1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
a. Mở bài:
- Khái quát: Lưu Quang Vũ là được mệnh danh là “cây bút vàng” của sân khấu Việt Nam những năm 80 của thế kỷ 20. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được viết năm 1981, và là vở kịch nói đầu tiên mang ra nước ngoài công diễn. Bằng ngòi bút giàu chất triết lý, Lưu Quang Vũ đã thổi vào tích xưa một luồng gió mới. Kịch bản của ông không đơn thuần là chuyện vay mượn xác – tái sinh. Đặt vấn đề về lẽ sống con người qua nỗi khổ “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, qua mâu thuẫn giữa tâm hồn (thanh cao) và thể xác (phàm tục), vở kịch mang chứa những triết lý nhân sinh. “Tôi muốn là tôi toàn vẹn”, bởi sống nhờ, sống giả, sống không phải là mình, đó là bi kịch đau đớn nhất của con người.
b. Thân bài:
* Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác Hàng Thịt:
- Hồn Trương Ba:
+ Tâm thế của hồn Trương Ba trong cuộc đối thoại: Lời thoại của Hồn Trương Ba ở đầu đoạn trích đã bộc lộ rõ tâm trạng vừa chán ngán, vừa sợ hãi cái thân xác mà ông đang vay mượn: “Tôi chán cái chỗ không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta muốn rời xa mi ngay tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỏ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!”.
=> Ước muốn của Hồn Trương Ba đã được thỏa nguyện. Sự phân tách và đối đầu giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt trước hết có thể hiểu là sự tranh cãi quyết liệt giữa một bên là Hồn Trương Ba (tượng trưng cho sự cao khiết, cho đạo đức, cho “phần Người” chân chính của mỗi con người) và một bên là Xác hàng thịt (tượng trưng cho bản năng, cho những ham muốn trần tục, là “phần Con” tầm thường ẩn nấp trong mỗi con người).
+ Hồn có cơ hội bày tỏ tâm trạng uất ức, tức giận vì phải chung sống với Xác thô lỗ, tầm thường, dung tục. Hồn cũng không che giấu sự coi thường, khinh bỉ đối với Xác, “kẻ âm u đui mù, không cảm xúc, không tư tưởng, không có tiếng nói”...; kẻ có nhu cầu vật chất thấp kém gần với con thú (thèm ăn ngon, thèm rượu thịt), sức mạnh thể chất gắn với sự tàn bạo…
+ Hồn cũng phủ nhận sự lệ thuộc của linh hồn vào xác thịt, khẳng định linh hồn có đời sống riêng: “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”…
=> Tưởng rằng, Hồn sẽ phần nào giải tỏa được nỗi đau khổ bị dồn nén bấy lâu khi có cơ hội cất lên tiếng nói của mình.
- Xác hàng thịt:
+ Tâm thế của xác hàng thịt trong cuộc đối thoại: Xác không bị động, nhún nhường. Ngược lại, Xác có thái độ khi thì ngạo nghễ, thách thức, khi thì ranh mãnh với những câu hỏi mang tính phản biện đầy bỡn cợt, châm chọc.
+ Xác âm u, đui mù nhưng có thể lấn át, sai khiến, thậm chí đồng hóa linh hồn cao khiết. Hồn không thể còn nguyên vẹn, trong sạch, khi phải chung sống và chiều theo những đòi hỏi của xác thịt dung tục (Hồn Trương Ba đã có cảm giác xao xuyến, khao khat khi đứng bên vợ hàng thịt, đến nỗi chân tay run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại, đã có cảm xúc lâng lâng trước các món ăn mà ông cho là dung tục như tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, đã sử dụng vũ lực mà ông cho là tàn bạo để tát thằng con toé máu mồm, máu mũi… Rõ ràng, Hồn Trương Ba đã nhiễm những thói hư tật xấu của xác hàng thịt).
=> Như vậy, Hồn Trương Ba đau đớn, dằn vặt, khao khát khẳng định mình vẫn là mình, nhưng cuối cùng phải thừa nhận rằng, mình đang sống nhờ thể xác kẻ khác và bị thể xác đó điều khiển, dẫn đến sự tha hoá không có cách gì chuyển biến được. Bi kịch của Hồn Trương Ba, vì thế, không những không được giải tỏa, mà còn trở nên đau đớn, xót xa hơn.
