1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
a. Mở bài:
- Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh in đậm vẻ đẹp nữ tính, vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ nhiều trắc ẩn, hồn nhiên, chân thành, đằm thắm, da diết trong khát vọng đời thường.
Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.
- Xuân Diệu - một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ Mới 1932 - 1945. Ông được đánh giá là "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới" bởi những cách tân cả về tư tưởng và bút pháp nghệ thuật.
- "Vội vàng" là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám, được coi là tuyên ngôn sống, tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ.
b. Thân bài:
* Vội vàng của Xuân Diệu:
- Bài thơ thể hiện “cái tôi” ham sống, muốn tận hưởng cuộc đời mãnh liệt. Như một tuyên ngôn của lòng mình, nhà thơ tự xác định một thái độ sống gấp, tận hưởng vì cảm nhận cái hữu hạn của cuộc đời (Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm); ý thức chiếm lĩnh, tận hưởng cuộc sống ở mức độ cao nhất (chếnh choáng, đã đầy, no nê ) những gì tươi đẹp nhất (mùi thơm, ánh sáng, thời tươi ).
- Các yếu tố nghệ thuật như điệp từ, điệp cấu trúc câu, động từ mạnh.. góp phần thể hiện cái hối hả, gấp gáp, cuống quýt của tâm trạng, khiến nhịp điệu đoạn thơ sôi nổi, cuồng nhiệt.
* Sóng của Xuân Quỳnh:
- Bài thơ thể hiện khát vọng lớn lao, cao cả trong tình yêu: ước mong được tan hòa cái tôi nhỏ bé-con sóng cá thể, thành cái ta chung rộng lớn- “trăm con sóng” giữa biển cả mênh mông. Những câu thơ có tính chất tự nhủ mình gợi cách sống, tình yêu mãnh liệt, hết mình: mong muốn được tan hòa vào tình yêu lớn lao của cuộc đời. Đó là cách để tình yêu trở thành bất tử.
- Thể thơ năm chữ với hình tượng “sóng”vừa ẩn dụ vừa giàu tính thẩm mĩ khiến đoạn thơ sâu sắc, giàu nữ tính.
* So sánh:
- Điểm tương đồng: Hai bài thơ đều bộc lộ cảm xúc mãnh liệt, những suy ngẫm trước cuộc đời. Đây là hai đoạn thơ có sự kết hợp giữa cảm xúc-triết lí.
- Điểm khác biệt: không chỉ nằm ở phong cách thơ (Xuân Diệu sôi nổi, mãnh liệt đầy nam tính, xuân Quỳnh thủ thỉ, tâm tình đầy nữ tính) mà còn trong cách “ứng xử” của mỗi nhà thơ: trước sự “chảy trôi” của thời gian, Xuân Diệu chọn cách sống gấp gáp, tận hưởng, Xuân Quỳnh lại thể hiện khát vọng muốn được tan hòa cái riêng vào cái chung để tình yêu trở thành bất tử …
c. Kết bài:
- Kết luận lại giá trị nội dung và nghệ thuật của hai bài thơ trên.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Em hãy so sánh bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh và Vội vàng của Xuân Diệu.
