Bài 2: Quá trình nhận thức và chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội

Bài 2: Quá trình nhận thức và chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội có nội dung trình bày về quá trình đổi mới nhận thức của Đảng, quan điểm và chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội của nước ta ở thời kỳ trước và trong đổi mới. Mời các bạn cùng tham khảo.

Tóm tắt lý thuyết

1. Thời kỳ trước đổi mới

1.1 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội

  • Giai đoạn 1945-1954:

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám và trong những năm thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc, chính sách xã hội của Đảng ta được chỉ đạo bởi tư tưởng: chúng ta giành được tự do, độc lập rồi mà dân ta cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Do đó, chính sách xã hội cấp bách lúc này là làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Tiếp sau đó là làm cho người nghèo thì đủ án, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm. Chủ trương này đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và đạt được những hiệu quả thiết thực.

Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình Dân chủ nhân dân: Chính phủ có chủ trương và hướng dẫn để các tầng lớp nhân dân chủ động và tự tổ chức giải quyết các vấn đề xã hội của chính mình. Chính sách tăng gia sản xuất (nhằm tự cấp tự túc), chủ trương tiết kiệm, đồng cam cộng khổ trở thành phong trào rộng rãi, từ cơ quan chính phủ đến bộ đội, dân chúng, được coi trọng như đánh giặc. Khuyến khích mọi thành phần xã hội phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Thực hiện chính sách điều hòa lợi ích giữa chủ và thợ.

  • Giai đoạn 1955-1975:

Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, trong hoàn cảnh chiến tranh. Chế độ phân phối về thực chất là theo chủ nghĩa bình quân. Nhà nước và tập thể đáp ứng các nhu cầu xã hội thiết yếu bằng chế độ bao cấp tràn lan dựa vào viện trợ.

  • Giai đoạn 1975- 1985:

Các vấn đề xã hội được giải quyết theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp trong hoàn cảnh đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, nguồn viện trợ giảm dần, bị bao vây, cô lập và cấm vận.

1.2 Đánh giá việc thực hiện đường lối

  • Thành tựu:
    • Chính sách xã hội trong 9 năm kháng chiến, kiến quốc, tiếp sau đó là thời bao cấp tuy có nhiều nhược điểm và hạn chế nhưng đã bảo đảm được sự ổn định của xã hội, đồng thời còn đạt được thành tựu phát triển đáng tự hào trên một số lĩnh vực như văn hóa, giáo dục, y tế, lối sống, đạo đức, kỷ cương và an ninh xã hội, hoàn thành nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.
    • Những thành tựu đó nói lên bản chất tốt đẹp của chế độ mới và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trong giải quyết các vấn đề xã hội trong điều kiện chiến tranh kéo dài, kinh tế chậm phát triển.
  • Hạn chế và nguyên nhân:
    • Trong xã hội đã hình thành tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể trong cách giải quyết các vấn đề xã hội; chế độ phân phối trên thực tế là bình quân, cào bằng không khuyến khích những đơn vị, cá nhân làm tốt, làm giỏi, v.v.. Đã hình thành một xã hội đóng, ổn định nhưng kém năng động, chậm phát triển về nhiều mặt.
    • Nguyên nhân cơ bản của các hạn chế trên là chúng ta đặt chưa đúng tầm chính sách xã hội trong quan hệ với chính sách thuộc các lĩnh vực khác, đồng thời lại áp dụng và duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp.

2. Trong thời kỳ đổi mới

2.1 Quá trình đổi mới nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội

Tại Đại hội VI, lần đầu tiên Đảng ta nâng các vấn đề xã hội lên tầm chính sách xã hội, đặt rõ tầm quan trọng của chính sách xã hội đối với chính sách kinh tế và chính sách ở các lĩnh vực khác. Đại hội cho rằng, trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế. Ngay trong khuôn khổ của hoạt động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm... Do đó, cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài, phù hợp với yêu cầu và khả năng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.

Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế ở chỗ đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người. Phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, đồng thời thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.

Đại hội VIII của Đảng chủ trương, hệ thống chính sách xã hội phải được hoạch định theo những quan điểm sau đây:

  • Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất cũng như ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.
  • Thực hiện nhiều hình thức phân phối.
  • Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo.
  • Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa.

Đại hội IX của Đảng chủ trương, các chính sách xã hội phải hướng vào phát triển và làm lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp.

Đại hội X của Đảng chủ trương, phải kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương.

Trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), hội nhập sâu rộng hơn vào hệ thống kinh tế quốc tế, Hội nghị Trung ương 4 khóa X (tháng 1-2007) nhân mạnh: phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình thực thi các cam kết với WTO. Xây dựng cơ chế đánh giá và cảnh báo định kỳ về tác động của việc gia nhập WTO đối với lĩnh vực xã hội để có biện pháp xử lý chủ động, đúng đắn, kịp thời.

Đại hội XI của Đảng chủ trương phát triển toàn diện, mạnh mẽ các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế.

Đại hội XII xác định: Quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

2.2 Quan điểm về giải quyết các vấn đề xã hội

  • Một là, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội.
    • Kế hoạch phát triển kinh tế phải tính đến mục tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội có liên quan trực tiếp.
    • Mục tiêu phát triển kinh tế phải tính đến các tác động và hậu quả xã hội có thể xảy ra để chủ động xử lý.
    • Phải tạo được sự thống nhất, đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
    • Sự kết hợp giữa hai loại mục tiêu nảy phải được quán triệt ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, ở từng đơn vị kinh tế cơ sở.
  • Hai là, xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.
    • Trong từng bước và từng chính sách phát triển (của chính phủ hay của ngành, của trung ương hay địa phương), cần đặt rõ và xử lý hợp lý việc gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
    • Nhiệm vụ "gắn kết" này không đừng lại như một khẩu hiệu, một lời khuyến nghị mà phải được pháp chế hóa thành các thể chế có tính cưỡng chế, buộc các chủ thể phải thi hành.
    • Các cơ quan, các nhà hoạch định chính sách phát triển quốc gia phải thấu triệt quan điểm phát triển bền vững, phát triển "sạch", phát triển hài hòa, không chạy theo số lượng, tăng trưởng bằng mọi giá.
  • Ba là, chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ.
    • Chính sách xã hội có vị trí, vai trò độc lập tương đối so với kinh tế, nhưng không thể tách rời trình độ phát triển kinh tế, cũng không thể dựa vào viện trợ như thời bao cấp.
    • Trong chính sách xã hội, phải gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ. Đó là một yêu cầu của công bằng xã hội và tiến bộ xã hội; xoá bỏ quan điểm bao cấp, cào bằng; chấm dứt cơ chế xin - cho trong chính sách xã hội.
  • Bốn là, coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển con người (HDI) và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội.
    • Quan điểm này khẳng định mục tiêu cuối cùng và cao nhất của sự phát triển phải là vì con người, vì một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Phát triển phải bền vững, không chạy theo số lượng tăng trưởng.

2.3 Chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội

  • Một là, khuyến khích mọi người dân lầm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả mục tiêu xoá đói, giảm nghèo.
    • Tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển.
    • Tạo động lực làm giàu trong đông đảo dân cư bằng tài năng, sáng tạo của bản thân, trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức cho phép. Có chính sách hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị.
    • Xây dựng và thực hiện có kết quả cao chương trình xoá đói, giảm nghèo; đề phòng tái đói, tái nghèo; nâng cao dần chuẩn đói nghèo khi mức sống chung tăng lên.
  • Hai là, bảo đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân, tạo việc làm và thu nhập, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
    • Xây dựng hệ thống an sinh xã hội da dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm.
    • Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo nhiều việc làm ở trong nước và đây mạnh xuất khẩu lao động.
    • Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội.
    • Đổi mới chính sách tiền lương; phân phối thu nhập xã hội công bằng, hợp lý.
  • Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả.
    • Hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở; quan tâm chăm sóc y tế tốt hơn đối với các đối tượng chính sách; phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao, các dịch vụ y tế ngoài công lập.
  • Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe và cải thiện giống nòi.
    • Quan tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản. Giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng.
    • Đây mạnh công tác bảo vệ giống nòi, kiên trì phòng chống HIV/ AIDS và các tệ nạn xã hội.
  • Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
    • Giảm tốc độ tăng dân số, bảo đảm quy mô và cơ cấu dân số hợp lý.
    • Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc; bảo đảm bình đẳng giới; chống nạn bạo hành trong quan hệ gia đình.
  • Sáu là, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội.
  • Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.

