Bài học trình bày về các quan điểm, chủ trương về xây dựng nền văn hóa mới thời kỳ trước đổi mới và quá trình đổi mới tư duy, quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng, phát triển nền văn hóa của nước ta trong thời kỳ đổi mới. Để nắm rõ nội dung chi tiết bài học, mời các bạn cùng tham khảo Bài 1 Quá trình nhận thức và nội dung đường lối xây dựng, phát triển nền văn hóa.
Tóm tắt lý thuyết
1. Thời kỳ trước đổi mới
1.1 Quan điểm, chủ trương về xây dựng nền văn hóa mới
- Trong những năm 1943 - 1954:
Đầu năm 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (Đông Anh, Hà Nội) đã thông qua bản Đề cương văn hóa Việt Nam do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp dự thảo. Đây là lần đầu tiên kể từ ngày thành lập, Đảng ta họp bàn và có chủ trương kịp thời về văn hóa văn nghệ Việt Nam vào thời điểm chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đề cương xác định lĩnh vực văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) của cách mạng Việt Nam và đề ra ba nguyên tắc của nền văn hóa mới: Dân tộc hóa (chống lại mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa), Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa phản lại hoặc xa rời quần chúng), Khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa phản tiến bộ, trái khoa học). Nền văn hóa mới Việt Nam có tính chất dân tộc về hình thức, dân chủ về nội dung. Có thể coi Đề cương văn hóa Việt Nam là bản Tuyên ngôn, là Cương lĩnh của Đảng về văn hóa trước Cách mạng Tháng Tám mà ảnh hưởng của nó còn có tác động sâu rộng đến mãi sau này.
Ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày với các Bộ trưởng sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó hai nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hóa. Một là, cùng với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt. Hồ Chí Minh nói: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, thế mà hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ; vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chừ. Hai là, chế độ thực dân đã hủ hóa dân tộc Việt Nam bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Vì vậy, một nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta, làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị: mở một chiến địch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính. Như vậy, nhiệm vụ đầu tiên về xây dựng văn hóa của nước Việt Nam độc lập là: chống nạn mù chữ và giáo dục lại tinh thần nhân dân. Đây là hai nhiệm vụ hết sức khiêm tốn nhưng lại vĩ đại ở tầm nhìn, độ chính xác và ở tính thời sự của nó.
Cuộc vận động thực hiện Đời sống mới: Đầu năm 1946, Ban Trung ương vận động Đời sống mới được thành lập với sự tham gia của nhiều nhân vật có uy tín như: Trần Huy Liệu, Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Tân Gi Trọng, mà Tổng thư ký lả nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Tháng 3- 1947, Hồ Chí Minh viết tài liệu Đời sống mới giải thích rất dễ hiểu những vấn đề thiết thực trong chủ trương văn hóa quan trọng này, gồm 19 câu hỏi và trả lời. Làm được 19 điều này là thiết thực giáo dục lại tinh thần của nhân dân lúc đó cũng như có ý nghĩa cho đến tận ngày nay.
Đường lối văn hóa kháng chiến được dần hình thành tại Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Kháng chiến kiến quốc (tháng 11-1945), trong bức thư về Nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay của đồng chí Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 16-11-1946) và tại báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam (trình bày trong Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai, tháng 7-1948). Đường lối đó gồm các nội dung: xác định mối quan hệ giữa văn hóa và cách mạng giải phóng dân tộc, cổ động văn hóa cứu quốc; xây dựng nền văn hóa dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng mà khẩu hiệu thiết thực lúc đó là Dân tộc, Dân chủ (nghĩa là yêu nước và tiến bộ); tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ; giáo đục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới; phát triển cái hay trong văn hóa dân tộc; bài trừ cái xấu xa hủ bại, ngăn ngừa sức thâm nhập của văn hóa thực dân, phản động; đồng thời học cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới; hình thành đội ngũ trí thức mới, đóng góp tích cực cho công cuộc kháng chiến kiến quốc 9 năm và cho cách mạng Việt Nam.