Gợi ý làm bài:
3.1. Bài văn mẫu số 1
“Thơ dù viết về ai, cái gì, xét đến cùng vẫn là sự bộc lộ cái tôi nhà thơ.” (Thanh Thảo). Tiếng nói trữ tình trong thơ bao giờ cũng thuộc về ngôi thứ nhất, là tiếng nói bên trong của một cái tôi cá nhân, cá thể của nỗi niềm, tâm trạng. Vì vậy, cùng nói về khát vọng tình yêu, Xuân Quỳnh nói: “Làm sao được tan ra...Để ngàn năm còn vỗ” (Sóng) còn Xuân Diệu trong bài thơ “Vội vàng” lại từng bộc bạch: “Ta muốn ôm...Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Tình yêu vốn là một đề tài quen thuộc đi về trong thơ ca muôn đời. Ta từng thổn thức trước nỗi nhớ của người con gái trong “Khăn thương nhớ ai”, ta từng đau lòng cho mối tình chớm nở của Kim – Kiều, ta từng xót xa cho sự chờ đợi vò võ canh khuya của người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm”. Và có lẽ, gắn với tình yêu là muôn ngàn suy ngẫm, muôn ngàn cách nghĩ, muôn vàn khát vọng. Với Xuân Quỳnh – một người phụ nữ với trái tim luôn rực cháy lòng yêu, chị tin vào tình yêu chân chính, chị thể hiện một cái tôi đầy nữ tính, duyên dáng và ý nhị đối với tình cảm thiêng liêng của loài người. Còn với thi sĩ Xuân Diệu, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm “lầu thơ trên mặt đất”, ông khao khát có một tình yêu trọn vẹn và cháy bỏng, muốn đem hết thảy cái dào dạt, mãnh liệt của tâm hồn để chiếm đoạt lấy tình yêu của tạo hóa. Đi về trong hai sáng tác nổi bật là hai cách viết, hai cách thể hiện, mang đậm dấu ấn cá nhân của mỗi người nghệ sĩ, tạo cho thế giới thơ ca những xúc cảm không ngờ, là những “tự truyện của một khát vọng” (J.M.Maulpoix).
Mở đầu bài thơ là sự mạnh mẽ, chủ động tìm đến hạnh phúc, kết thúc lại bằng sự hi sinh, yêu thương vô bờ. Mở đầu bài thơ là khát vọng được làm rõ mình, kết thúc lại bằng khát vọng được hòa mình của người phụ nữ. Mở đầu bài thơ là ước vọng về hạnh phúc đến cuối bài thơ chính là hành động để tạo dựng và gìn giữ hạnh phúc ấy. Sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế vừa chủ động, mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành. Đó là một quá trình biến đổi hết sức tự nhiên và cũng đầy can đảm, cao đẹp trong phẩm chất, vẻ đẹp của người phụ nữ. Từ đó, cũng tạo nên sự khác biệt trong giọng điệu: từ những câu thơ ngắt nhịp nhanh, giọng thơ tự tin, dứt khoát đến những câu thơ nhẹ nhàng, du dương như tiếng đại dương rì rào sóng vỗ, không nghe rõ thanh âm những vang vọng đến mãi về sau. Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ. Nếu nói thơ là chuyện “rút ruột rút gan mình” mà viết, Xuân Quỳnh chính là người như thế. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điều đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ.
Trước Xuân Quỳnh, từng có một nhà thơ đã có khao khát mãnh liệt như thế, một nhà thơ Mới với cách viết mới, suy nghĩ mới khiến nhà phê bình Chu Văn Sơn từng phải thốt lên: “Trong bầu khí quyển của tinh thần Xuân Diệu, thời gian chỉ có hai mùa: mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, tình yêu, sự sống, còn mùa thu là màu lá úa, tàn phai, rơi rụng. Cảm nhận thời gian của Xuân Diệu chỉ có hai thì: thì tươi và thì phai”.