+ Trước đó, Hồn Trương Ba cho mình là cao khiết và coi thường, khinh bỉ Xác hàng thịt, thậm chí uất ức vì phải chung sống với Xác HT. Nhưng Xác hàng thịt đã chỉ ra thói hư tật xấu trong Hồn Trương Ba “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông cứ vin vào cớ linh hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn để rồi bỏ bê thân xác mãi khổ sở nhếch nhác” và “làm xong điều xấu gì, ông cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết: cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện” . Đồng thời, Xác hàng thịt đã bày tỏ những bất công mà mình phải gánh chịu khi sống với linh hồn Trương Ba: bị xúc phạm, bị bỏ bê nhếch nhác, khổ sở…vì những lý do không chính đáng.
=> Những lý lẽ và dẫn chứng mà Xác hàng thịt đưa ra khiến Hồn Trương Ba không thể phủ nhận được.
* Ý nghĩa:
- Cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác mang ý nghĩa sâu sắc.
- Trước hết, ở góc độ Hồn Trương Ba, ta nhận ra khát vọng sống cao thượng, thánh thiện của con người, khi bị những cám dỗ vật chất phàm tục làm cho tha hoá, biến chất.
- Ở góc độ Xác hàng thịt, ta nhận ra những nếp nghĩ sai lầm của con người: đó là thói quen đề cao tinh thần mà coi thường vật chất, tự ru ngủ mình trong những giấc mơ cao thượng mà quên đi rằng, cần phải thiết lập mối quan hệ hoà hợp, gắn bó giữa chúng.
=> Như vậy, Hồn và Xác là những ẩn dụ nghệ thuật lớn, và cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là một tình huống kịch đặc sắc, tô đậm bi kịch “bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”, sự thiếu hài hòa, không thống nhất trên các phương diện: linh hồn và thể xác, vật chất và tinh thần, nội dung và hình thức, bản năng và lý tưởng, cao cả và tầm thường...ở mỗi con người.
- Kết thúc cuộc đối thoại, Hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt vọng trở về cuộc sống trái với chính mình. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào xác hàng thịt, ngồi lặng lẽ bên chõng” diễn tả cô đọng tính chất căng thẳng của xung đột kịch: mâu thuẫn không những không được giải quyết mà còn được đẩy lên đến một mức cao hơn.
c. Kết bài:
- Đặc sắc nghệ thuật: Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở bi kịch đặc sắc trên nhiều phương diện: Sự kết hợp giữa nội dung hiện thực với yếu tố kì ảo, nghệ thuật tạo tình huống và dẫn dắt xung đột kịch, sắc thái đa dạng của lời thoại khiến cho tâm lí nhân vật được phơi trải, sát với đặc trưng thể loại, ngôn ngữ kịch giàu chất triết lí, giọng điệu tranh biện độc đáo.
- Ý nghĩa triết lý về đạo đức và nhân sinh.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Em hãy phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt trong tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt.
Gợi ý làm bài:
3.1. Bài văn mẫu số 1
Sinh ra trong thời kỳ lịch sử nhiều biến động, động lực xui khiến Lưu Quang Vũ làm thơ, sáng tác kịch chính là “muốn được tham dự và dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến”. Với bản lĩnh của một người cầm bút luôn khao khát được là mình, viết những gì trái tim mình đau nhói, Lưu Quang Vũ không ngần ngại lách sâu ngòi bút vào hiện thực để phản ánh những vấn đề thời sự mang ý nghĩa triết lí và có tầm phổ quát. Qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, tác giả đã ngầm gửi gắm những thông điệp hết sức sâu sắc về mối quan hệ giữa hồn và xác.