- Trong những năm 1955- 1986:
Đường lối xây dựng và phát triển văn hóa trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa được hình thành bắt đầu từ Đại hội III của Đảng (năm 1960) mà điểm cốt lõi là chủ trương tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa đồng thời với cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất và cách mạng về khoa học, kỹ thuật, là chủ trương xây dựng và phát triển nền văn hóa mới, con người mới. Mục tiêu là làm cho nhân dân thoát nạn mù chữ và thói hư tật xấu do xã hội cũ để lại, có trình độ văn hóa ngày càng cao, có hiểu biết cần thiết về khoa học, kỹ thuật tiên tiến để xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa.
Đại hội IV và Đại hội V của Đảng tiếp tục đường lối phát triển văn hóa của Đại hội III, xác định nền văn hóa mới là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân. Nhiệm vụ văn hóa quan trọng của giai đoạn này là tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước, phát triển manh khoa học, văn hóa nghệ thuật, giáo dục tinh thần làm chủ tập thể, chống tư tưởng tư sản và tàn dư tư tưởng phong kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, xóa bỏ ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa thực dân mới ở miền Nam.
1.2 Đánh giá sự thực hiện đường lối
- Thành tựu:
Nền văn hóa dân chủ mới - văn hóa cứu quốc, đã bước đầu được hình thành và đạt nhiều thành tựu trong kháng chiến và kiến quốc. Đã xóa bỏ dần những mặt lạc hậu, những cái lỗi thời trong di sản văn hóa phong kiến, trong nền văn hóa nô dịch của thực dân Pháp, bước đầu xây dựng nền văn hóa dân chủ mới với tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Nhiều triệu đồng bào mù chữ đã biết đọc, biết viết. Phát triển hệ thống giáo dục, cải cách phương pháp dạy học, thực hành rộng rãi đời sống mới, bài trừ hủ tục, lạc hậu. Văn hóa cứu quốc đã động viên nhân dân tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trong những năm 1955 - 1986, công tác tư tưởng và văn hóa đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng cả nước. Một thành tựu tiêu biểu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp giáo dục, văn hóa phát triển với tốc độ cao ngay cả trong những năm có chiến tranh, phát huy vai trò tích cực trong chiến đấu và sản xuất. Hoạt động văn hóa nghệ thuật cũng phát triển trên nhiều mặt với nội dung lành mạnh, đã cổ vũ quần chúng trong chiến đấu và sản xuất, góp phần xây dựng cuộc sống mới, con người mới. Trình độ văn hóa chung của xã hội đã được nâng lên một mức đáng kể. Lối sống mới đã trở thành phổ biến, người với người sống có tình, có nghĩa, đoàn kết thương yêu nhau.
Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không chỉ là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn mà còn là thắng lợi của chính sách văn hóa của Đảng, thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước và nhân phẩm Việt Nam, của những giá trị tinh thần cao quý của con người Việt Nam. Cùng với độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, những thành quả về văn hóa là một thành tố của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Hạn chế và nguyên nhân:
Công tác tư tưởng và văn hóa thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu. Việc xây dựng thể chế văn hóa còn chậm. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống có chiều hướng phát triển. Đời sống văn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Một số công trình văn hóa vật thể và phi vật thể truyền thống có giá trị không được quan tâm bảo tồn, lưu giữ, thậm chí bị phá hủy, mai một.
Đường lối xây dựng, phát triển văn hóa giai đoạn 1955 - 1986 bị chi phối bởi tư duy chính trị "nắm vững chuyên chính vô sản" mà thực chất là nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, đấu tranh "ai thắng ai" giữa hai con đường, đấu tranh giữa hai phe, đấu tranh ý thức hệ trong lĩnh vực văn hóa.
Mục tiêu, nội dung cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa giai đoạn này cũng bị chi phối bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuất mà tư tưởng chỉ đạo là triệt để xóa bổ tư hữu, xóa bỏ bóc lột càng nhanh càng tốt, là đưa quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đi trước một bước, tách rời trình độ phát triển thực tế của lực lượng sản xuất.
Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp và tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hóa, giáo dục; kìm hãm năng lực tự do sáng tạo.
