rõ chlếc đèn để trong lâu đài, lão vui mừng tự nhủ: Ta sẽ lấy lại chiếc đèn, thách Aladdin ngăn cản được ta và sẽ đẩy nó xuống đến đáy vực vì dám bay cao .
Thật không may cho Aladdin là chàng vừa đi khỏi lâu đài ba ngày, để săn bắn trong tám ngày. Lão phù thuỷ sau khi bói toán biết chiếc đèn vẫn ở trong lâu đài, liền đến lân la chuyện trò với người gác cổng nhà trọ. Lão nói đã thấy lâu đài Aladdin, khuếch trương những gì kỳ lạ nhất, đã làm mọi người phải ngưỡng mộ:
- Tôi tò mò nhìn ngắm rất kỹ nhưng chưa thoả mãn vì không thấy ông chủ toà lâu đài tuyệt vời ấy.
- Gặp ông ấy không khó đâu, hầu như không ngày nào không có dịp nếu ông ở trong thành phố nhưng ông đã đi vắng ba ngày nay, để dự một cuộc săn bắn tám ngày.
Lão phù thuỷ châu Phi không muốn biết gì hơn, lão chào người gác cổng về phòng, và tự nhủ: Đúng lúc phải hành động rồi, không được bỏ lỡ dịp. Lão ra một hiệu làm và bán đèn, bảo:
- Ông chủ, tôi cần một tá đèn bằng đồng, ông có làm được không?
- Người bán nói hiện còn thiếu mấy chiếc nếu chịu khó chờ đến ngày mai sẽ có đủ. Lão phù thuỷ đồng ý, dặn dò phải thật cẩn thận đẹp đẽ lão sẽ trả giá cao và về nhà trọ.
Ngày hôm sau lão đến nhận mười hai chiếc đèn, trả theo giá người bán đòi hỏi không bớt, bỏ vào chiếc giỏ mang theo đi về hướng lâu đài Aladdin. Khi lại gần lâu đài lão rao to:
- Ai đổi đèn cũ lấy đèn mới đây?
Đi trên đường, trẻ con đang chơi nghe tiếng rao chạy tới đi theo, nhìn lão cho là người điên. Những người qua đường cười nhạo về trò ngốc nghếch của lão. Ông ấy phải mất trí, - họ nói, - mới đổi đèn mới lấy đèn cũ .
Lão phù thủy không ngạc nhiên về đám trẻ con cũng như những gì người ta nói về lão, để đổi hết hàng tiếp tục rao to:
- Ái muốn đổi đèn cũ lấy đèn mới nào?
Lão luôn rao như thế, đi đi lại lại trên quảng trường, trước lâu đài và quanh đó. Công chúa Badroulboudour đang ở trên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ nghe tiếng người, không phân biệt rõ vì trẻ con đi theo và người đông ồn ào, bảo một nữ nô lệ gần đấy xuống xem có việc gì.
Nữ nô lệ chẳng mấy chốc lên phòng khách cười không dứt khiến công chúa cũng cười theo.
- Này! Đồ điên - Công chúa bảo - Sao em cười đến thế?
- Thưa công chúa, em không ngăn được cười khi thấy một người điên, giỏ đèn mới trên tay không bán mà chỉ đổi lấy đèn cũ. Trẻ con bao quanh rất đông làm ồn lên đấy ạ.
Nghe nói thế một nữ nô lệ khác nói:
- Về đèn cũ không biết công chúa có để ý chúng ta có một chiếc đèn cũ để ở gờ tường không? Đổi lấy chiếc đèn mới cũng hay đấy. Nếu công chúa đồng ý, Người sẽ biết ngay kẻ điên kia có thật điên không khi cho một chiếc đèn mới lấy chiếc cũ mà không đòi hỏi thêm gì.
Chiếc đèn người nữ nô lệ nói đó là chiếc đèn thần Aladdin sử dụng để lên đến mức cao sang hiện nay, trước khi đi cậu đã đề lên gờ tường sợ đem theo bị mất. Ngoài những buổi đi săn bao giờ cậu cũng mang trong người mình. Không nô lệ, thái giám nào kể cả công chúa để ý đến nó khi cậu đi vắng. Việc Aladdin đề phòng như vậy là tốt, nhưng ít nhất cậu cũng nên cho vào chỗ khoá cẩn thận mới phải. Đây là một trong những sơ suất mà người ta thường mắc phải.
