Nội dung bài giảng Bài 1: Lạm phát tiền tệ sau đây sẽ giúp các bạn tìm hiểu về các vấn đề chung về lạm phát, hậu quả và những biện pháp khắc phục lạm phát. Mời các bạn cùng tham khảo!
Tóm tắt lý thuyết
1. Các vấn đề chung về lạm phát
1.1 Khái niệm, đặc trưng, nguyên nhân của lạm phát
Một trong những vấn đề nan giải nhất mà các quốc gia, (đặc biệt là các quốc gia chuyển đổi từ một nền kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường) phải đối mặt là lạm phát. Tuy nhiên, đó là thách thức mà các quốc gia đó phải vượt qua nếu muôn được hưởng những lợi ích vật chất mà nền kinh tế thị trường có thể mang lại.
Các quan điểm về lạm phát
Có nhiều quan điểm nhìn nhận và định nghĩa lạm phát rất khác nhau:
- Có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng lên liên tục của giá cả, nói cách khác đó là tình trạng mức giá cả tăng và tăng liên tục. Theo quan điểm này thì không kể giá cả tăng lên do nguyên nhân nào đều là lạm phát. Đây là quan điểm chưa hoàn toàn đúng.
- Quan điểm khác cho rằng lạm phát là việc phát hành thừa tiền giấy vượt quá mức đảm bảo bằng vàng, bạc, ngoại tệ,... của quốc gia, vì vậy gây ra sự mất giá của tiền giấy làm cho giá cả hàng hóa bị đẩy lên cao, quan điểm này quá coi trọng cơ sở đảm bảo bằng vàng, ngoại tệ cho tiền trong nước và người ta cho rằng để chống lạm phát cần phục hồi lại chế độ tiền giấy chuyển đổi ra vàng theo một mức giá quy định.
- Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa tiền và hàng trong nền kinh tế, sự mất cân đối vời tiền lớn hơn càng khiến cho giá cả tăng lên ở mọi lúc, mọi nơi. Để khắc phục tình trạng này cần dùng một biện pháp để thiết lập lại sự cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế.
- Việc nhìn nhận lạm phát bằng định nghĩa này hay định nghĩa khác khó đi đến thống nhất theo từng quan điểm riêng biệt. Nhưng lạm phát có thể nhận diện thông qua những đặc trưng cơ bản.
Các đặc trưng cơ bản của lạm phát:
- Sự thừa tiền do cung tiền tệ tăng quá mức.
- Sự tăng giá cả đồng bộ và liên tục theo sự mất giá của tiền giấy.
- Sự phân phối lại qua giá cả.
- Sự bất ổn về kinh tế - xã hội.
Từ những quan điểm trên Milton Friedman(bổ sung thông tin) đưa ra mí c khái niệm về lạm phát được nhiều nhà kinh tế đều đồng ý:
- Khái niệm lạm phát: Lạm phát là hiện tượng cung tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho mức giá cả chung tăng nhanh tồn tại trong một thời gian dài.
- Bản chất của lạm phát: là một hiện tượng tiền tệ khi những hiến động tăng lèn của giá cả diễn ra trong một thời gian dài.
- Nguyên nhân của lạm phát
Hiện nay nguyên nhân của lạm phát có nhiều quan điểm khác nhau nhưng có thể xem xét các phương thức như sau:
Phương thức thứ nhất: Xét theo ba quan diểm
- Quan điểm một: Quan điểm đồng nhất giữa lạm phát và tăng giá - gọi là lý thuyết về lạm phát và tăng giá.
Theo quan điểm này thì lạm phát là sự tăng giá nói chung của hàng hóa. Người ta thường dựa vào chỉ số giá cả hàng tiêu dùng (CPI) đế xác định mức độ của lạm phát.
- Quan điểm hai: Lạm phát lưu thông tiền tệ.