2. Trong thời kỳ đổi mới
2.1 Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hóa
Từ Đại hội VI đến Đại hội XII, Đảng ta đã hình thành từng bước nhận thức mới về đặc trưng của nền văn hóa mới mà chúng ta cần xây dựng; về chức năng, vai trò, vị trí của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Đại hội VI (năm 1986) xác định: khoa học - kỹ thuật là một động lực to lớn đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế - xã hội; có vị trí then chốt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh năm 1991 (được Đại hội VII thông qua) lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hóa Việt Nam có đặc trưng: tiên tiến; đậm đà bản sắc dân tộc thay cho quan niệm nền văn hóa Việt Nam có nội dung xã hội chủ nghĩa, có tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân được nêu ra trước đây. Cương lĩnh chủ trương xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ; kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tính hoa văn hóa nhân loại; chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc vả những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội; xác định giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII và nhiều nghị quyết Trung ương tiếp theo đã xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển. Đây là một tầm nhìn mới về văn hóa phù hợp với tầm nhìn chung của thế giới đương đại.
Đại hội VII (năm 1991) và Đại hội VIII (năm 1996) khẳng định: khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Do đó, phải coi sự nghiệp giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (tháng 7-1998) nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo quá trình phát triển văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (tháng 1-2004) xác định thêm phát triển văn hóa đồng bộ với phát triển kinh tế. Tiếp theo, Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (tháng 7-2004) đặt vấn đề bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Đây chính là bước phát triển quan trọng trong nhận thức của Đảng về vị trí của văn hóa và công tác văn hóa trong quan hệ với các mặt công tác khác.
Hội nghị Trung ương 10 khóa IX đã nhận định về sự biến đổi của văn hóa trong quá trình đổi mới. Cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã làm thay đổi mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, thúc đẩy dân chủ hóa đời sống xã hội, đa dạng hóa thị hiếu và phương thức sinh hoạt văn hóa, phạm vi, vai trò của dân chủ hóa - xã hội hóa văn hóa của cá nhân ngày càng tăng lên và mở rộng. Đó là những thách thức mới đối với sự lãnh đạo, quản lý công tác văn hóa của Đảng và Nhà nước.
Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (tháng 5-2014) đã nêu ra mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể, quan điểm nhiệm vu, giải pháp về xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
2.2 Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng, phát triển nền văn hóa
Kế thừa và phát triển 5 quan điểm của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã nêu ra 5 quan điểm sau:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội và hội nhập quốc tế.
Quan điểm này chỉ rõ chức năng, vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển xã hội.
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
Theo ý kiến của nguyên Tổng Giám đốc UNESCO: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mồi cá nhân và các cộng đồng) diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại; qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội - vì nó được thâm nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng; được truyền lại, tiếp nối và phát huy qua các thế hệ; được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng dân tộc (ví dụ: cấu trúc này ở Việt Nam là cấu trúc Nhà - Làng - Nước). Các giá trị này chi phối hằng ngày đến cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng môi trường xã hội - văn hóa (bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể).
Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thâm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi các tiêu cực xã hội, đẩy lùi sư xâm nhập của tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa, phường xã văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa; nêu gương người tốt, việc tốt.
- Văn hóa là động lực phát triển bền vững.
Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thâm sâu trong văn hóa. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới nhưng lại không thể tách khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn. Cội nguồn của mỗi quốc gia, dân tộc chính là văn hóa.
Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta cũng chứng tỏ rằng, bản thân sư phát triển kinh tế củng không chỉ do các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra. Nền kinh tế Việt Nam hôm nay đã có một bước tiến đáng kể so với thời kỳ thực hiện chế độ kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp. Nguyên nhân không phải chỉ ở sự tiến triển tự nhiên của các nhân tố kinh tế, mà còn do sự đổi mới tư duy, đổi mới chính sách và chế độ quản lý, do sự giải phóng tư tưởng và bước phát triển mới về trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, cán bộ quản lý và lực lượng lao động. Nghĩa là động lực của sự đổi mới kinh tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hóa đang được phát huy.
Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế là trí tuệ, là thông tin, là ý tưởng sáng tạo và đổi mới không ngừng thì một nước trở thành giàu hay nghèo không chỉ ở chỗ có nhiều hay ít lao động và tài nguyên thiên nhiên, mà trước hết là có khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người hay không. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố câu thành văn hóa, nghĩa là trong tri thức, khả năng sáng tạo, trong bản lĩnh tự đổi mới của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng.
Nói cách khác, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng hiện thực và bền vững bấy nhiêu.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái tốt, cái đẹp để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất ra hàng hóa với số lượng và chất lượng ngày càng cao đáp ứng nhu cầu của xã hội. Mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng hàng hóa và đồng tiền "xuất hiện với tính cách là lực lượng có khả năng xuyên tạc bản chất con người cũng như những mối liên hệ khác" dẫn tới suy thoái xã hội.
Nền văn hóa Việt Nam đương đại, với những giá trị mới, sẽ là một tiền đề quan trọng đưa nước ta hội nhập ngày càng sâu hơn và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới.
Trong vấn đề bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững, văn hóa giúp hạn chế lối sống chạy theo ham muốn quá mức của "xã hội tiêu thụ", dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái.
Văn hóa, nhất là văn hóa phương Đông, cổ vũ và hướng dẫn cho một lối sống có chừng mực, hài hòa với sức tải của hành tinh chúng ta. Nó đưa ra mô hình ứng xử thân thiện giữa con người với thiên nhiên, vì sự phát triển bền vững cho thế hệ hôm nay và cho các thế hệ mai sau.
- Văn hóa là một mục tiêu của phát triển.
Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" chính là mục tiêu văn hóa.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 xác định: "phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển". Đồng thời nêu rõ yêu cầu: "Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân". Phát triển hướng tới mục tiêu văn hóa - xã hội mới bảo đảm sự bền vững, trường tồn.
Thực tế cho thấy, mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển là vấn đề bức xúc của mọi quốc gia. Sau khi thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, các nước độc lập đang tìm con đường dẫn tới ấm no, hạnh phúc, thì việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội lại càng có ý nghĩa quan trọng.
Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động, mục tiêu kinh tế vẫn thường lấn át mục tiêu văn hóa và thường được đặt vào vị trí ưu tiên trong các kế hoạch, chương trình, chính sách phát triển của nhiều quốc gia, nhất là các nước nghèo đang phát triển theo con đường công nghiệp hóa.
- Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, chúng ta chủ trương phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể là:
Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế. xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế.
Khi xác định mục tiêu, giải pháp phát triển văn hóa phải căn cứ và hướng tới mục tiêu, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, làm cho phát triển văn hóa trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn hóa, hướng tới xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Phải có chính sách kinh tế trong văn hóa để gắn văn hóa với hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa. Xây dựng chính sách văn hóa trong kinh tế để chủ động đưa các yếu tố văn hóa thâm nhập vào các hoạt động kinh tế - xã hội, xây dựng văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn minh thương nghiệp; xây dựng đội ngũ doanh nhân thời hội nhập.
- Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng xã hội mới.
Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài nguyên thiên nhiên, vốn, v.v... tuy nhiên, những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Năm 1990, UNDP (Chương trình phát triển của Liên hợp quốc) đưa ra những tiêu chí mới để đánh giá mức độ phát triển của các quốc gia, đó là chỉ số phát triển con người. Một trong ba chỉ tiêu của cách tính toán mới này là thành tựu giáo đục (hai chỉ tiêu kia là tuổi thọ bình quân và mức thu nhập). Chỉ tiêu giáo đục lại được tổng hợp từ hai tiêu chí khác là tình trạng học vân của nhân dân và số năm được giáo dục tính bình quân cho mỗi người.