Công chúa Badroulboudour không biết chiếc đèn quý giá và Aladdin cũng không nói nó quan trọng đến mức không được sờ vào và phải giữ gìn rất cẩn mật chiếc đèn nên trong lúc vui đùa nàng bảo một thái giám lấy đem đi đổi Vâng lời, thái giám đưa đèn ra khỏi lâu đài, gặp ngay lão phù thuỷ bảo:
Nào, đưa đèn mới đổi chiếc đèn cũ này đi.
Lão phù thuỷ châu Phi biết chắc chắn đó là chiếc đèn mình đang tìm. Không thể có cái nào khác như thế trong lâu đài vì đồ dùng toàn bằng vàng bạc. Lão lấy ngay chiếc đèn tròng tay người thái giám giắt vào người, đưa giỏ đèn mới cho thái giám chọn một chiếc đưa về cho công chúa. Trẻ con cười ồ lên, chế nhạo lão già ngu ngốc.
Lão mặc cho trẻ con la hét, im lặng đi khỏi vùng quanh lâu đài, nghĩa là không rao đổi đèn cũ nữa: không muốn những đèn khác ngoài chiếc lão đã lấy được. Trẻ con giải tán dần và để lão đi.
Ra khỏi quảng trường giữa hoàng cung và lâu đài, lão phù thuỷ đi vào những đường vắng người, vứt giỏ đèn ở một con đường không ai qua lại. Lão sang một con đường khác đi gấp về phía cổng thành. Ra đến đồng ruộng lão đến một chỗ khuất, đừng lại đó cho đến lúc thấy phù hợp để thực hiện ý đồ của mình.
Chờ đến một giờ đêm, xung quanh tối đặc, lão lấy chiếc đèn bọc trong người ra xát mạnh. Thần đèn xuất hiện.
- Người muốn gì? Tôi sản sàng theo lệnh Người và những người có đèn trong tay, tôi và những nô lệ khác của đèn cũng thế.
- Ta ra lệnh - Lão phù thuỷ nói - Ngay lúc này thần bưng lâu đài mà thần hoặc những nô lệ khác đã xây dựng trong thành phố, mang nguyên cả khối và tất cả những người sống ở đó, cùng với ta nữa sang một nơi ở châu Phi. Không trả lời, thần đèn và nhũng thần nô lệ khác của đèn mang lão và toàn bộ lâu đài đến một chỗ lão chỉ dẫn,
Nhà vua thức dậy, theo thói quen vào trong gian phòng trống để thích thú ngắm nhìn và thán phục lâu đài của Aladdin. Ngài nhìn về phía thường ngắm lâu đài, chỉ thấy một khoảng trống trải như trước đây chưa xây dựng. Ngỡ mình nhầm, ngài dụi mắt nhưng không thấy gì hơn lấn trước tuy trời trong xanh, bình minh lên soi sáng mọi vật. Hết sức kinh ngạc, ngài sững người tại chỗ, nhìn về phía lâu đài trước đây, không thể hiểu vì sao một lâu đài to lớn, thực tại như lâu đài Aladdin, hàng ngày ngài vẫn thấy từ khi ngài cho phép xây đựng và vừa mới hôm trước còn đấy, đã biến mất không còn một dấu vết. Ta không nhầm đâu, - ngài tự nhủ lâu đài vẫn ở đấy. Nếu nó đổ, nguyên vật liệu phải thành đống ở đấy và nếu bị nhấn chìm trong đất cũng để lại vài dấu vết!. Dù đã xảy ra việc gì, tuy công nhận lâu đài không còn, ngài vẫn để chờ ít lâu xem mình có nhầm không. Ngoái lại nhìn phía sau trước khi trở về phòng mình, ngồi trong phòng tâm trí ngài rối loạn không biết nên làm thế nào, đành cho gọi quan tể tướng đến thật gấp.
Tể tướng tới vội vã, đến nỗi cả ông và hầu cận không ai để ý đến lâu đài chẳng còn. Những người gác cổng mở cửa nhưng cũng không nhận thấy.
Tể tướng hỏi nhà vua:
- Thưa bệ hạ, Người cho gọi thần gấp nên thần cho là có việc gì khác thường lắm vì Người cũng biết hôm nay là ngày thiết triều và lát nữa như thường lệ thần phải đến chầu.