Cho rằng lạm phát là kết quả của việc tăng thêm tiền với một tỷ lệ cao. Quan niệm này cho rằng lạm phát cao là kết quả của tăng trưởng tiền tệ cao, song các .nhà kinh tế cũng phải thừa nhận lạm phát cao kéo theo sự tăng trưởng tiền tệ cao. Nhưng đây cũng chưa thể được coi là một nguyên nhân đầy đủ.
- Quan điểm ba: Lạm phát nhu cầu và lạm phát chi phí đẩy:
Lạm phát nhu cầu (lạm phát cầu - kéo): Xảy ra khi những nhà hoạch định chính sách theo đuổi chính sách phát triển “nóng” nền kinh tế làm tổng cầu tiền tệ tăng cao. Quan điểm này coi lạm phát như ]à cầu quá mức đối với nhiều mặt hàng trên thị trường.
Lạm phát chi phí (lạm phát chi phí - đẩy): Xảy ra do giá các yếu tố đầu vào của sản xuất như: giá những nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu tăng cao hoặc giá nhân công tăng cao đẩy giá hàng hóa dịch vụ tăng theo. Trong hoàn cảnh sản xuất không tăng hoặc tăng ít mà chi phí tăng lên (trước hết là chi phí nguyên, nhiên, vật liệu và chi phí nhân công) thì sẽ sinh ra lạm phát chi phí đẩy.
Nhìn chung cả ba quan điểm này đều cho rằng nguyên nhân làm tăng giá cả là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Phương thức thứ hai: Nguyên nhân của lạm phát có thể xét theo hai cách:
- Cách thứ nhất: Xét theo nguồn gốc gây ra lạm phát:
- Nguyên nhân cơ bản và sâu xa: Nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, sản xuất sút kém ngân sách quốc gia bị thâm hụt dẫn đến lạm phát.
- Nguyên nhân trực tiếp: Cung cấp tiền tệ tăng trưởng quá mức cần thiết.
- Nguyên nhân quan trọng: Là hệ thống chính trị bị khủng hoảng do những tác động bên trong hoặc bên ngoài, làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ của Nhà nước bị xói mòn, từ đó làm cho uy tín và sức mua của đồng tiền bị giảm sút, họ không tiêu xài hoặc đánh giá thấp giấy bạc mà nhà nước phát hành.
- Cách thứ hai: Nguyên nhân chủ yếu của lạm phát xét theo chủ quan và khách quan
- Nguyên nhân chủ quan: Bắt nguồn từ những chính sách quản lý kinh tế không phù hợp của nhà nước như: chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất, chính sách thuế... làm cho nền kinh tế bị mất cân đối, hiệu quả sản xuất bị sút kém ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi ngân sách bị thâm thủng thì nhà nước phải tăng phát hành. Đặc biệt đối với một số quốc gia trong những điều kiện nhất định, nhà nước chủ trương dùng lạm phát như một công cụ để thực thi chính sách phát triển kinh tế.
- Nguyễn nhân khách quan: Như thiên tai, động đất, sóng thần là những nguyên nhân bất khả kháng, hoặc nguyên nhân nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh, tình hình biến động của thị trường nhiên liệu, vàng, ngoại tệ trên thế giới.
1.2 Đo lường lạm phát
- Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Các giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tô hợp với nhau đế đưa ra một chỉ số giá cả để đo mức giá cả trung bình, là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này; để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.
- Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các số đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
- Chỉ số giả tiêu dùng (CPI) (là chỉ số đo lường thông dụng nhất, cơ bản nhất): đo giá cả của một sự lựa chọn các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông thường". Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thông thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muôn có khoản chi trả (danh nghĩa) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động bao gồm cả các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
- Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết trong giá cả sinh hoạt của một cá nhân, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI cụ thể nào đó là cao hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong các giá ca của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ các giá cả thế giới nói chung).
- Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không băng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán, ơ đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPL Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
- Chỉ số giá hán buôn đo sự thay đổi trong giá cả của một tổ hợp các hàng hóa bán buôn (thông thường là giá bán trước thuế). Chỉ số này râ"t giông với PPL
- Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đối trong giá cả của một tổ hợp các hàng hóa. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
- Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó dựa trên tỷ lệ của tổng giá trị tiền được tiêu vào GDP (GDP danh nghĩa) với phép đo GDP đã điều chỉnh lạm phát (giá cố định hay GDP thực). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát:
- Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cả nhân (PCEPI).
- Trong "Báo cáo chính sách tiền tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm 2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đồi thước đo cơ bản về lạm phát từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá nhân".
1.3 Các loại lạm phát
Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là giá cả hàng hóa tăng lên liên tục, nên người ta thường căn cứ vào chỉ số giá cả hàng hóa tăng để làm căn cứ phân làm ba mức độ lạm phát:
Lạm phát vừa phải (mild inflation) là lạm phát ở mức độ thấp còn gọi là lạm phát một con số. Biểu hiện ở giá cả hàng hóa tăng chậm trong khoảng 10% trở lại (< 10%). Trong đó đồng tiền mất giá không lớn, chưa ảnh hưởng nhiều đến sản xuất kinh doanh. Loại lạm phát này thường được các nước có nền kinh tế phát triển duy trì như một chất xúc tác cho nền kinh tế phát triển.
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm
Lạm phát phi mã (strato - inflation): Loại này xảy ra khi giá cả bắt đầu tăng với tỷ lệ hai con số như 20%, 30%, 40%, ... 99%, khi lạm phát phi mã phát sinh nó bắt đầu ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội.
Siêu lạm phát (hyper-inflation): Xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa lạm phát phi mã thường là từ ba con số trở lên (100% trở lên). Nếu trong điều kiện lạm phát phi mã vẫn tồn tại những trường hợp cá biệt như Brazil, Israel có mức lạm phát 200%/năm, song tốc độ phát triển kinh tế vẫn tốt trong giai đoạn siêu lạm phát, người ta đã ví nó như căn bệnh ung thư gây chết người, có những tác động rất lớn đến nền kinh tế mà lịch sử lạm phát của thế giới phải ghi nhận.
Ví dụ như lạm phát ở Đức 1921 - 1923: Khi nhu cầu về bồi thường chiến tranh và xây dựng lại nền kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, làm cho chi của chính phủ vượt thu rất nhiều: chính phủ Đức có thể tăng thu để chi trả cho chi tiêu tăng lên đó bằng tăng thuế, nhưng biện pháp này về mặt chính trị là khỏng hợp với lòng dân và đòi hỏi nhiều thời gian để thực hiện. Chính phủ cũng có thể vay của công chúng để trang trải chi tiêu đó, nhưng số tiền cần vay vượt xa khả năng cho vay. Chỉ còn lại một con đường duy nhất: in tiền. Chính phủ có thể chi trả cho những chi tiêu đơn giản bằng in thêm nhiều tiền giấy (tăng cung tiền tệ), và dùng tiền đó trả cho các cá nhân hoặc công ty đã cung cấp cho chính phủ hàng hóa hoặc dịch vụ. Đó chính là điều mà chính phủ Đức đã làm.
Cuối năm 1921 cung tiền tệ bắt đầu tăng nhanh và mức giá cả cũng vậy. Năm 1923 tình hình ngân sách của chính phủ Đức lại càng xấu đi hơn nữa. Pháp xâm chiếm Đức vì không trả được tiền bồi thường theo quy định. Do vậy một cuộc tổng bãi công nổ ra để phản đối hành động của Pháp, và chính phủ Đức cũng ủng hộ tích cực cuộc bãi công đó và đã trả tiền cho công nhân bãi công. Kết quả là chi của chính phủ leo thang nghiêm trọng, và chính phủ in tiền giấy với tốc độ nhanh hơn để tài trợ cho chi tiêu này. Kết quả của sự bùng nổ trong cung tiền tệ là mức giá cả bùng nổ, đưa đến ,một tỷ lệ lạm phát trong năm 2003 của Đức vượt quá 1.000.000%. Cuối kỳ siêu lạm phát vào năm 1923, mức giá đã tăng lên gấp bội so với mức giá hai năm trước đó.