Theo đó, quốc gia nào đạt thành tựu giáo dục cao, tức là có vốn trí tuệ toàn dân nhiều hơn thì chứng tỏ xã hội đó phát triển hơn, có khả năng tăng trưởng dồi dào. "Tài nguyên" con người, cái vốn con người, nói cho cùng chính là vốn trí tuệ của dân tộc. Như vậy, văn hóa trực tiếp tạo dựng và nâng cao vốn "tài nguyên người".
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hoá, Việt Nam chưa có lợi thê về chỉ số phát triển con người như mong muốn. Tỷ lệ số người biết đọc, biết viết dược xếp vào thứ hạng cao trong khu vực nhưng nguy cơ tái mù chữ lại đang táng, đặc biệt là mù ngoại ngữ, mù tín học.
Hai là, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ với nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vừng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
Có thể nói, bản sắc của một dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, sức sống bên trong của dân tộc, giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán so với bản thân mình trong quá trình phát triển. Sức mạnh và sức sáng tạo này có mối liên hệ gốc rễ, lâu dài và bền vững với môi trường xã hội - tự nhiên và với quá trình lịch sử mà dân tộc đó đã tồn tại.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư duy, cách sống, cách dựng nước, giữ nước, cách sáng tạo trong văn hóa, khoa học, văn học, nghệ thuật..., nhưng được thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc. Hệ giá trị là những gì nhân dân quan tâm, là niềm tín mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khi được chuyên thành các chuẩn mực xã hội, nó định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự vững vàng của chế độ. Hệ giá trị có tính ổn định rất lớn và có tính bền vững tương đối, có sức mạnh gắn bó mọi thành viên trong cộng đồng. Trong sự tiến bộ và phát triển của xã hội, các giá trị nảy thường không biến mất mà hóa thân vào các giá trị của thời sau, theo quy luật kế thừa và tái tạo.
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chê kinh tế, thể chế xã hội vả thể chế chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình hội nhập kinh tế thế giới, quá trình giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp nhận tích cực văn hóa, văn minh nhân loại. Vì vậy, chúng ta chủ trương xây dựng và hoàn thiện các giá trị và nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vả hội nhập quốc tế.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, giáo dục và đào tạo..., sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn luôn phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc.
Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta chủ trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham gia hội nhập và giao lưu văn hóa với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại. Xây dựng Việt Nam thành một địa chỉ giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế.
Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với loại bỏ những cái lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán và lề thói cũ.
Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự hòa quyện bình đẳng, và phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Hơn 50 dân tộc trên đất nước ta đều có những giá trị và bản sắc văn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam thống nhất và củng cố sự thống nhất dân tộc.
Ba là, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm lả chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Đây là mối quan hệ biện chứng.
Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Đây là những đặc tính cơ bản nhất của con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Muốn xây dựng con người có những đặc tính trên, cần phải:
- Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người có thê giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ.
- Xây dựng và phát huy lối sống "Mồi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người"; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
- Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên.
Bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi hường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống.
Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sông cho con người. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no âm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh.
Gắn kết các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.
Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng; khuyến khích các hoạt động tôn giáo gắn bó với dân tộc, hướng thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến bộ, "tốt đời, đẹp đạo". Khuyến khích các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa", "uống nước nhớ nguồn", từ thiện, nhân đạo.
Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng khối dại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp này. Sư nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
2.3 Đánh giá việc thực hiện đường lối
Qua 30 năm đổi mới, lĩnh vực xây dựng, phát triển văn hóa, con người đã đạt dược những kết quả quan trọng. Những tiến bộ trong giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ; sự khởi sắc trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, truyền thông đại chúng, bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa; sự tăng cường các thiết chế văn hóa cơ sở... làm cho đời sống tinh thần của con người, xã hội phong phú, đa dạng hơn, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân từng bước được nâng lên.
Bầu không khí xã hội dân chủ, cởi mở hơn; dân trí được nâng cao; tính tích cực cá nhân và xã hội được phát huy. Những nhân tố mới, giá trị mới của văn hóa, con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tê từng bước dược định hình trong đời sống. Quyền tự do sáng tạo, quảng bá văn hóa, văn học, nghệ thuật được tôn trọng; quyền tự do túi ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt tâm linh của nhân dân được quan tâm thực hiện.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới” và các phong trào xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa,... đạt được những kết quả tích cực, tạo môi trường tốt để nuôi dưỡng, phát huy những giá trị nhân văn của dân tộc. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc được phát huy, đồng thời xuất hiện những giá trị văn hóa mới.
