A. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
B. Dàn bài chi tiết
1. Mở bài
- Giới thiệu vài nét đặc sắc về tác giả tác phẩm, đoạn trích
- Dẫn dắt về nhân vật Thúy Kiều và em gái Thúy Vân hai người con gái có tài sắc nghiêng nước nghiêng thành là nhân vật chính trong trích đoạn Trao duyên.
2. Thân bài
a. 12 câu thơ đầu: Tâm trạng của Thúy Kiều khi giãi bày lí do, tìm cách thuyết phục để trao duyên cho Thúy Vân
- 2 câu đầu: Lời nhờ cậy
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
- Hành động: “ngồi lên”, “lạy”, “thưa”: Kính cẩn trang trọng với người bề trên hoặc người hàm ơn.
- Sự thay bậc đổi ngôi, đi ngược với lễ giáo phong kiến nhưng chấp nhận được. Bởi:
- Kiều coi Vân như ân nhân của mình.
- Kiều trân trọng tình yêu với Kim Trọng.
- Hai câu đầu:
- Từ ngữ chuẩn xác: Vừa trông cậy,vừa nài ép.
- Hành động trang trọng.
- Tình cảm chân thành.
- Hành động: “ngồi lên”, “lạy”, “thưa”: Kính cẩn trang trọng với người bề trên hoặc người hàm ơn.
- 10 câu tiếp (từ câu 3 đến câu 12): Lời giãi bày và thuyết phục
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
- Nghệ thuật
- Sử dụng thành ngữ → Tăng tính thuyết phục, tạo sự tế nhị.
- Cách ngắt nhịp 2/2: Vừa thiết tha vừa trang trọng.
- Nội dung:
- “Mối tơ thừa”: Kiều thông cảm cho những thiệt thòi của em.
- “Mặc em”: phó thác, ủy thác
- Kiều kể về tình yêu với Kim Trọng, nguyên nhân sự tan vỡ và quyết định của mình.
- Tình yêu với Kim Trọng: “khi ngày...chén thề”.
- Nguyên nhân tan vỡ: “Sự đâu...bất kì”.
- Quyết định khó xử: “Hiếu tình...vẹn hai”.
- Lí lẽ để thuyết phục Thúy Vân:
- Ngày xuân còn dài.
- Tình chị em máu mủ.
- Sự yên lòng của Kiều.
- Nghệ thuật
→ Thúy Vân không thể từ chối.
→ Kiều là người tinh tế thông minh; người con hiếu thảo, người yêu tình nghĩa.
⇒L í trí làm chủ tình cảm
b. 14 câu thơ tiếp (từ câu 13 đến câu 26): Tâm trạng của Thúy Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò em (Độc thoại)
- 6 câu đầu (từ câu 13 đến câu 18): Kiều trao duyên cho em
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
- Thúy kiều trao kỉ vật tình yêu (chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền).
- “Duyên này thì giữ”: Trao kỉ vật nhưng không thể quên được kỉ niệm → Tình yêu sâu đậm, nồng nàn Kim-Kiều.
- “Của chung”: từng là của riêng Kim và Kiều, nay là của chung Kim, Kiều, Vân →Sự, đau đớn, tiếc nuối.
- “Ngày xưa”: Mọi kỉ niệm chỉ còn là quá khứ → Luyến tiếc.
⇒ Lí trí mâu thuẫn với tình cảm
- 8 câu tiếp (từ câu 19 đến câu 26)
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan
- Kiều nhớ đến kỉ niệm cùng Kim Trọng.
- Kiều tưởng tượng khi Vân là người thay thế mình.
- Viễn cảnh hội ngộ bằng thế giới tâm linh.
- Dự cảm về cái chết đầy oan khuất, linh hồn không thể siêu thoát.
- “Hồn”: Nói đến cái chết.
- “Bồ liễu”: Chỉ người phụ nữ yếu đuối.
- “Trúc mai”: Chỉ tình yêu lứa đôi.
- “Dạ đài”: Âm phủ.
- “Thác oan”: Cái chết oan khuất.
- Kiều dặn dò em:
Thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Nhớ đến tình máu mủ chị em.
- Chết đi vẫn nặng lời thề: Tình yêu thủy chung, mãnh liệt, bất tử.
→ Ý thức về sự bất hạnh của bản thân, tự khóc thương cho mình.
⇒ Tình cảm lí trí xen lẫn
c. 8 câu thơ cuối (từ câu 27 đến câu 34): Kiều đối diện với thực tại và hướng tới Kim Trọng
- 6 câu đầu (từ câu 27 đến câu 32): Kiều trở về hoàn cảnh thực tại:
Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
- “Trâm gãy gương tan”
- “Phận bạc như vôi” → Thành ngữ chỉ sự tan vỡ, lênh đênh
- “Nước chảy hoa trôi”
→ Thành ngữ chỉ sự dở dang
⇒Ý thức về thân phận mình
- 2 câu cuối: Kiều hướng tới Kim Trọng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
- Hành động:
- Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt
- Tự nhận mình là người phụ bạc → Day dứt, mặc cảm.
- Hai lần gọi tên: Tức tưởi, đau đớn.
- “Kim Lang”: cách gọi thân mật như vợ chồng.
- Dấu chấm than: Diễn tả cảm xúc.
- Cách ngắt nhịp: Như tiếng nấc nghẹn ngào.
- Từ cảm thán (Ôi, hỡi, thôi thôi): Tiếng kêu đầy tuyệt vọng, tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo bất công trà đạp số phận con người.