Ví dụ có câu chuyện xảy ra vào gần cuối cuộc lạm phát, là một xe cút kít tiền mặt chỉ đủ để mua một ổ bánh mỳ. Tiền mất giá trị nhanh đến mức công nhân được trả lương và được cho thời gian vài lần trong ngày để tiêu tiền lương trước khi nó trở nên kém giá hơn nữa. Không ai muốn giữ tiền và như vậy việc dùng tiền để thực hiện các giao dịch giảm đi, việc trao đổi hàng — hàng dần dần ngự trị, các chi phí giao dịch tăng lên, sản lượng trong nền kinh tế bị sụt giảm nghiêm trọng, ở Đức năm 1923 bạn cần phải dùng đến 726 triệu Mark Đức đê mua một món hàng mà vào năm 1918 bạn chỉ cần trả có 1 Mark. Năm 1923, một bà nội trợ Đức đã đốt tờ giấy bạc Mark trong lò bếp vì lý do đun bếp băng giấy bạc Đức khi này còn tiết kiệm hơn là dùng chúng để mua củi lò. Hoặc trong thời kỳ Cách mạng Mỹ giá trị của tiền giấy sụt giảm rất nhiều từ 1 đô-la xuống còn 2,5 cent. Hoặc lạm phát ở các nước châu Mỹ La tinh trong thập kỷ 1980-1990. Argentina có tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ và tỷ lệ lạm phát bình quân cao nhất trên 10.000%. Bolovia còn có tỷ lệ lạm phát cao hơn vào năm 1985.
Những năm gần đây có nhiều nước đạt con số kỷ lục về lạm phát như Zimbabwe: Lạm phát cao nhất thế giới vđi 7.892% ở năm 2007.
Theo đó trung bình mỗi tháng tỷ lệ lạm phát ồ Zimbabwe tăng 38,7%. Tình hình lạm phát kinh tế tại Zimbabwe được Thông đốc Ngân hàng Trung ương Zimbabwe Gideon Gono ví như căn bệnh HIV trong kinh tế. Nền kinh tế Zimbabwe liên tục suy giảm nhanh chóng trong suốt 7 năm qua. Điều này được thể hiện ở tỷ lệ lạm phát cao nhất thế giới, khan hiếm các mặt hàng thực phẩm cơ bản như lương thực, đường, dầu ăn,...
Khoảng 80% dân số Zimbabwe hiện đang sống dưới mức nghèo khổ, thường xuyên bị đứt bữa. Các công chức đi làm việc hầu hết phải đi xe đạp, đi bộ đến công sở trong khi phải xoay xở để cố tồn tại đến kỳ lĩnh lương sau.
Tháng 8 năm 2006, Ngân hàng Trung ương Zimbabwe phải in tiền mới với mệnh giá cắt giảm đi ba con số zero nhằm làm giảm các chữ số lởn trong các con số tính toán, cũng như để giúp người dân khi đi mua sắm đồ dùng thiết yếu cho gia đình, không phải vác theo những bịch tiền không lồ nhưng giá trị mua hàng rất nhỏ.
2. Hậu quả và những biện pháp khắc phục lạm phát
2.1 Hậu quả lạm phát
Ngoại trừ trường hợp lạm phát nhỏ, lạm phát vừa phải (một con số) có tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế, còn lại nói chung lạm phát đều gây ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển của nền kinh tế xã hội.