Nguồn lực của Nhà nước, của xã hội đầu tư cho văn hóa được nâng lên; hệ thống thiết chế văn hóa từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng, từng bước hoàn thiện vả phát huy tác dụng.
Giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hóa được mở rộng, bước đầu góp phần làm phong phú hơn đời sống văn hóa trong nước và quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra nước ngoải.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa có tiến bộ; các văn bản pháp lý, cơ chế, chính sách về văn hóa, con người từng bước được đổi mới, hoàn thiện; đội ngũ làm công tác văn hóa có bước trưởng thành.
Về hạn chế, khuyết điểm: So với những thành tựu đạt được về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu phát triển ván hóa, xây dựng con người chưa tương xứng. Những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực xây dựng văn hóa, con người đã được Đảng ta chỉ rõ từ lâu, nhưng chậm được khắc phục, 10 năm gần đây, văn hóa hên một số mặt có chiều hướng xuống cấp.
Lĩnh vực xây dựng con người còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức trong xã hội, đặc biệt là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn biến phức tạp. Hiện tượng phai nhạt lý tưởng; lối sống thực dụng, vị kỷ, vô cảm; sự vô trách nhiệm, thiếu kỷ luật trong lao động, hoạt động công vụ; sự lệch lạc trong sáng tác, trình diễn, cảm thụ văn học, nghệ thuật,... chưa được khắc phục.
Môi trường văn hóa bị ô nhiễm và có những diễn biến phức tạp. Những tệ nạn, tiêu cực trong hoạt động, quản lý văn hóa chậm được ngăn chặn, đây lùi đã tác động xấu đến quá trình phát triển văn hóa, xây dựng đạo đức, nhân cách, lối sống của con người và nếp sống của cộng đồng.
Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; sự chênh lệch về hạ tầng văn hóa, thiết chế văn hóa và khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và giữa các tầng lớp nhân dân có xu hướng tăng lên.
Chất lượng, hiệu quả bảo tồn, phát huy các di sản còn nhiều hạn chế, chưa gắn kết với phát triển kinh tế - xã hội, chưa đáp ứng tốt yêu cầu giáo dục truyền thống, bồi đắp lòng tự hào về văn hiến, văn hóa dân tộc.
Chất lượng sáng tạo các giá trị văn hóa mới còn nhiều hạn chế, ít các công trình, tác phẩm có giá trị tư tưởng, nghệ thuật, khoa học cao. Hoạt động văn học - nghệ thuật, báo chí - truyền thông, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ chưa gắn bó thường xuyên, chặt chẽ, phục vụ tích cực yêu cầu phát triển văn hóa, xây dựng con người. Xu hướng “thương mại hóa”, “bệnh thành tích”, chạy theo số lượng, hình thức, bề nổi,... chưa được khắc phục; vẫn còn những hoạt động, những sản phẩm chất lượng kém, “phi văn hóa”, thậm chí “phản văn hóa”.
Hiệu quả hội nhập quốc tế về văn hóa còn hạn chế, một số mặt còn bất cập. Hoạt động văn hóa đối ngoại chưa sâu rộng; thông tin, truyền thông đôi ngoại còn hạn chế. Việc tiếp thu, quảng bá sản phẩm văn hóa nước ngoài có nơi, có lúc còn thiếu chát chẽ, thiếu chọn lọc, chưa được thẩm định một cách khoa học, gây ảnh hưởng tiêu cực đối với một bộ phận công chúng, nhất là giới trẻ.
Lãnh đạo, quản lý văn hóa còn nhiều mặt bất cập. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, chưa sát thực tiễn. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ. Nguồn lực đầu tư cho văn hóa còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp.
- Nguyên nhân:
Thành tựu đạt được trong phất triển văn hóa, xây dựng con người là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố.
Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội trong 30 năm đổi mới; xu thê hòa bình, hợp tác, phát triển giữa các quốc gia trên thế giới,... tạo môi trường và những điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp sáng tạo, quảng bá, hưởng thụ văn hóa, xây dựng con người Việt Nam.
Nhân dân ta có truyền thống văn hóa và những phẩm chất, đạo đức tốt đẹp. Phần lớn đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ Việt Nam yêu nước, gắn bó với Đảng, với nhân dân, với chế độ, có tâm huyết, trách nhiệm và tài năng sáng tạo. Ý thức làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân, đội ngũ trí thức đã được kế thừa, phát huy trong những năm đổi mới. Đó là nguồn gốc của thành công.
Trong 30 năm đổi mới, Đảng đã ban hành và lãnh đạo thực hiện nhiều chủ trương, chính sách liên quan đến xây dựng, phát triển văn hóa, con người. Nhà nước, Mặt trận Tố quốc, các tổ chức chính trị - xã hội quan tâm và chú trọng khởi xướng, động viên nhân dân tô chức các phong trào, các cuộc vận động phát triển văn hóa, xây dựng con người, tạo nên những tác động tích cực. Sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố có ý nghĩa quyết định, tạo nên những thành tựu trên lĩnh vực văn hóa, xây dựng con người.
Những yếu kém, bất cập trong xây dựng, phát triển văn hóa, con người bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân.
- Về khách quan, bên cạnh việc tiếp nhận các tác động tích cực phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, chúng ta phải đối mặt với các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế. Giá trị vật chất, lợi ích và tự do cá nhân được đề cao; một mặt, là động lực thúc đẩy sự năng động sáng tạo; mặt khác, kích thích chủ nghĩa cá nhân, ham muốn vật chất, lối sống thực dụng. Sự du nhập từ nhiều nguồn, nhiều kênh, các sản phẩm văn hóa đủ loại, trong đó có cả những sản phẩm độc hại, đã tác động đến một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là lớp trẻ, dẫn đến tình trạng lệch chuẩn, lạc chuẩn vả đảo lộn hệ giá trị văn hóa, con người.
Qua 30 năm đổi mới, đời sống tinh thần đã có nhiều thay đôi, song tàn dư lạc hậu, tâm lý, lối sống tiểu nông, sản xuất nhỏ; tư duy, phong cách trong cơ chế cũ; những thói hư, tật xâu và những mặt hạn chế của người Việt Nam vẫn đang tồn tại dai dẳng, trở thành lực cản quá trình sáng tạo văn hóa, xây dựng đạo đức, nhân cách, lối sống của con người Việt Nam thời kỳ mới.
- Về chủ quan, xây dựng và phát triển văn hóa, con người là lĩnh vực rộng lớn, nhạy cảm, phức tạp; sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước vẫn còn bất cập về nhận thức lý luận và tổ chức thực hiện.
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về xây dựng, phát triển văn hóa, con người chưa được chú trọng đứng mức, do vậy nhận thức lý luận, tư duy lý luận chưa theo kịp những biến đổi quá nhanh trong đời sống văn hóa khu vực, thế giới và trong nước; chưa bao quát, cập nhật được những thành tựu lý luận mới, những nhân tố thực tiễn mới. Nhiều cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên nhận thức chưa đầy đủ về chức năng, vai trò to lớn của văn hóa (thường đồng nhất văn hóa với lĩnh vực văn hóa cụ thể của ngành văn hóa) và về ý nghĩa sống còn của việc xây dựng con người.
Nhiều chủ trương, quan điểm đúng đắn của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người chậm được thể chế hóa, cụ thể hóa. Nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ, thậm chí xem nhẹ lĩnh vực quan trọng này; lãnh đạo, chỉ đạo thiếu quyết liệt, có nơi buông lỏng, khoán trắng cho cơ quan chuyên môn. Nguồn lực, phương thức đầu tư cho phát triển văn hóa, con người còn nhiều hạn chế. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, phát huy đội ngũ cán bộ văn hóa chưa đúng tầm, hiệu quả thấp.