- Việc xảy ra là điều rất khác thường như khanh nói. Ta hỏi khanh, lâu đài của Aladdin đâu rồi?
- Thưa bệ hạ! Thần vừa đi ngang qua, lâu đài hình như vẫn ở đấy. Những kiến trúc vững chắc như thế không dễ dàng đổi chỗ được.
- Lên phòng trống ngó xem rồi xuống nói với ta khanh còn thấy lâu đài ấy không.
Tể tướng lên phòng trống cũng sửng sốt như nhà vua. Khi chắc chắn lâu đài Aladdin đã biến mất, ở đấy không còn dấu vết, ông xuống trình điện trước mặt nhà vua.
- Thế nào, khanh có thấy lâu đài không?- Vua hỏi.
- Thưa bệ hạ, xin nhớ lại thần đã có vinh dự nói với Người, lâu đài ấy được Người khen ngợi với bao của cải vô biên chỉ là công trình phù phép của một phù thuỷ nhưng bệ hạ không lưu ý cho.
Nhà vua vốn không chịu nghe điều tể tướng đã nhắc nhở, nay phải thừa nhận sự nghi ngại của ông ta là đúng. Ngài liền nổi giận dữ dội. Nhà vuạ quát:
- Tên lừa bịp bỉ ổi ấy đâu để ta eho chặt đầu?
- Thưa bệ hạ, cách đây mấy ngày Aladdin tới xin bệ hạ nghỉ đi san, phải cho người đến hỏi xem lâu đài đâu rồi, hắn phải biết.
- Như vậy quá đại lượng - Vua lại nói - Ra lệnh cho ba mươi kỵ sĩ trói dẫn hắn về đây cho ta.
Tể tướng đi ban lệnh của vua cho kỵ sĩ, dặn dò viên chỉ huy cẩn thận không để thoát kẻ có tội. Họ ra đi và gặp Aladdin cách thành phố năm, sáu dặm. Viên chỉ huy bảo vua nóng lòng mụốn gặp, cử họ đi đưa tin rồi cùng nhau trở về.
Aladdin không một chút nghi ngờ về lý do thực sự của việc cử toán cận vệ đi tìm, vừa săn bắn vừa đi về cung. Nhưng khi cách thành phố nửa dặm, toán kỵ sĩ vây quanh chàng và viên chỉ huy lên tiếng:
- Phò mã Aladdin, rất tiếc phải tuyên bố lệnh của nhà vua bắt ông và dẫn về như tội phạm quốc gia. Chúng tôi đề nghị đừng nghĩ chúng tôi làm nhiệm vụ là sai trái và tha lỗi cho.
Lời tuyên bố ấy làm Aladdin hết sức ngạc nhiên, hỏi viên chỉ huy mình bị kết tội gì, ông này trả lờị ông và người của ông không biết gì hết.
Aìaddin thấy người của mình ít hơn toán quân nhiều tuy họ ở đàng xa, chàng xuống ngựa và nói:
- Tôi đây, các ông cứ làm theo mệnh lệnh. Tôi chỉ có thể nói mình chẳng phạm một tội gì đối với nhà vua cũng như đối với quốc gia.
Người ta quàng vào cổ chàng một dây xích khá to và dài quấn vào quanh người bó cả hai tay. Khi viên chỉ huy bước lên đi đầu, một kỵ sĩ cầm đầu dây xích, đi bên cạnh chỉ huy dẫn Aladdin phải đi bộ về thành phố.
Khi đoàn kỵ sĩ vào đến ngoại ô, những người đầu tiên thấy người ta dắt Aladdin như tội phạm quốc gia, nghĩ rằng triều đình sẽ chặt đầu chàng. Dân chúng vốn mến mộ chàng, nhiều người cầm gươm và vũ khí khác, những người không có vũ khí cầm đá, cùng ào theo toán ky sĩ. Chẳng mấy chốc đám đông dân chúng lấn át cả toán kỵ sĩ, rất may họ có thể về đến hoàng cung không bị dân chúng cướp mất Aladdin. Họ cẩn thận lúc nói rộng hàng, lúc khép chặt choán hết bề rộng đường đi. Đến quảng trường hoàng cung tất cả dân chúng có vũ khí đứng thành một hàng ngang ngoảnh mặt về phía hoàng cung cho đến khi chỉ huy dẫn Aladdin vào trong hoàng cung và những người gác đóng chặt cửa.