2.4 Đánh giá sự thực hiện đường lối

  • Qua 30 năm đổi mới, việc giải quyết các vấn đề xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng:
    • Về lao động - việc làm: Các chính sách về lao động và việc làm của Nhà nước đã chuyển biến theo hướng ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bộ luật lao động được sửa đổi nhiều lần qua các năm (2002, 2006, 2007, 2012) đã tạo hành lang pháp lý cho việc hoàn thiện các tiêu chuẩn lao động, thiết lập quan hệ lao động giữa các chủ thể, điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến quan hệ lao động như hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, tiền lương, bảo hiểm xã hội, thời gian lảm việc, vệ sinh lao động, kỷ luật lao động, giải quyết tranh chấp lao động, đình công. Mỗi năm bình quân tạo ra 1,5-1,6 triệu việc làm mới. Năm 2014, lao động trong khu vực chính thức đạt trên 30% và lao động đã qua đào tạo chiếm khoảng 49% tổng số lao động. Xây dựng và triển khai Luật việc làm; nghiên cứu xây dựng Chương trình việc làm công.
    • Về giảm nghèo bền vững: Trong 30 năm qua, Đảng vả Nhà nước ta luôn nhất quán về chính sách giảm nghèo bền vững đi đôi với khuyến khích làm giàu hợp pháp. Đã đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Chính phủ và Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, trong đó chủ trọng chính sách giảm nghèo đa chiều và khắc phục nguy cơ tái nghèo, nhất là đối với các hu vện nghèo, ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiêu số thuộc huyện nghèo, xã biên giới, xã an toàn khu, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo; thu hẹp chênh lệch về mức sống và an sinh xã hội so với bình quân cả nước. Đã tiến hành điều chỉnh chuẩn nghèo theo từng thời kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân 1,5 - 2%/năm; các huyện, xã đặc biệt khó khăn có tỷ lệ hộ nghèo giảm 4%/năm theo tiêu chuẩn nghèo từng giai đoạn. Năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn 58,1%, đến năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%, năm 2013 còn 7,8%, năm 2014 còn 5,8-6%, năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước còn 4,5%; riêng các huyện nghèo còn 28%. Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam đã được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế công nhận, đánh giá cao.
    • Chăm sóc sức khỏe nhân dân đã có nhiều tiến bộ. Hệ thống cơ sở y tế đã được hình thành trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn dân tăng nhanh. Hệ thống dịch vụ y tế ngày càng được nâng cao chất lượng. Trong 10 năm gần đây, các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và 20 luật liên quan đến lĩnh vực y tế, dân số, tạo cơ sở pháp lý quan trọng đối với lĩnh vực y tế. Trong lĩnh vực y tế, đã có nhiều chủ trương, chính sách tương đối toàn diện, coi trọng cả về xây dựng thê chế, y tế dự phòng, y học cổ truyền, quản lý thuốc, khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, vệ sinh an toàn thực phẩm.
    • Chính sách ưu đãi người có công đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. cả nước hiện có khoảng 8,8 triệu người có công, chiếm khoảng 10% dân số, có khoảng 1,4 triệu người được hưởng trợ cấp thường xuyên. Bảo đảm mức sống của người có công bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn cư trú.
    • Về chính sách an sinh xã hội: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện và đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm, như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm; mở rộng các hình thức cứu trợ xã hội, nhất là đối với các đối tượng khó khăn. Phát triển hệ thống an sinh xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, khả năng huy động và cân dối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội. Hệ thống an sinh xã hội phát triển không ngừng. Đến năm 2014, cả nước có hơn 11 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, 190 nghìn người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, hơn 9 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp và hơn 61 triệu người tham gia bảo hiểm y tế. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện chính sách về an sinh xã hội; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội.
    • Bảo đảm cung ứng một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số về giáo dục tối thiểu, y tế tối thiểu, nhà ở tối thiểu; bảo đảm nước sạch; bảo đảm thông tin. Đã xây dựng vả thực hiện chiến lược phát triển nhà ở quốc gia và chương trình xóa nhà tạm, phát triển nhà ở xã hội.
    • Hệ thống pháp luật và các chính sách phát triển các lĩnh vực xã hội ngày càng được bô sung và hoàn thiện hơn. Diện thụ hưởng chính sách ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên. Nguồn lực đầu tư các lĩnh vực xã hội ngày càng được tăng cường và đa dạng hóa.
    • Đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chính sách đê xây dựng, phát huy vai trò các giai tầng xã hội trong sự nghiệp đổi mới. Đồng thời, đã xây dựng, ban hành và thực hiện nhiều chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, về chăm sóc bà mẹ và trẻ em, hôn nhân và gia đình, chăm sóc người cao tuổi, phòng, chống tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình.
    • Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo; đã tăng cường đầu tư về kết cấu hạ tầng, kinh phí cho miền núi, vùng sâu, vùng xa, tạo chuyên biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các dân tộc và các tôn giáo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
  • Tuy nhiên, việc giải quyết các vấn đề xã hội vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, những bức xúc xã hội có chiều hướng gia tăng.
    • Một số chính sách xã hội chậm đổi mới, chưa sát thực tiễn, thiếu cơ sở khoa học; còn thiếu những chính sách đặc thù cho những vùng đặc thù; thiếu cơ chế, chính sách điều tiết hợp lý quan hệ lợi ích, điều hòa các quan hệ xã hội, kiểm soát các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội. Tiền lương chưa bảo đảm cuộc sống cán bộ, công chức, viên chức, cải cách tiền lương tiến hành chậm, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra.
    • Phân hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng; phân tầng xã hội theo xu hướng không hợp thức diễn biến phức tạp. Quản lý xã hội còn nhiều bất cập, lúng túng, chồng chéo, thiếu hiệu quả; tiêu cực xã hội, tệ nạn xã hội, tai nạn xã hội, tội phạm xã hội có chiều hướng gia tăng.
    • Giảm nghèo thiếu bền vững. Chưa hình thành cơ chế đồng bộ về giảm nghèo đa chiều, đa mục tiêu. Nhiều chính sách an sinh xã hội và giảm nghèo chồng chéo nhau và chồng chéo với các chính sách khác. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn; kết cấu hạ tầng xã hội ở nhiều địa phương, khu vực, nhất là vùng sâu, vùng xa còn hạn chế, một bộ phận nhân dân chưa được hưởng thụ một cách công bằng các thành quả của công cuộc đổi mới. Bất bình đẳng xã hội về thu nhập, giáo dục, y tế, văn hóa, an sinh xã hội,... chậm được khắc phục.
    • Một số bức xúc xã hội chậm dược giải quyết; một số vấn đề mới nảy sinh liên quan đến giai cấp, dân tộc, tôn giáo, dân số, đất đai, lao dộng, việc làm, thu nhập,... chưa có giải pháp khắc phục hiệu quả. Từ đó, xuất hiện nhiều điểm nóng, tình trạng khiếu kiện đông người và những căng thẳng trong quan hệ xã hội, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị - xã hội. Một số vấn đề phát sinh trong lĩnh vực tôn giáo, lợi dụng tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước chưa được giải quyết kịp thời, thỏa đáng.
  • Nguyên nhân
    • Những thành tựu nêu trên có nhiều nguyên nhân: Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản là đúng đắn, hợp lòng dân. Đã động viên, khai thác các nguồn lực trong nhân dân cùng với Nhà nước và sự hỗ trợ của nhiều tổ chức quốc tế để giải quyêt các vấn đề xã hội. Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tô quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đã quan tâm, chú trọng giải quyết các vấn đề xã hội.
    • Những hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, song nguyên nhân chủ quan là chính.
    • Là một nước nông nghiệp vốn nghèo nàn, lạc hậu, thường xuyên bị thiên tai, lại trải qua hơn 30 năm chiến tranh để lại nhiều hậu quả xã hội nặng nề, cho nên các vấn đề xã hội không thể giải quyết triệt để trong một thời gian ngắn.
    • Nhận thức của nhiều cấp ủy đảng và chính quyền về các vấn đề xã hội, chính sách xã hội chưa đầy đủ và sâu sắc; có nơi còn coi nhẹ mô hình và phương thức quản lý xã hội, chưa có sự gắn kết giữa chính sách phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội.
    • Chính sách xã hội chậm đổi mới so với chính sách kinh tế. Quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, chồng chéo. Còn thiếu những giải pháp hữu hiệu để thu hẹp khoảng cách về mức sống và an sinh xã hội giữa các vùng, miền. Việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật chưa nghiêm, hiệu quả thấp; sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ; phân công trách nhiệm không rõ; thiếu thể chế và thiết chế để tạo ra hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất. Công tác thanh tra ở nhiều nơi chưa được coi trọng.
    • Nhu cầu nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội rất lớn nhưng khả năng đáp ứng thực tế của đất nước còn rất hạn hẹp, lại sử dụng chưa hiệu quả, còn phân tán, lãng phí, thậm chí tiêu cực; chưa động viên, thu hút được nhiều sự tham gia của xã hội và khuyến khích người thụ hưởng chính sách tự vươn lên.

Tham khảo thêm

Bình luận

Có Thể Bạn Quan Tâm ?