SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
HÀ TĨNH NĂM HỌC: 2019-2020
ĐỀ CHÍNH THỨC MÔN THI: NGỮ VĂN
Thời gian làm bài: 90 phút
MÃ ĐỀ 02
Câu 1. (2,0 điểm)
Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kỳ đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có một cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay!
Thế mới nói, trang phục hợp văn hóa, hợp đạo đức, hợp môi trường mới là trang phục đẹp.
(Giao tiếp đời thường, Băng Sơn, Ngữ văn 9, Tập hai, NXB GDVN, 2014, tr.9)
a. Xác định phương thức biểu đạt chính.
b. Nêu nội dung của đoạn trích.
c. Em có đồng tình với ý kiến “Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường.” không? Vì sao?
Câu 2. (3,0 điểm)
Suy nghĩ của em về bài học ứng xử trong cuộc sống được gợi lên từ câu tục ngữ “Một sự nhịn, chín sự lành”.
Câu 3. (5,0 điểm)
Cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con
(Nói với con, Y Phương, Ngữ văn 9, Tập hai, Nxb GDVN, 2014, tr.72-73)
---Hết---
ĐÁP ÁN ĐỀ THI VÀO LỚP 10 MÔN NGỮ VĂN NĂM 2019 - SỞ GD&ĐT HÀ TĨNH, MÃ ĐỀ 02
Câu 1:
a. Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
b. Học sinh có thể đồng tình hoặc không đồng tình, đưa ra lý giải phù hợp.
Gợi ý:
- Đồng tình với quan điểm của tác giả.
- Vì:
+ Cái đẹp đi liền với sự giản dị đặc biệt là phải phù hợp với môi trường. Trong mỗi trường hợp cụ thể sẽ có những trang phục riêng, phù hợp với từng thời điểm, hoàn cảnh văn hóa đó. Khi ăn mặc phù hợp với khun cảnh vừa làm nên giá trị bản thân, vừa khẳng định được nét văn hóa trong ứng xử của chính mình.
+ Giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội. Nó biểu hiện ở chỗ: Không xa hoa lãng phí, không cầu kì, kiểu cách trong ăn mặc, giao tiếp hàng ngày.
+ Cái đẹp không đi cùng cái phô trương, kệch cỡm, lố lăng.
Câu 2:
1. Nêu vấn đề: Một sự nhịn, chín sự lành.
2. Giải thích vấn đề
- Một sự nhịn, chín sự lành
+ “Nhịn” ở đây là sự nhường nhịn, nhẫn nại trong giao tiếp và hành động.
+ “Lành” là kết quả tốt đẹp, như mọi người mong muốn.
+ “Một” và “chín” đều là những số từ phiếm chỉ, “một” chỉ ít, “chín” chỉ nhiều.
→ Câu tục ngữ muốn khuyên chúng ta rằng: Nên nhường nhịn, nhún nhường một chút sẽ đạt được kết quả tốt đẹp lâu dài về sau. Câu tục ngữ đã thể hiện đuộc sự tinh tế trong cách ứng xử của người xưa.
3. Bàn luận vấn đề
- Tại sao nói “Một sự nhịn, chín sự lành”.
+ Cuộc sống không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, sẽ có lúc chúng ta phải đối mặt với những tình huống khó khăn, bất lợi cho ta. Chính vì thế mà để đảm bảo lợi ích tốt đẹp, hài hòa chúng ta nên biết cách ứng xử mềm mỏng để chuyển từ xấu thành tốt.
+ Trong trường hợp quan hệ thân thiết, gắn bó, chúng ta nên biết nhường nhịn nhau. Có vậy quan hệ mới trở nên tốt đẹp, không bị rạn nứt.
+ Hơn nữa, ông cha ta cũng có câu “Ở hiền gặp lành” cho nên việc ứng xử một cách điềm tĩnh, nhẹ nhàng, từ tốn cũng khiến bản thân ta được mọi người yêu mến, quý trọng.
+ Những người nhường nhịn, điềm tĩnh sẽ dễ dàng giải quyết các mâu thuẫn, công việc, đó cũng là những người dễ dàng đi đến thành công.
- Tuy nhiên “Một sự nhịn, chín sự lành” không có nghĩa là hèn nhát, ba phải, chỉ biết chiều theo ý người khác. Nhường nhịn ở đây là biết thông cảm, biết tôn trọng chứ không phải thỏa hiệp với cái xấu, cái ác.
- Phê phán những người hay so đo, hay chấp vặt, không biết thông cảm và chia sẻ.