Hậu quả của lạm phát tựu trung lại ở những mặt sau
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh: Trong điều kiện lạm phát ở mức độ cao, giá cả hàng hóa bị tăng liên tục, điều này làm cho sản xuất gặp khó khăn. Quy mô sản xuất khống tăng hoặc bị giảm sút do nhu cầu phải bổ sung vốn đầu tư liên tục. Cơ cấu nền kinh tế dễ bị mâ"t cân đôi vì sẽ có xu hướng phát triển những ngành sản xuất có chu kỳ ngắn, thời gian thu hồi vốn nhanh, còn những ngành sản xuất có chu kỳ dài, thời gian thu hồi vốn chậm sẽ có xu hướng bị đình đốn, phá sản. Vì vậy, trong điều kiện có lạm phát, lãnh vực thương nghiệp thường phát triển mạnh. Bên cạnh đó việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh không còn chính xác vì thước đo của đồng tiền bị thu hẹp, công tác hạch toán chỉ còn là hình thức.
Trong lĩnh vực thương mại: Người ta từ chôi tiền giấy trong vai trò là trung gian trao đổi đồng thời chuyển sang đầu cơ tích trữ vàng, hàng hóa, đẩy khỏi tay những đồng tiền mất giá. Điều này càng làm cho lưu thông tiền tệ bị rối loạn. Lạm phát xảy ra còn môi trường tốt để những hiện tượng tiêu cực trong đời sống phát sinh, như đầu cơ, tích trữ gây cung - cầu hàng hóa giả tạo...
Trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng: Tín dụng cũng bị rơi vào khủng hoảng khi người dân không an tâm đầu tư trong điều kiện lạm phát gia tăng. Lạm phát làm sức mua của đồng tiền bị giảm, lưu thông của tiền tệ diễn biến khác thường, tốc độ lưu thông của thị trường tăng lên một cách đột biến, hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng do nguồn tiền gửi trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng, nhiều ngân hàng bị phá sản do mất khả năng thanh toán, và thua lỗ trong kinh doanh dẫn đến hệ thông tiền tệ bị rối loạn không thể kiêm soát nổi.
Trong lĩnh vực tài chính nhà nước: Tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập cho NSNN qua cơ chê" phân phối lại sản phẩm và thu nhập quôc dân, nhưng do ảnh hưởng nặng nề của lạm phát mà những nguồn thu của NSNN (chủ yếu là thuế) ngày càng bị giảm do sản xuất bị sút kém, do nhiều công ty xí nghiệp bị phá sản, giải thể...
Trong lĩnh vực đời sống xã hội: Đại bộ phận tầng lớp dân cư sẽ rất khó khăn và chật vật do phải chịu áp lực từ sự gia tăng của giá cả. Giá trị thực tế của tiền lương giảm sút nghiêm trọng dẫn đến trật tự an toàn xã hội bị phá hoại nặng nề.
Như vậy lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sông kinh tế xã hội, và nhà nước phải cân bằng được giữa nhu cầu khuyến khích tăng trưởng kinh tế và sự đòi hỏi phải kiểm soát được lạm phát.
2.2 Những hiện pháp cơ bản khắc phục lạm phát
Các biện pháp chống lạm phát trong chế độ lưu thông tiền kim loại
Thời kỳ các nước còn áp dụng chế độ lưu thông tiền kim loại, tùy theo mức độ mất giá của tiền giấy mà sẽ áp dụng một trong ba biện pháp:
- Biện pháp loại bỏ tiền giấy không bồi hoàn (Annulation).
- Biện pháp khôi phục (Restoration).
- Biện pháp phá giá tiền tệ (Devaluation).
Ngày nay, trong thời đại lưu thông tiền giấy bất khả hoán, căn bệnh lạm phát hầu như là hiện tượng tất yếu ở các nước, chỉ khác nhau ở mức độ cao, thấp. Trải qua lịch sử lạm phát hầu như chưa có ở nước nào có thể dập tắt hoàn toàn lạm phát, mà vấn đề là cần duy trì lạm phát ở mức độ vừa phải. Tuy nhiên, khi lạm phát tăng ở mức độ phi mã hoặc siêu lạm phát, thì lạm phát không còn được xem là công cụ điều tiết kinh tế nữa, mà nhà nước cần áp dụng những biện pháp nhằm kiềm chế và đẩy lùi lạm phát sao cho thích ứng trong từng giai đoạn, tình huống của nền kinh tế.