Aladdin bị dẫn đến trước nhà vua đang đứng chờ trên ban công cùng quạn tể tướng. Vừa thấy chàng ngài ra lệnh cho đao phủ chờ sẵn ở đấy chặt đầu phạm nhân, không muốn nghe một lời thanh minh nào.
Đao phủ nắm lấy Aladdin, bỏ dây xích ở cổ và quanh người, trải trên đất một tấm đa đầy máu những người bị hành hình, bắt chàng quỳ xuống và bịt mắt chàng. Ông ta rút gươm, lấy đà, múa gươm lấp lánh ba vòng và chờ lệnh vua để hạ thủ.
Trong lúc đó quan tể tướng thấy đám đông đân chúng trên quảng trường dồn toán kỵ sĩ vào và trèo lên nhiều chỗ tường hoàng cung để xông vào. Trước khi vua ra hiệu xử tử, tể tướng vội ngăn nhà vua lại:
- Thưa bệ hạ, xin Người nghĩ kỹ về việc sắp làm. Hoàng cung có thể bị phá và mọi chuyện sẽ trở nên nguy hiểm.
- Hoàng cung của ta bị phá? Kẻ nào có gan như vậy?
- Thưa bệ hạ, xin Người nhìn vào những bức tường hoàng cung và quảng trường, Người sẽ thấy rõ điều thần nói là đúng.
Vua thấy kinh thành của mình náo động mạnh mẽ như thế, vội sợ hãi, ra lệnh ngay cho đao phủ bỏ gươm xuống, bỏ vải bịt mắt và để Aladdin được tự do. Ngài cũng ra lệnh cho quân cận vệ hô lớn nhà vua đã gia ân cho Aladdin và mọi người lui ra ngoài.
Những người đã trèo lên tường hoàng cung thấy như vậy, từ bỏ ý đồ tấn công. Họ nhảy xuống vui mừng vì đã cứu được người họ thực sự yêu mến, và thông báo điều đó với những người vây quanh. Tin được truyền đến dân chúng ở quảng trường cùng tiếng loan báo của quân thị vệ được loa báo rộng. Vua vừa trả tự do cho Aladdin làm nguôi dân chúng, việc náo động chấm đứt và rồi ai về nhà nấy.
Aladdin được cởi trói, ngẩng đầu nhìn lên nhà vua cao giọng với thái độ xúc động:
- Thưa bệ hạ con khẩn cầu Người gia ân cho them một điều là cho biết con phạm tội gì?
- Tội gì à, kẻ phản trắc? Ngươi không biết sao? – Vua nói - Lên đây và ta cho ngươi biết rõ.
Aladdin đi lên.
- Đi theo ta - Vua bảo và quay lưng đi trước không nhìn đến chàng. Ngài dẫn chàng đến cửa sổ gian phòng trống: - Vào đi, ngươì phải biết lâu đài của ngươi ở đâu, nhìn mọi phía và cho ta biết nó ra sao rồi.
Aladdin nhìn không thấy gì. Chàng nhìn khắp vùng đất đã xây dựng lâu đài, không đoán được vì sao nó biến mất. Tình huống khác thường và kỳ lạ này làm chàng lung túng, ngạc nhiên hết sức không thể trả lời nhà vua một lời. Nhà vua sốt ruột nhắc lại:
- Ngươi hãy nói lâu đài của ngươi ở đâu, con gái ta ở đâu?
Aladdin lên tiếng nói:
- Thưa bệ hạ, con thấy rõ, xin thú thực, lâu đài con cho xây dựng không còn ở chỗ cũ; con thấy nó đã biến mất và cũng không thể nói nó ở đâu nhưng con cam đoan với bệ hạ con không làm gì trong hiện tượng này.
- Ta không cần biết lâu đài của ngươi ra sao rồi. Ta lo về con gái ta hàng triệu lần hơn. Ta muốn ngươi tìm lại cho được con ta, nếu không ta chặt đầu ngươi không gì cản trở ta được.
- Thưa bệ hạ - Aladdin lại nói - Con cầu xin bệ hạ cho con bốn mươi ngày để cấp tốc đi tìm. Nếu trong thời gian ấy con không tìm được con xin hứa sẽ đưa đầu mình đến trước chân Người. Người muốn làm gì con cũng thoả lòng.