4. Liên hệ bản thân
Câu 3:
1. Giới thiệu chung
- Y Phương là một trong những nhà thơ dân tộc Tày nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.
- “Nói với con” là một trong những thi phẩm đặc sắc làm nên tên tuổi của ông, được viết vào năm 1980.
- Đoạn thơ là lời khuyên của cha đối với con, nên sống theo những truyền thống tốt đẹp của người đồng mình.
2. Phân tích
- Những phẩm chất cao quý của người đồng mình:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”
+ Dòng thơ đầu được lặp lại: “người đồng mình” là cách gọi thể hiện sự gần gũi, thân thương như trong một gia đình. “Thương lắm” – bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc với cuộc sống nhiều vất vả, gian khó của họ.
+ Từ ngữ giàu sữ gợi: “cao”, “xa” vừa gợi hình ảnh miền núi cao vừa gợi điều kiện sống khó khăn, vất vả. “Nỗi buồn”, “chí lớn” thể hiện bản lĩnh vững vàng, ý chí kiên cường của người đồng mình.
→ Lời thơ thể hiện niềm tự hào về phẩm chất tốt đẹp của người miền núi.
- Tác giả khái quát lên vẻ đẹp truyền thống của người miền cao:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
+ Hình ảnh “người đồng mình”: vóc dáng, hình hài bé nhỏ, “thô sơ da thịt”, họ chỉ có đôi bàn tay lao động cần cù nhưng chẳng mấy ai nhỏ bé, yếu hèn. Họ dám đương đầu với gian lao, vất vả lớn lao về ý chí, cao cả về tâm hồn.
+ Công lao vĩ đại của người đồng mình: “đục đá kê cao quê hương” – xây dựng quê hương, tạo nên ruộng đồng, dựng lên nhà cửa, bản làng, làm nên giá trị vật chất, tinh thần cho quê hương. “Làm phong tục” – tạo nên bao nề nếp, phong tục đẹp, làm nên bản sắc riêng của cộng đồng.
→ Lời thơ tràn đầy niềm tự hào về vẻ đẹp của người đồng mình. Nhắn nhủ con phải biết kế thừa, phát huy những truyền thống đó.
- Từ đó, người cha khuyên con biết sống theo những truyền thống của người đồng mình:
+ Điệp từ “sống” khởi đầu 3 dòng thơ liên tiếp, tô đậm mong ước thiết tha, mãnh liệt của cha dành cho con.
+ Ẩn dụ “đá”, “thung” chỉ không gian của người miền cao, gợi lên những nhọc nhằn, gian khó, đói nghèo. Người cha mong con “không chê” tức là biết yêu thương, trân trọng quê hương mình.
+ So sánh “như sông”, “như suối”: lỗi sống hồn nhiên, trong sáng, mạnh mẽ, phóng khoáng, vượt lên mọi gập ghềnh của cuộc đời.
+ Đối “lên thác xuống ghềnh”: cuộc sống không dễ dàng, bằng phẳng, cần dũng cảm đối mặt, không ngại ngần.
→ Cha khuyên con tiếp nối tình cảm ân nghĩa, thủy chung với mảnh đất nơi mình sinh ra của người đồng mình và cả lòng can đảm, ý chí kiên cường của họ.
- Để rồi, bài thơ khép lại bằng lời dặn dò vừa ân cần, vừa nghiêm khắc của người cha:
+ “Thô sơ da thịt” được nhắc lại để nhấn mạnh những khó khăn, thử thách mà con có thể gặp trên đường đời, bởi con còn non nớt, con còn chưa đủ hành trang mà đời thì gập ghềnh, gian khó.
+ Dẫu vậy, “không bai giờ nhỏ bé được” mà phải biết đương đầu với khó khăn, vượt qua thách thức, không được sống yếu hèn, hẹp hòi, ích kỉ. Phải sống sao cho xứng đáng với cha mẹ, với người đồng mình. Lời nhắn nhủ chứa đựng sự yêu thương, niềm tin tưởng mà người cha dành cho con.
3. Tổng kết
- Nội dung:
+ Thể hiện tình cảm sâu nặn mà người cha dành cho con. Từng lời dặn dò, khuyên nhủ để con biết sống sao cho xứng đáng với gia đình, quê hương.
+ Bộc lộ tình yêu quê hương xứ sở và niềm tự hào về người đồng mình của tác giả.
- Nghệ thuật: Từ ngữ, hình ảnh giản dị, giàu sức gợi, in đậm lối tư duy trong sáng, hồn nhiên, sinh động của người miền núi. Giọng điệu khi ân cần, tha thiết, khi mạnh mẽ, nghiêm khắc.