Ông Trương Ba là một người làm vườn, khoảng 50 tuổi, sống trung thực, ngay thẳng và giỏi đánh cờ. Tính tình ông nhân hậu, sống chan hòa với mọi người. Chỉ vì do sự cẩu thả và tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu trên thiên đình mà ông Trương Ba phải chết oan. Tiên cờ Đế Thích bực bội và vì tiếc một người có tài chơi cờ nên đã hóa phép cho hồn Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt vừa mới chết một ngày. Hồn Trương Ba từ đó sống trong thân xác của anh hàng thịt. Ai cũng ngỡ đó là cách giải quyết thuận lợi cho Trương Ba, để cho con người hiền lành này tiếp tục sống êm ấm trong gia đình mình. Nhưng trớ trêu thay, chính sự tái sinh trong xác người khác lại là điều bất hạnh của Trương Ba. Trong chính gia đình mình, ông bị người thân chê trách, xa lánh và coi thường. Hồn Trương Ba bị dồn vào sự đau khổ nhất: tự mình ý thức được sự tha hóa của mình, bị cường hào nhũng nhiễu, nhìn thấy con trai hư hỏng mà không dạy dỗ được,... Tất cả những điều đó đã khiến ông không thể chịu đựng được nữa, không thể khuất phục trước thể xác, trước những cái xấu xa và tự đánh mất mình. Hồn Trương Ba không thể sống chung với xác anh hàng thịt, tách ra khỏi thân xác để tranh luận.
Do sự tắc trách của Nam Tào và Bắc Đẩu mà Trương Ba phải chết oan, Đế Thích đã giúp Trương Ba sống lại bằng cách nhập hồn ông vào xác hàng thịt. Thế nhưng, điều đó lại vô tình đưa Trương Ba vào một nghịch cảnh khác khi linh hồn mình phải trú nhờ thân xác người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác hàng thịt: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi!”. Lời thoại của hồn là các câu cảm thán ngắn, lời văn dồn dập, hối thúc thể hiện tâm trạng căng thẳng, bức bách đau khổ, dằn vặt đến cùng cực, không thể chịu đựng sự dày vò hơn được nữa. Nghe hồn tự độc thoại, xác lên tiếng ngay: “Ông không tách ra khỏi tôi được đâu”. Trong khi hồn vừa phủ định vừa khinh miệt, cho rằng xác thịt “không có tiếng nói” mà chỉ là “cái vỏ bên ngoài” không có tư tưởng, không có cảm xúc, xác khẳng định lại vị trí và tác động của mình: “Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy”. Sau những lời khinh miệt của xác, hồn lại tiếp tục châm chọc: “Khi ông ở bên nhà tôi... Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại”. Với bằng chứng cụ thể, hồn xấu hổ và kiên quyết phủ định: “là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày”. Nếu như hồn liên tục chối bỏ thì xác lại ngang nhiên thừa nhận Trương Ba cũng đầy thú tính, có những nhu cầu thân xác và hưởng lạc. Từng bước, xác dẫn dắt hòn vào sự thật không thể phủ nhận: hồn ít nhiều đã bị vấy bẩn, tha hóa bởi dục vọng của thân xác. Lúc này, lời thoại của hồn ngập ngừng như bị hụt hơi: “Ta... ta đã bảo mày im đi”. Hồn bị dồn vào chân tường để buộc phải công nhận sự chế ngự của thân xác. Xác nhấn mạnh vào sự thật mà hồn đang muốn trốn chạy, muốn phủ nhận, đẩy tình huống kịch lên đến cao trào. Hồn chỉ còn cố gắng biện minh, chống chế cứu vãn: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Xác còn dừng những lời lẽ sắc lẹm để vạch trần nỗi đau đang tấy mủ trong hồn. Đó là nhờ sức mạnh của xác mà hồn có thể “tát thằng con tóe máu mồm máu mũi”. Biết hồn đã bị dồn vào thế bí, xác ra giao kèo thỏa hiệp để chung sống, dụ hồn vào “trò chơi tâm hồn”. Đến lúc này, hồn tuyệt vọng chỉ còn biết than trời bất lực.
Do phải sống nhờ thể xác của anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của thể xác. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần bị nhiễm những thứ tầm thường của xác anh hàng thịt. Ý thức được điều đó, linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích nên đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, ve vãn hồn Trương Ba thỏa hiệp với mình vì theo xác hàng thịt thì chẳng còn cách nào khác, cả hai đã hòa vào nhau làm một rồi. Trước những lí lẽ ti tiện của xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ, mắng mỏ xác hèn hạ nhưng đồng thời cũng ngậm ngùi thấm thía nghịch cảnh mà mình đang lâm vào, đành nhập trở lại xác thịt trong tuyệt vọng.