- Ta cho ngươi bốn mươi ngày theo yêu cầu nhưng đừng lạm dụng sự gia ân của ta, đừng hy vọng thoát khỏi cơn giận dữ của ta. Bất cứ ngươi trốn chỗ nào trên mặt đất ta cũng tìm được ngươi.
Aladdin rút lui, rất nhục nhã trong tình trạng đáng thương. Chàng qua các sân hoàng cung đầu cúi xuống, không dám ngẩng mặt nhìn, những võ quan trong sân quay lưng lại nên không thấy chàng và chàng cũng không muốn gặp họ nữa. Nhưng nếu họ lại gần để an ủi hoặc giúp đỡ, họ sẽ không nhận ra Aladdin nữa: bản thân chàng cũng không nhận ra mình, không còn tỉnh táo gì nữa. Điều ấy thể hiện rất rõ khi ra khỏi hoàng cung, không nghĩ đến việc mình làm, chàng đi gõ cửa từng nhà và hỏi những người gặp trên đường có thấy lâu đài của chàng ở đâu không hoặc có biết tin gì về nó không.
Những lời hỏi đó làm mọi người nghĩ Aladdin mất trí. Một số chỉ cười nhưng những người biết điều hơn đặc biệt những người có quan hệ bạn bè hoặc buôn bán với cậu thực sự thông cảm. Chàng ở trong thành phố ba ngày, lúc chỗ này lúc ehỗ khác, chỉ ăn khi người ta mang cho và không biết làm gì khác.
Cuối cùng không thể sống trong tình trạng khốn khổ như vậy trong thành phố trước đây mệnh danh giá thế, chàng ra khỏi thành phố đi về đồng ruộng, qua nhiều cánh đồng với tình trạng không ổn định khổ sở và đến tối thì nghĩ tới một bờ sông. Chàng tuyệt vọng: Ta tìm lâu đài ở đâu bây giờ? Đến tỉnh nào, nước nào, phần đất thế giới nào để tìm ra nó và công chúa thân yêu của ta? Không bao giờ có kết quả được, phải giải thoát bao mệt nhọc và buồn tủi đang hành hạ ta thì hơn . Chàng sắp nhảy xuống song nhưng nghĩ là một người Hồi giáo trung thành, phải rửa tay trước khi chết. Chàng lại bờ sông rửa mặt, rửa tay theo tập quán. Chỗ này hơi dốc và ẩm ướt,chàng trượt chân và rơi xuống sông nếu không kịp bám vào một hòn đá gần chỗ đứng. May mắn cho chàng đang đeo chiếc nhẫn lão phù thuỷ đưa cho lúc xuống hầm ngài lấy chiếc đèn thần. Để giữ mình ,khỏi rơi xuống sông, chàng Xát mạnh chiếc nhẫn vào đá Ngay lúc ấy thần nhẫn đã xuất hiện trước đây dưới hang lại có mặt, hỏi chàng:
- Người muốn gì? Tôi sẵn sàng vâng lệnh Người như kẻ nô lệ của Người và tất cả những ai đeo nhẫn trên tay, tôi và những nô lệ khác của nhẫn đều thế.
Aladđin phấn khởi vì sự xuất hiện bất ngờ trong tình thế tuyệt vọng của mình, trả lời:
- Thần nhẫn cứu tôi một lần nữa bằng cách cho biết lâu đài tôi xây dựng ở đâu và đưa nó về lại chỗ cũ cho tôi.
- Điều Người yêu cầu - Thần nhẫn nói - Không thuộc phạm vi của tôi, Người phải đề nghị với thần đèn.
- Nếu vậy, theo quyền lực của nhẫn, ta ra lệnh thần mang tôi đến chỗ lâu đài, bất cứ ở đâu trên quả đất, và đặt tôi dưới cửa sổ công chúa Badroulboudour.
Aladđin vừa dứt lời, thần nhẫn ôm lấy chàng đưa sang châu Phi giữa một bãi cỏ có lâu đài, không xạ một thành phố lớn và đặt chàng đứng dưới cửa sổ căn phòng công chúa. Mọi việc đó chỉ xảy ra trong giây lát.
Mặc dù đêm tối, Aladdin nhận rõ lâu đài của mình và phòng công chúa Badroulboudour. Đêm đã khuya, chàng lui ra một đoạn, đến ngồi dưới gốc một cây to. Chứa chan hy vọng nghĩ về hạnh phúc của mình nhờ một sự tình cờ, cậu cảm thấy bình tâm lại sau khi bị bắt, dẫn tới trước nhà vua và được trả tự do với nguy cơ mất mạng sống. Suy nghĩ một lúc về triển vọng tốt đẹp, qua, năm sáu ngày không ngủ, chàng không cưỡng đựợc giấc ngủ vì mỏi mệt, chàng thiếp đi dưới gốc cây.