Điệp từ “ta muốn” lặp lại kết hợp với các động từ mạnh “ôm, riết, say, thâu” càng thể hiện đậm nét khát khao yêu đương mãnh liệt của “ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu. Có lẽ vì quá đam mê trước cảnh sắc thiên nhiên với sự sống mơn mởn mới chớm nở trên từng cành cây kẽ lá, quá say đắm với mây và gió trời, quá yêu chiều với cánh bướm dập dờn trước gió, cho nên thi sĩ muốn “thâu trong một cái hôn nhiều”. Ông khát khao giao cảm, khát khao chiếm trọn lấy đất trời và cảnh sắc thiên nhiên, để tận hưởng trọn vẹn chúng, để “chếnh choáng” trong hương mật cuộc đời và để ‘đã đầy” trước ánh sáng của tạo hóa ban cho. Đối với Xuân Diệu, không có một tình yêu nào là tình yêu hời hợt. Đã yêu, đã thương, đã say thì phải giao cảm tuyệt đối, phải thực sự quyện hòa vào nhau để được đã đầy và no nê trong hơi men cuộc sống. Nàng Xuân với sắc đẹp và sự trẻ trung của mình đã thu hút được trái tim khao khát của người thi sĩ, khiến ông muốn thâu tóm cả “trời đất, và cây, và cỏ rạng” – sự lặp lại tưởng chừng như thừa thãi đó lại là một màn kết tuyệt đẹp trong khát vọng yêu được mãnh liệt của nhà thơ. Và đúng như Khrapchenko từng nói: “Điều còn lại của nhà văn là cái giọng của riêng mình” – Xuân Diệu, thi sĩ của những nỗi niềm tình cảm mãnh liệt, đã gieo vào lòng người những xúc cảm rất mực dào dạt như thế, đã khắc vào lòng người một dấu triện rất riêng. Và rồi lầu thơ của ông cứ cao lên mãi, bởi nó được xây dựng từ khao khát yêu đương và giao cảm, và khao khát đó chưa bao giờ thôi bùng cháy.
Đối với tình yêu, cả Xuân Quỳnh và Xuân Diệu luôn chân thành và nồng thắm nhất, có khát vọng được vĩnh viễn hóa tình yêu. Nhưng hướng tới tình yêu đôi lứa, Xuân Quỳnh lựa chọn dâng hiến hết mình, hòa mình để có thể vĩnh hằng tình yêu đẹp ấy. Đó chính là đức tính hy sinh, là thiên tính nữ trong thơ nữ sĩ, là vẻ đẹp muôn đời của những áng thơ nữ Việt Nam. Còn với tình yêu cuộc sống, Xuân Diệu chọn cách tận hưởng hết mình để vĩnh viễn hóa tuổi trẻ tươi đẹp một đi không trở lại. Đó chính là cách ứng xử của phương Tây dành cho cuộc sống, cho tình yêu. Mỗi cách ứng xử khác nhau với tình yêu, chúng ta lại thêm được những cảm nhận và tình cảm khác nhau.
Đến với mỗi trang viết là một thế giới mở ra, không lặp lại, không giản đơn. Điều đó làm cho văn học dẫu ra đời từ thời của Homere, Kinh thi nhưng sẽ tồn tại với ta đến ngày tận thế, dù là vật không thể mua cũng chẳng thể bán nhưng lại là thứ không thể thiếu trong đời sống con người để ta sống tốt, sống đẹp hơn.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Như những dấu vân tay duy nhất, mỗi người nghệ sĩ đều có cho mình một “vân chữ” độc nhất, không giống bất cứ ai. Vì thế, dẫu cùng dưới một bầu trời, hít một bầu không khí, dẫu chung một đề tài thì cuộc sống dưới con mắt của những người nghệ sĩ cũng không bao giờ là trùng lặp. Có thể thấy điều đó trong cái nhìn về tình yêu qua con mắt của Xuân Quỳnh.
Tình yêu và khát vọng luôn là những "nguyên tố" cần thiết trong cuộc đời mỗi con người. Bởi chỉ khi khao khát yêu và được yêu, khát khao khát sống và trân quý cuộc sống thì đó mới chính làm nên giá trị của cuộc sống. Và có lẽ vì vậy, hơn ai hết, mỗi nhà thơ, những con người thiết tha với cuộc đời và nhạy cảm trước thời cuộc lại càng hiểu rõ hơn điều đó. Bởi vậy, mà có những vần thơ được viết ra như thay lời muốn nói cho bao kiếp người, bao tình cảm thiết tha và mãnh liệt của con người muốn được thể hiện. "Sóng" và "Vội vàng" là những bài thơ như thế, những bài thơ của khát vọng tình yêu, khát vọng sống và cống hiến.