Xây dựng hai nhân vật đặc biệt này, Lưu Quang Vũ đã sử dụng biện pháp đối lập để tô đậm sự khác nhau cơ bản giữa hồn người này và xác người kia. Ông Trương Ba vốn là một người làm vườn chất phác, hiền lành, nho nhã. Hồn của Trương Ba biểu tượng cho sự thanh nhã, cao khiết, trong sạch, đạo đức. Hồn là phần chân chính của mỗi con người. Ngược lại, anh hàng thịt với thân xác vạm vỡ, kềnh càng, thô lỗ,... biểu tượng cho bản năng, cho những ham muốn trần tục. Đây thực ra là một ẩn dụ, xác anh hàng thịt ẩn dụ về thể xác con người, còn hồn Trương Ba ẩn dụ về linh hồn của con người. Tác giả đã sáng tạo ra một tình huống ẩn dụ có sức lôi cuốn, gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc: con người không thể sống không là mình, không thể sống giả dối hay vay mượn cuộc sống của người khác. Con người không chỉ sống bằng thể xác và còn phải sống bằng linh hồn, tình cảm,... Độ vênh của linh hồn và thể xác sẽ là bi kịch.
Qua màn đối thoại giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ cũng gửi gắm những quan niệm mới mẻ về con người: con người là một thể thống nhất giữa hồn và xác, bên ngoài và bên trong, cái cao cả và cái trần thế. Vì thế, cuộc sống con người chỉ có ý nghĩa nếu dung hòa được giữa đời sống vật chất và tinh thần. Nếu đề cao tinh thần mà phủ định những nhu cầu bản năng là phi nhân bản, phản nhân văn. Còn khi chỉ chạy theo những dung vọng tầm thường, con người sẽ tự hạ thấp mình xuống lối sống dung tục, bản năng.
Cuộc đối thoại giữa hồn và xác chính là xung đột diễn ra trong bản thân nhân vật, hai phần trong một con người. Giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba có sự đối lập giữa nhiều yếu tố như tốt – xấu, thanh cao - phàm tục, bản năng - lý trí,... Qua đây, Lưu Quang Vũ muốn khẳng định: không gì hạnh phúc bằng khi được sống đúng là mình, sống với những gì mình đã có. Như thế cuộc đời sẽ thanh thản, nhẹ nhàng và ý nghĩa biết bao. Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được. Cuộc sống chỉ có giá trị khi con người được trở về đúng bản chất của mình, được sống trong một cơ thể thống nhất.
3.2. Bài văn mẫu số 2
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một câu chuyện không mấy tiêu biểu cho thi pháp cổ tích nếu đặt bên cạnh những Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Thạch Sanh... ta đã đọc.Tuy nhiên, nhìn từ góc nhìn tự sự, người ta cũng dễ dàng nhận diện những yếu tố cơ bản tạo nên sắc thái cổ tích cho tác phẩm: Đó là nhân vật, tình huống, diễn biến cốt truyện, phép màu mang đến may mắn cho con người... Và mặc dù câu chuyện dân gian này còn phảng phất dấu ấn sáng tác bởi các cụ đồ Nho, nhân vật vua cờ Đế Thích vẫn có thể được coi là một kiểu “Bụt”, “Tiên” giáng thế để cứu vớt, bù đắp cho những mất mát, đau thương cho trần giới. Và với một kiểu nhân vật của mô-típ những con người hiền lành, Trương Ba vốn là một người làm vườn, một kỳ thủ nhưng lại lâm vào tình huống éo le và kì lạ: đang sống hạnh phúc với gia đình bỗng dưng chết oan rồi được sống lại nhưng phải sống nhờ một thân xác khác, xác người hàng thịt với một bản tính hoàn toàn đối lập. Sự chắp vá này mở đầu cho quá trình xung đột gay gắt giữa hồn và xác. Trương Ba vô cùng đau khổ vì linh hồn thanh cao của ông phải sống lệ thuộc vào cái xác mà ông xem là âm u đui mù, không có tư tưởng, không có cảm xúc. Sự lệ thuộc này làm cho ông dần dần trở thành con người khác, đánh mất những phẩm chất vốn có. Sự thay đổi đó đúng như Huấn Cao đã từng nói với quản Ngục khi cái tốt cái đẹp khải tồn tại sống cùng với cái xấu. “... khó giữ thiên lương cho lành vững, rồi cũng đến nhem nhuốc cả đời lương thiện”.