Các biện pháp chống lạm phát trong nền kinh tế thị trường:
Trong cơ chế thị trường những giải pháp chông lạm phát là rất đa dạng, chúng ta có thể nêu lên một số giải pháp cơ bản sau:
Biện pháp cơ bản chiến lược chung của các quốc gia:
- Nhà nước cần xây dựng chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn nhằm tạo động lực cho sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. Đây sẽ là tiền đề vững chắc để ổn định lưu thông tiền tệ góp phần đưa nền kinh tê thoát khỏi khủng hoảng và suy thoái.
- Nhà nước cần xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Phát triển ngành mũi nhọn xuất khẩu. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế nhằm thúc đẩy các nhu cầu cơ bản của đời sống kinh tế xã hội và việc làm của nhân dân lao dộng.
- Nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước bằng các công cụ vốn có như luật pháp, các công cụ tài chính, tiền tệ, giá cả... để tác động đến mọi mặt hoạt động của nền kinh tế xã hội, do đó việc nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước được coi là biện pháp mang tính chất chiến lược để ổn định tiền tệ, tinh giản biên chế và cải cách hành chính.
- Nhà nước cần chống thâm hụt ngân sách
Những biện pháp chống lạm phát đối với các nước phát triển
- Ở các nước phát triển, người ta thường theo đuổi việc thực hiện một chính sách kinh tế vĩ mô nào đó, mà việc thực hiện một chính sách như vậy thường cũng sinh ra lạm phát.
- Trước hết đó là giải quyết việc làm cho người lao động, giải quyết nạn thất nghiệp. Các nhà nghiên cứu kinh tế ở Mỹ và các nước phát triển đều thống nhất rằng, khi chính phủ muốn thực hiện chỉ tiêu việc làm cao (thất nghiệp giảm) có thể đưa đến lạm phát chi phí-đẩy và lạm phát cầu-kéo. Vì vậy lạm phát là hiện tượng của lưu thông tiền tệ và thâm hụt ngân sách. Lạm phát và thâm hụt ngân sách là bạn đồng hành với nhau.
- Việc lựa chọn biện pháp chống lạm phát ở các nước trên thế giới không hoàn toàn giống nhau. Ngay cả ở một nước trong những thời kỳ khác nhau người ta cũng áp dụng những biện pháp khác nhau. Nhìn chung ở các nước phát triển có các biện pháp sau đây:
Biện pháp hạn chế tiền tệ hay đóng băng tiền tệ:
- Để góp phần giảm lượng tiền đang dôi thừa trong lưu thông, nhà nước cần vận dụng những công cụ điều tiết, như tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm, tăng thuế đối với những cá nhân hoặc những doanh nghiệp có thu nhập cao, đồng thời trợ cấp cho những người hưởng lương thấp hoặc những mặt hàng có mức giá tăng chậm. Để hạn chế phát hành tiền, nhà nước cần tính toán lại chi tiêu, cắt giảm những khoản chi chưa cần thiết, tính giảm và kiện toàn bộ máy hành chính, mặt khác, nhà nước cần tận dụng những nguồn tiền đang dư thừa trong lưu thông để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu nhằm hạn chế phát hành tiền để bù đắp.
- Biện pháp này xuất phát từ luận điểm của M.Friedman, tin rằng sự tăng trưởng kinh tế ổn định của một quôc gia chỉ là kết quả của một chính sách tiền tệ ổn định. Chính sách tiền tệ ổn định và hiệu quả chỉ có thể dựa trên sự kiểm soát chặt chẽ khối lượng tiền phát hành trong lưu thông, nghĩa là kiểm soát sự cung ứng tiền tệ kết hợp với chính sách thuế, nhằm kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng dài hạn.
- Biện pháp này được áp dụng ở Mỹ trong nhiều thập niên và tỏ ra có hiệu quả, vì vậy nó được nhiều nước thừa nhận như là một biện pháp chủ yếu để ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát.