Xuận Diệu muốn ôm từ “sự sống mới bắt đầu mơn mởn” là những thứ nhỏ bé nhất như hạt mầm. Và “riết” những thứ siêu nhiên là “mấy đưa và gió lượn”. Tiếp theo là say trong những “cánh bướm với tình yêu” và “một cái hôn nhiều”. Và tất cả “non nước, cây, cỏ rạng” những thứ trên mặt đất đang tồn tại. Để cho cơ thể chếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng và cho no nê thanh sắc của thời tươi. Với hàng loạt các động từ mạnh như “ôm”, “riết”. “thâu”, “say”. “chếnh choáng”, “no nê” đủ thấy lòng ham muốn chiếm lĩnh sự sống của tác giả lớn như thế nào. Qua đoạn thơ này cho thấy Xuân Diệu không chỉ muốn sống một cách thông thường mà muốn sống nhanh sống gấp sống làm sao tận hưởng được hết những mật ngọt của sự sống.
Một nhà thơ nữa tiêu biểu cho cảm hứng lãng mạn và lòng ham sống của con người đó là Xuân Quỳnh. Nhà thơ nữ hiếm hoi là gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ của Xuân Quỳnh mang đậm vẻ đẹp nữ tính, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu nhạy cảm.
Một con sóng thôi làm sao có thể làm nên đại dương bao la, mà con sóng ấy phải hoà cùng nhịp điệu của biển sóng, của muôn ngàn con sóng mãnh liệt, vỗ bờ đến biển lớn. Sóng được hoà mình du ngoạn giữa đại dương để mãi mãi trường tồn, bất tử, ngàn năm sóng vẫn vỗ, vẫn đến bên bờ. Cũng như tình yêu của em dành cho anh, không thể giữ cho riêng mình được, phải là tình yêu lớn như biển cả kia, mênh mông như đại dương kia, phải là tình yêu của hai ta, của nhân loại, của người người trên thế gian. Đó không chỉ là biển của thiên nhiên mà còn là biển của tình yêu, là đại dương của tình yêu và tình yêu ấy mãi mãi trường tồn, bất tử, không hữu hạn như đời người, kiếp người. Một khát khao yêu thật cao đẹp và đầy phi thường. Tình yêu dường như là một khát vọng vĩnh hằng, rất đỗi mãnh liệt, thổn thức trong trái tim mỗi con người, trong trái tim tuổi trẻ.
Nhưng điểm khác biệt là nếu như thì nằm ở cách thể hiện cái tôi cá nhân. Nếu ở Xuân Diệu ta thấy sự mạnh mẽ nam tính thì ở Xuân Quỳnh ta lại thấy sự nhẹ nhàng, nữ tính. Những câu thơ của Xuân Diệu đọc lên cảm nhận được cái tôi mãnh liệt muốn khẳng định ước mướn lòng ham sống của bản thân. Thì những câu thơ của Xuân Quỳnh lại rất nhẹ nhàng đầy thủ thỉ, tâm tình.
Xuân Diệu chọn cách sống gấp gáp để hưởng thụ được hết những hoa thơm trái ngọt trên cuộc đời. Còn Xuân Quỳnh thì lại có ước muốn được hòa mình vào đời sống chung của nhân loại. Từ cái tôi nhỏ bé tiến đến cái ta ngoài biển lớn tình yêu.
Thông qua hai đoạn thơ trên đây chúng ta cảm nhận được lòng ham sống và cái tôi vô cùng lãng mạn của Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Mặc dù, họ sinh ra ở hai thời điểm, hai thế hệ khác nhau nhưng họ đều có chung một cái tôi lãng mạn và lòng tin yêu mãnh liệt đối với cuộc đời.
-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----