Hôm sau bình minh vừa lên Aladdin thoải mái tỉnh giấc vì tiếng hót của chim trên cây chàng nằm ngủ đứới gốc và những cây rậm rạp quanh lâu đài. Chàng nhìn ngay về phía lâu đài tráng lệ, cảm thấy vui mừng không tả nổi vì sắp trở lại là ngựời chủ và một lần nữa có công chúa bên mình. Trong lúc chờ đợi, chàng suy nghĩ do đâu xảy ra tai hoạ và nhớ ra đã bỏ lại chiếc đèn ở nhà lúc đi săn. Điều làm cậu bối rối hơn là không hình dung ra ai là kẻ ghen tức với hạnh phúc của chàng. Trước hết chàng hiểu ra cậu và lâu đài đang ở châu Phi gợi lên trong trí chàng về lão phù thuỷ châu Phi, kẻ thù cố hữu của chàng.
Công chúa Badroulboudour từ khi bị bắt cóc đưa sang châu Phi ngủ dậy sớm hơn thường lệ. Cho đến nay nàng buộc phải mỗi ngày gặp lão phù thuỷ một lần nhưng mỗi lần nàng đối xử rất nghiêm khắc nên lão chưa dám liều ở lại Nàng mặc quần áo xong thì một thị nữ nhìn qua mành cửa, trông thấy Aladdin, chạy đi báo tin với chủ. Công chúa không thể tin vào điều ấy, chạy tới cửa sổ và nhận ra chồng mình. Nàng kéo mạnh cửa. Nghe tiếng động Aladdin ngẩng đầu lên, thấy công chúa và vui mừng khôn xiết chào nàng. Công chúa bảo:
- Để khỏi mất thì giờ, thị nữ sẽ mở cánh cửa bí mật chàng vào và lên đi.
Cánh cửa bí mật phía dưới phòng công chúa được mở ra, Aladdin lên phòng công chúa. Không thể tả hết nỗi vui mừng hai vợ chồng gặp lại nhau khi đã tưởng phải xa cách nhau vĩnh viễn. Họ ôm hôn nhau nhiều lần, thể hiện với nhau tình yêu và trìu mến sau cuộc chia cắt đáng buồn và bất ngờ của. họ. Sau những vồn vã thắm đượm nước mắt vui mừng, họ ngồi lại với nhau và Aladdin lên tiếng trước:
- Công chúa, trước khi kể mọi chuyện, ta khẩn cầu vì quyền lợi của chính nàng, của phụ hoàng kính mến và của riêng ta, nàng cho biết chiếc đèn cũ trước khi đi săn ta để ở gờ tường bây giờ ra sao rồi?
- Chà? Chàng thân yêu - Công chúa trả lời- Thiếp đã ngờ tai hoạ của chúng ta đến từ chiếc đèn và thiếp rất buồn lại chính do thiếp gây ra.
- Công chúa, nàng đừng nhận lỗi về mình, tất cả là do ta, đáng lẽ phải giữ gìn nó cẩn thận hớn. Chúng ta chỉ nên nghĩ cách sửa chữa sự mất mát ấy, muốn thế nàng làm ơn kể lại sự việc xảy ra thế nào và đèn mất vào tay ai?
Công chúa Badroulboudour kể lại việc đổi chiếc đèn cũ lấy đèn mới và đêm sau đó nàng nhận thấy lâu đài bị chuyển đi. Sáng dậy thấy mình ở một đất nước xa lạ này, được biết từ miệng tên phản trắc là đang ở châu Phi và bị mang tới do bùa phép.
- Công chúa - Aladdin ngắt lời - Nàng đã cho ta biết tên phản trắc. Hắn là kẻ xảo trá nhất thiên hạ nhưng không phải lúc kể lại với nàng nhiều hơn về sự độc địa của hắn. Chỉ xin nàng nói hắn đã làm gì với chiếc đèn và để nó ở đâu?
- Hắn bọc chiếc đèn rất kỹ bỏ trong người, em đã chứng kiến hắn lấy ra khoe với em như một kỳ công.