Biện pháp dùng lạm phát chống lạm phát (còn gọi là nới lỏng tiền tệ):
- Được áp dụng đối với những quốc gia còn ẩn chứa tiềm năng về lao động, đất đai, tài nguyên, nhà nước phát hành tiền như một công cụ thực thi chính sách kinh tế. Tuy nhiên điều này lại đòi hỏi trình độ quản lý kinh tế, trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến và tiềm năng sản xuất mạnh mẽ mới có khả năng đem lại hiệu quả, nếu không lượng tiền thừa rất dễ gây tác hại đến sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Biện pháp này dựa trên quan điểm của J.M.Keynes cho rằng một nền kinh tế tăng trưởng và có hiệu quả là giải quyết đầy đủ việc làm (toàn dụng); muôn vậy phải kích thích mặt cầu bằng các chính sách vĩ mô của nhà nước. Trong đó, việc nới lỏng tiền tệ, mở rộng việc cung ứng tiền sẽ kích thích mặt cầu, giải quyết được nạn thất nghiệp nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhờ đó lạm phát sẽ được kiểm soát.
- Quan điểm này coi lạm phát và chống lạm phát là một quá trình liên tục, nghĩa là vừa chống lạm phát vừa thực hiện chính sách tiền tệ lạm phát.
- Biện pháp này được thừa nhận ở Mỹ vào những thập niên 1940, 1950, 1960; sau đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nước Nam Mỹ, các nước Argentina, Peru, Brazil, Bolivia có tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ bình quân lên đến trên dưới 300%, các nước khác như Uruguay, Mexico có tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ bình quân hàng năm khoảng trên dưới 60%.
- Biện pháp kiềm giữ giá cả: Nhà nước có thể áp dụng tự do mậu dịch để tăng quỹ hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa tiêu dùng góp phần cân đối với nguồn tiền, dư tiền. Ngoài ra, nhà nước cần bán vàng và ngoại tệ vừa thu hút tiền mặt, đồng thời từng bước khôi phục uy tín của đồng tiền trong quan hệ với vàng và ngoại tệ trên thương trường, góp phần dập tắt cơn sốt vàng, cơn sốt ngoại tệ.
Cải cách tiền tệ: Trường hợp lạm phát ở mức độ cao đồng tiền bị giảm sút nhiều mà vận dụng các biện pháp trên không mang lại hiệu quả mong muốn, thì giải pháp sau cùng mà nhà nước buộc phải áp dụng để lập lại trật tự mới trong lưu thông tiền tệ là cải cách tiền tệ.
2.3 Phân hiệt lạm phát với một số khái niệm khác liên quan
Lạm phát và kích giá
Nhiều người hay nhầm giữa khái niệm lạm phát và kích giá. Trên thực tế hai kháỉ niệm này khác nhau. Bảng so sánh dưới đây chỉ ra những điểm khác nhau đó.
Bảng 2.1: Phân biệt giữa lạm phát và kích giá
STT | TIÊU CHÍ SO SÁNH | LẠM PHÁT | KÍCH GIÁ |
1 | Tăng giá | Là quá trình tự thân làm tăng giá liên tục | Việc tăng mức giá một lẩn do bị sốc (ví dụ tăng giá dẩu thô do thu thuế bổ sung) |
2 | Chỉ số giá | Chỉ số giá tiêu dùng chung tăng (CPI) | Chỉ số giá mặt hàng cá biệt tăng |
3 | Thời gian | Giá cả tặng liên tục trong một thời gian dài | Giá cả tăng có tính chất thời điểm, thời gian ngắn |
Giảm lạm phát
Khái niệm: Giảm lạm phát là quá trình hãm bớt mức tăng giá cả để đạt tới một mức lạm phát vừa phải hoặc thấp.