- Hành động:
⇒ Tình cảm lấn át lí trí
⇒ Thúy Kiều là người con gái giàu đức hi sinh và giàu lòng vị tha, biết sống vì người khác.
3. Kết bài
- Đoạn trích nói lên được số phận bất hạnh của nàng Kiều về tình yêu, không được hưởng tình yêu chọn vẹn.
- Nghệ thuật miêu tả nội tâm, khám phá nội tâm nhân vât đặc sắc
C. Bài văn mẫu
Đề bài: Phân tích đoạn trích Trao duyên
Gợi ý làm bài:
Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang tươi đẹp, nồng nàn thì Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Trong khi đó tai họa đổ ập xuống gia đình Thúy Kiều. Của cải bị bọn sai nha vét sạch. Cha và em trai Thúy Kiều bị bắt, bị đánh. Bọn quan lại đòi đút lót “có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Trước biến cố đau lòng đó, một người giàu tình cảm, giàu đức hi sinh như Thúy Kiều không còn cách nào khác là phải bán mình lấy tiền cứu cha và em. Nhưng còn mối tình với Kim Trọng? Thúy Kiều hết sức đau khổ. Cuối cùng nàng quyết định nhờ em thay mình lấy Kim Trọng. Đoạn Trao duyên trong Truyện Kiều rất cảm động. Có lẽ đây là cảnh tượng đau lòng chưa từng thấy trong nền văn học nhân loại.
Dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã dựng lại chi tiết trao duyên thật sống động. “Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân” thì thấy chị mình đang thổn thức giữa đêm khuya. Vân ghé đến ân cần hỏi han. Thúy Kiều thật là khó nói, nhưng “để lòng thì phụ tấm lòng với ai”. Thương cha, nàng bán mình, thương người tình, nàng đành cậy em:
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa,
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc, em.
Trong đây từ diễn tả khái niệm nhờ, Nguyễn Du đã chọn từ “cậy”, tuyệt vời chính xác. Từ “cậy” hàm chứa niềm tin mà người được nhờ không thể thoái thác được. Lại thêm một cử chỉ thiêng liêng là “lạy”. Thuở đời chị lại lạy sống em bao giờ! Mà chỉ để trao duyên. Mối tình với chàng Kim sâu nặng biết chừng nào, thiêng liêng biết chừng nào! Trong nước mắt, giữa đêm khuya, Thúy Kiều đã kể lể sự tình cho cô em nghe:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
-----Để tham khảo nội dung đầy đủ của tài liệu, các em vui lòng tải về máy hoặc xem trực tuyến-----
Tình cảm dẫu sao vẫn còn trừu tượng, chứ kỉ vật của tình yêu thì cứ hiển nhiên hiện ra đó, cho nên Thúy Kiều trao “chiếc vành với bức tờ mây” cho em thì nàng cũng đau đớn đến tột độ. Mỗi lời của nàng nặng như chì. Nàng trao duyên, trao kỉ vật cho em mà nàng uất giận cuộc đời. Cái xã hội bắt con người phải chung cả cái không thể chung được thì có đáng nguyền rủa không Đây chính là lời tố cáo vọng đến thấu trời của Nguyễn Du đối với xã hội đã chà đạp lên hạnh phúc của con người.
Thúy Kiều trao duyên là coi như mình đã khuất. Nàng dặn em giữ gìn kĩ vật và còn dặn em hãy thương lấy linh hồn vật vờ đau khổ của chị trên cõi đời đen bạc này:
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím nàv.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Lời lẽ huyền hồ bóng ma nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió...”. Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ.
Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng trước mặt rành là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Mỗi lời của nàng là một lời vận vào. Trước nỗi đau xót này, nàng chỉ trách mình là “phận bạc”, là “hoa trôi”, những hình ảnh đó làm động lòng thương lên hết thảy chúng ta. Đối với Kim Trọng, nàng còn mặc cảm tội lỗi là chính nàng đã “phụ chàng”. Chính tâm lí mặc cảm tội lỗi cao thượng đó khiến nàng chết ngất trong tiếng kêu thương thấu trời:
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!
Đoạn Trao duyên trong Truyện Kiều là một khúc “đoạn trường” trong thiên “Đoạn trường tân thanh”. Với con mắt tinh đời, Nguyễn Du đã phát hiện thấy trong truyện của Thanh Tâm Tài Nhân một tình tiết rất cảm động và bằng nghệ thuật tuyệt vời, ông đã dựng lại đoạn Trao duyên hết sức sâu sắc và độc đáo. Tác giả đã đối lập hai tính cách của hai chị em một cách tài tình: con người của đời thường và con người của phi thường. Trong sự kiện “sóng gió bất kì” này, Thúy Vân vô tư, hồn nhiên (cũng đừng vội chê trách Thúy Vân. Nhân vật này còn là một kho bí mật trong công trình nghệ thuật kiệt tác của Nguyễn Du mà chúng ta chưa kịp bàn ở đây), còn Thúy Kiều thì đau đớn. Nguyễn Du đã dụng công miêu tả tâm lí, sự vận động nội tâm nhân vật, cũng có thể nói Nguyễn Du đã đạt đến phép biện chứng của tâm hồn. Chỉ qua đoạn Trao duyên, chúng ta cũng cảm nhận được Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, giàu đức hi sinh, có ý thức về tình yêu và cuộc sống. Một nhân cách như vậy mà vừa chớm bước vào đời như một bông hoa mới nở đã bị sóng gió dập vùi tan tác. Nói như Mộng Liên Đường chủ nhân: khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút của Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua trang giấy. Hơn hai trăm năm rồi, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa ráo.
Trên đây là bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Trao duyên. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm:
-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----