- Công chúa của ta, đừng giận vì ta yêu cầu nhiều điều làm nàng mệt mỏi. Những điều đó rất quan trọng đối với nàng và với ta, Để đi tới việc ta đặc biệt quan tâm, xin nàng nói rõ nàng thấy cách đối xử của một kẻ gian ác, xảo trá ấy hàng ngày ra sao?
- Từ khi thiếp đến đây, mỗi ngày hắn đến gặp thiếp một lần và chắc rằng không được thoả mãn vì những cuộc viếng thăm nên hắn ít quấy rối thiếp thường xuyên. Mọi câu chuyện hắn nói với thiếp nhằm làm mất lòng tin của thiếp đối với chàng và lấy hắn làm chồng, muốn làm cho thiếp không hy vọng gặp lại chàng, rằng chàng đã bị phụ hoàng chặt đầu chết rồi. Hắn còn giải thích thêm rằng chàng là một kẻ vô ơn, mọi của cải của chàng do hắn mà có và hang nghìn điều nữa nhưng em cứ mặc hắn nói. Do thiếp chỉ đáp lại bằng những kêu van khổ sở và nước mắt, hắn buộc phải rút lui không hài lòng như khi mới đến. Tuy thế thiếp chắc hắn có ý định chờ những đau khổ qua đi thiếp sẽ thay đổi tình cảm và cuối cùng nếu thiếp kiên trì chống đối hắn sẽ dùng sức mạnh. Bây giờ, chàng thân yêu, có mặt chàng em không còn lo ngại nữa.
- Công chúa - Aladdin ngắt lời nàng - Ta tin tưởng những lo ngại của nàng mất đi không vô ích, ta nghĩ đã tìm được cách giải thoát nàng khỏi tay kẻ thù.
Muốn thế ta phải ra phố, buổi trưa trở lại đây, sẽ trao đổi với nàng ý đồ như thế nào và nàng phải làm gì để góp phần thành công. Xin báo trước với nàng đừng ngạc nhlên khi ta mặc quần áo khác và nàng nhớ lệnh cho người chờ ta ở cửa bí mật, mở ngay khi ta gõ lần đầu.
Công chúa hứa sẽ có người chờ ở cửa và mở cửa ngay.
Khi Aladdin vẫn theo cánh cửa bí mật ấy ra ngoài, nhìn bốn phía thấy một nông dân đang đi về đường làng. Người nông dân đi ngược phía lâu đài và lúc đã xa, chàng bước vội cho kịp, đề nghị đổi bộ quần áo đang mặc chàng nói khéo nên người nông dân đồng ý.
Việc thay đổi quần áo tiến hành sau bụi rậm và chia tay nhau Aladdin đi vào thành phố. Qua cổng thành, chàng đến những đường phố sầm uất, vào một cửa hàng, hỏi mua một loại bột mê. Người bán nhìn vào quần áo nghĩ chàng nghèo, nói có loại ấy nhưng rất đắt. Aladdin biết ý nghĩ của chủ hàng, liền rút túi tiền ra để lộ vàng, bảo bán cho nửa đồng cân. Người bán gói bọt mê lại đưa cho chàng, đòi giá một đồng vàng. Aladdin cầm gói bột trả tiền, dừng lại trong thành phố một lát để ăn uống rồi trở lại lâu đài. Cửa bí mật mở ngay không làm chàng phải chờ, chàng bước thẳng lên phòng công chúa Badrouthoudour. Chàng nói với công chúa:
- Nàng đã thể hiện sự ghê tởm đối với kẻ cướp đoạt, có lẽ nàng sẵn sàng làm theo lời ta khuyên. Cho phép ta nói với nàng đã đến lúc cần giấu kín ý nghĩ mình, thậm chí phải dùng bạo lực nếu nàng muốn thoát khỏi sự hành hạ của kẻ thù và làm phụ vương hài lòng được gặp lại nàng. Nếu nghe theo lời ta, ngay từ bây giờ nàng hãy mặc bộ quần áo đẹp nhất và khi lão phù thuỷ đến thăm nàng nên tiếp đón hết sức tử tế, thật tự nhiên, nét mặt cởi mở, bởi nếu còn vài nét ưu tư hắn cũng nhận thấy hắn sẽ làm cho tất cả cùng biến mất đi vĩnh viễn. Trong lúc trò chuyện nàng cho hắn biết nàng sẽ cố gắng để quên ta đi hãy làm hắn tin chắc nàng thực lòng. Nàng mời hắn ở lại ăn khuya với nàng,và bảo nàng muốn uống loại rượu tốt nhất trong nước. Hắn nhất định sẽ đi kiếm rượu. Trong lúc chờ hắn trở lại, khi bữa ăn đã chuẩn bị xong, nàng bỏ loại bột này vào một chiếc cốc nàng vẫn thường dùng uống để riêng ra, báo trước với thị nữ phục vụ rượu chú ý đừng nhầm lẫn. Lão phù thuỷ trở lại và cùng ngồi vào bàn ăn, sau khi ăn uống một lúc, thấy thích hợp, nàng ra hiệu đưa cốc rượu có bột ra và đổi cốc của nàng với cốc của hắn. Hắn sẽ thấy tình cảm ưu ái của nàng quá lớn nên không từ chối, sẽ uống cạn cốc rượu và ngã vật ra ngay. Nếu nàng ghê tởm uống vào cốc của hắn thì chỉ giả vờ uống, nàng đừng ngại. Tác động của loại bột rất nhanh chóng, hắn không đủ thì giờ nghĩ xem nàng có uống hay không uống.