Giảm phát (thiểu phát)
Khái niệm: Giảm phát là một hiện tượng thể hiện qua việc giảm sút các phương tiện thanh toán, không đi đôi với sự giảm sút của sản xuât về khôi lượng và do đó không đi đôi với sự giảm sút giá cả.
Cũng có thể nói giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên tục, hoặc giảm phát là tình trạng trái ngược với tình trạng lạm phát (lạm phát với tỷ lệ mang giá trị âm). Trong các tài liệu thông kê tình hình kinh tê chính thức, khi đề cập đến giảm phát, người ta vẫn đặt dấu âm kèm với con sô ở mục tỷ lệ lạm phát. Giảm phát thường xuất hiện khi kinh tế suy thoái hay đình đốn.Trên thực tế trừ các cuộc khủng hoảng chu kỳ hồi thế kỷ IXX và một phần trong cuộc khủng hoảng 1929, giảm phát ít khi là hiện tượng tự phát mà thường là các biện pháp cố tình của nhà nước nhăm hạn chế mạnh lượng cầu, và qua đó giảm bớt những mất cân đối lớn. Đó là trường hợp của một số nước châu Âu (Ở Pháp vào năm 1930, ở Đức vào năm 1948). Nhưng tình trạng giảm phát có điều bất lợi lớn là: làm cho thất nghiệp tăng nhanh (khi giá cả giảm mạnh hơn tiền lương xảy ra ở năm 1929).
Thực ra vào thế kỷ IXX không có nhà kinh tế nào nói đến giảm phát, phải đến cuộc khủng hoảng kinh tế 1929- 1933 các nhà kinh tế mới quan niệm được rằng có một tình trạng giảm phát, tức là tình trạng trái ngược với tình trạng lạm phát. Trong thời kỳ giảm phát người ta phải tránh vay nợ bằng mọi giá, vì nếu vay nợ thì cần phải hoàn trả món nợ có giá trị cao hơn khi vay mượn lúc đầu. Người thiếu nợ muốn hoàn trả càng sớm càng tốt vì nếu kéo dài sẽ phải trả nợ lớn hơn so với lúc đi vay. Nhưng nếu hoàn trả nợ là Ưu tiên hàng đầu, thì chẳng ai đầu tư vào những gì có thể đem lại tăng trưởng.
Phòng và chống giảm phát: Để thoát khỏi tình trạng giảm phát, cần thực hiện chính sách tái khuếch trương tiền tệ thông qua các biện pháp như tăng lượng cung tiền, giảm thuế, hay điều chỉnh lãi suất.
Tác động:
- Trong thời kỳ giảm phát doanh nghiệp không muốn giữ hàng tồn kho, vì những hàng hóa sản xuất hôm nay sẽ phải bán với giá thấp hơn trong tương lai. Giá bán trong thời gian tới sẽ thấp hơn chi phí sản xuất hôm nay, và lỗ sẽ gia tăng do mất thời gian chờ đợi giữa sản xuất và bán hàng. Trong thời kỳ này các doanh nghiệp phải cắt giảm chi phí, do đó doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải giảm lương cho công nhân. Dẫn đến nhiều doanh nghiệp bị phá sản, sản xuất bị đình đốn, thất nghiệp tăng nhanh.
- Cá nhân hoãn việc mua sắm và lo trả nợ.
- Nguồn thu thuế của chính phủ giảm do nguồn thu thuế giảm và thu nhập lợi nhuận giảm. Chính phủ giảm chi tiêu và lo trả nợ.
Giảm phát và tăng trưởng kinh tế không đi đôi với nhau trong kinh tế hiện đại.
Ngăn chặn giảm phát không phải là việc dễ dàng. Trong những năm 1930 nhiều biện pháp đã được thử nghiệm (giá bán tối thiểu, trợ giá của chính phủ) và tất cả đều thất bại. Vì vậy chính sách tốt nhất là phòng ngừa. Nếu được chọn lựa cùng tỷ lệ lạm phát và giảm phát, bất cứ lúc nào cũng nên chọn lạm phát.