Qua đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt, nhà văn Lưu Quang Vũ cũng đã phát biểu quan điểm của mình về giá trị và mối quan hệ giữa phần hồn và phần xác của con người: “Con người liệu có thể giữ cho mình những giá trị tinh thần cao quý khi phải chấp nhận sống chung với sự dung tục, có tránh được sự tha hóa khi phải thường xuyên thỏa mãn những ham muốn vật chất tầm thường?”
Bi kịch (theo Từ điển văn học): là mâu thuẫn giữa khát vọng, hoài bão, lí tưởng của cá nhân với thực tại; hiểu theo nghĩa thông thường bi kịch là nỗi đau khổ vò xé dai dẳng mà không có cách nào giải thoát. Trương Ba qua đoạn thoại trên đối mặt với bi kịch phải sống nhờ, sống gửi, sống không được là mình; ý thức đang dần bị tha hóa với nỗi đau khổ cùng cực và cách Trương Ba giải quyết bi kịch của chính mình.
Trọng tâm của lớp kịch là cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác Trương Ba. Do đó lời thoại ở đây vừa có thể coi là độc thoại vừa có thể coi là đối thoại. Nó là một lời thoại đặc biệt, vừa chứa đựng mâu thuẫn vừa mang tính hành động, thúc đẩy tình huống kịch phát triển đến mức cao nhất. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là đỉnh cao tư tưởng triết lý của vở kịch. Cuộc đối thoại đó cùng với thái độ và những lời đối thoại của những người ruột thịt thân yêu nhất đã dẫn đến hành động quyết liệt - kiên quyết chối từ một cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia của Trương Ba. Lưu Quang Vũ đã để cho nhân vật của mình chọn một con đường tưởng như tiêu cực nhưng hết sức cần thiết và đúng đắn: Rời bỏ cõi đời này để được đúng là mình, để giữ trong ký ức những người thân kỷ niệm tốt đẹp về mình. Có nhà nghiên cứu cho rằng “cuộc vật lộn giữa “Hồn Trương Ba” và “Da Hàng thịt” thực chất là cuộc giao tranh giữa hai linh hồn trong một thân xác”.
Sau mấy tháng sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với những người thân trong gia đình và tự xung đột với bản thân mình. Hồn ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy trào ra thành dòng độc thoại đầy nước mắt: “không, không, tôi không muốn sống như thế này nữa. Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi lắm rồi. Ta bắt đầu sợ mi, muốn rời xa cái thân thể kềnh càng thô lỗ ngay tức khắc”.
Xác hàng thịt đã chỉ rõ sự tha hóa không tránh khỏi của hồn Trương Ba khi phải nhờ vào nó để tồn tại: Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối, những người thân,…Ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi. Khi phải chấp nhận hoàn cảnh trớ trêu để tiếp tục duy trì sự sống, Trương Ba hầu như không còn được sống theo cách riêng của mình, tồn tại qua thân xác không phải của mình.
Vợ Trương Ba nhận thấy sự thay đổi của chồng mình: Giờ mỗi bữa ông ăn tám, chín bát cơm, lại còn hay đòi uống rượu. Khi xưa, Trương Ba đối với ai cũng điềm đạm, nhẹ nhàng, và đặc biệt là không đánh con bao giờ. Nhưng nay, trước những lời nói sự thật của anh con trai, Trương Ba đã tát mạnh nó đến chảy máu.
Với bàn tay giết lợn lúc chiết cây cam hồn Trương Ba đã làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm, lúc sửa diều cho cu Tị thì làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cái diều đẹp mà cu Tị rất quý. Cái Gái gọi ông là lão đồ tể, thấy ông xấu lắm, ác lắm, và xua đuổi ông như một tội đồ, Cút đi! Lão đồ tể cút đi!