Aladdin nói xong, công chúa bảo:
- Thiếp thú nhận với chàng làm như thế đối với lão phù thuỷ là em đã dùng bạo lực. Nhưng đối với một kẻ thù độc ác thì có giải pháp nào ta không làm được? Thlếp sẽ làm như chàng khuyên vì sự yên bình của thiếp cũng như của chàng.
Dặn đò công chúa xong, Aladdin tạm biệt nàng ra vùng gần lâu đài chờ đến tối lại gần cánh cửa bí mật. Công chúa Bađdoulboudour buồn khôn nguôi không chỉ vì phải xa Aladdin, người chồng nàng đã yêu thực sự mà còn vì phụ hoàng thân yêu vốn yêu thương trìu mến nàng hết mực, từ lúc xa cách đau đớn này nàng không chăm sóc được. Có thể nói nàng đã quên cả việc trang điểm theo bản tính. Đặc biệt khi lão phù thuỷ đến gặp nàng lần đầu, được thị nữ cho biết chính hắn là người rao đổi chiếc đèn, nàng ghê sợ về sự lừa lọc nguy hại ấy. Cơ hội trả thù đáng giá này nàng chưa từng đám hy vọng khiến nàng càng quyết tâm nghe theo lời Aladdin. Nên khi chàng đã rút đi, nàng tắm rửa bảo thị nữ mặc quần áo cho nàng, chọn bộ sang trọng và phù hợp nhất, kèm với thắt lưng là chiếc vòng mười ba viên ngọc trai, mỗi bên cân đối sáu viên, viên giữa to nhất và quý nhất mà những hoàng hậu, công nương sung sướng có được một bộ đầy đủ độ lớn chỉ bằng hai viên nhỏ nhất của công chúa. Những vòng tay lẫn lộn kim cương và hồng ngọc phù hợp tuyệt vời với chiếc thắt lưng và chiếc vòng giàu có.
Mặc quần áo đầy đủ xong, công chúa Badroulboudour soi gương bảo các thị nữ ngắm sửa sang và khi đã thấy không còn thiếu vẻ đẹp nào có thể ìàm say mê lão phù thuỷ châu Phi, nàng ngồi trên ghế xô-pha chờ lão tới.
Lão phù thuỷ không quên đến theo giờ thường lệ. Khi công chúa thấy lão bước vào phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, nơi nàng đang ngồi chờ, nàng liền đứng dậy với mọi vẻ đẹp và duyên dáng, giơ tay chỉ chỗ danh dự và chờ lão cùng ngồi một lần, cử chỉ giao tiếp đặc biệt chưa bao giờ nàng đối xử với lão.
Lão phù thuỷ choáng ngợp về ánh mắt đẹp của công chúa hơn là màu sắc lóng lánh
Trên đây là toàn bộ nội dung tài liệu Bộ truyện Nghìn lẻ một đêm dành cho học sinh lớp 1. Để xem thêm nhiều tài liệu tham khảo hữu ích khác các em chọn chức năng xem online hoặc đăng nhập vào trang Chúng tôi để tải tài liệu về máy tính.
Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các em học sinh ôn tập tốt và đạt thành tích cao trong học tập.