Trương Ba như được an ủi phần nào, bởi nhận ra cái Gái rất thương ông, ông nghĩ cô con dâu sẽ là điểm tựa để sẻ chia tâm sự. Nhưng trước những lời nói vừa yêu thương, vừa thẳng thắn của cô con dâu Trương Ba lặng ngắt như đá tảng đau khổ đến cùng cực đầy sợ hãi. Có lẽ lúc ấy Trương Ba giống như người đứng trước một cái vực thẳm sâu hoắm khắc khoải cần một ai đó níu giữ nhưng kết quả vẫn là sự bế tắc đi vào vô vọng.
Tất cả những người ấy: người thì chua xót dằn dỗi, tủi thân (vợ), người hì tức tưởi xua đuổi (cháu); người thì lại thấu hiểu sẻ chia (con dâu) nhưng họ nhận ra và đau khổ trước sự thay đổi của Trương Ba. Tuy yêu quý, muốn níu giữ Trương Ba xưa tìm giải pháp để thoát khỏi hoàn cảnh nhưng trớ trêu thay đều bất lực. Đó là bi kịch của Hồn Trương Ba càng bị đẩy lên tới điểm đỉnh. Những người thân thiết nhất cũng không chấp nhận nỗi tình trạng hai mảnh hồn, người bất nhất của chồng, cha, ông mình. Không còn gia đình nền tảng của một sự bấu víu hy vọng vào mặt đất không có ý nghĩa và dường như cũng chẳng còn tồn tại. Trương Ba hiểu mình đã mất tất cả rơi vào trạng thái hoàn toàn cô độc. Đó là bi kịch trong bi kịch!
Quyết định xóa bỏ sự tồn tại của cái vật quái gở mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt, đó là một sự lựa chọn dũng cảm của hồn Trương Ba. Chấp nhận cái chết, chấp nhận sự hư vô để được là tôi trọn vẹn, đó là kết quả của sự đấu tranh ở một tâm hồn thanh cao, trong sáng, vượt lên nghịch cảnh. Chấp nhận cái chết, Trương Ba đã tìm lại được sự trong sạch cho linh hồn mình. Được hóa thân vào các vật bình dị, gần gũi, thân thương, tồn tại vĩnh viễn trong kí ức và tình yêu của người thân, khúc vĩ thanh ở phần kết vở kịch đã thổi vào lòng người ta một làn gió nhẹ mang âm hưởng lạc quan: niềm tin vào sự chiến thắng cuối cùng của cái Đẹp, cái Thiện.
Đề cao phần linh hồn của con người, đó là điểm gặp gỡ, qui tụ của quan niệm dân gian và triết lý về mối quan hệ giữa hồn và xác của nhà viết kịch hậu hiện đại Lưu Quang Vũ trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Tất nhiên điểm sáng tạo mới mẻ của Lưu Quang Vũ là từ một tích truyện dân gian, tác giả đã đi sâu khai thác mâu thuẫn kịch từ mối quan hệ giữa hồn và xác để gửi gắm thông điệp mang tính triết lí sâu sắc: Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
Những câu hỏi liên tiếp “lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?....chẳng còn cách nào khác” đó thật sự là cuộn xoáy dữ dội đang giằng xé, cuộn xoáy trong lòng Trương Ba để rồi dẫn đến một quyết định từ bỏ thân xác như một mong muốn được giải thoát không chỉ cho mình mà cả người thân. Hồn Trương Ba dứt khoát thắp nhang khấn mời tiên Đế Thích để từ giã sự sống ấy.
Cách lựa chọn cách sống, một cách phục sinh tâm hồn như đã mà dần, tan biến dân ấy mở ra cho Trương Ba những thử thách mới, lựa chọn mới trong cuộc đối thoại với Đế Thích. Nhưng đó chính là cách Lưu Quang Vũ tô đậm lên được vẻ đẹp nhân cách vẫn còn sóng ngời trong mảnh hồn tưởng như đã mờ nhạt ấy. Để rồi Trương Ba đã sống đúng phần người theo nghĩa viết viết hoa của nó.
-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----