Bài 2: Vùng văn hóa Việt Bắc

Nội dung bài giảng Bài 2: Vùng văn hóa Việt Bắc sau đây sẽ giúp các bạn tìm hiểu về đặc điểm tự nhiên và xã hội vùng văn hóa Việt Bắc, đặc điểm vùng văn hóa Việt Bắc.

Tóm tắt lý thuyết

1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội vùng văn hóa Việt Bắc

  • Trong tâm thức người dân Việt Nam, Việt Bắc là tên gọi một vùng đất gắn bó với một thời gian khổ mà oanh liệt của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng: là quê hương cách mạng, là chiến khu, là nơi ghi dấu bao chiến công anh hùng của quân dân ta v.v..., như bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu đã mô tả.
  • Năm 1947, danh từ Việt Bắc xuất hiện để chỉ chung vùng căn cứ cách mạng, tháng 10-1954, danh từ này lại dược dùng để chỉ chung toàn căn cứ địa của cuộc kháng chiến chống thục dằn Pháp. Năm 1956, khu tự trị Việt Bắc được thành lập gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Sau này, khu tự trị Việt Bắc giải thể, danh từ này vẫn tồn tại.
  • Hiện nay, nói tới Việt Bắc là nói tới địa bàn của sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang. Tuy nhiên, ranh giới vùng văn hóa Việt Bắc sẽ rộng hơn địa bàn này. Nghĩa là, nó bao gồm cả phần đổi núi của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang và tỉnh Quảng Ninh. Trên bản đồ, vùng đát này nằm ở những vỉ độ cao nhất, trong các vĩ tuyến từ 21 độ đến 23 độ vĩ Bắc; vì thế, đây là vùng có môi trường tự nhiên với dấu hiệu chuyển tiếp từ tự nhiên nhiệt đới sang nhiệt đới. Thực tế, vùng Việt Bắc, do nằm ở vị trí địa đầu đất nước về phía Đông Bắc nên Việt Bắc là vùng đón nhận đầu tiên gió mùa đông bắc và chịu ành hưởng sâu sắc nhất, của nó.
  • Địa hình Việt Bắc có cấu trúc theo kiểu cánh cung, tụ lại ở Tam Đảo, các cánh cung này mở ra ở phía Bắc và Đông Bắc và phán hướng lối quay ra biển, thứ tự từ trong ra biển là các cánh cung: sông Gâm. Ngân Sơn, Yên Lạc, Bắc Sơn và Đông Triều. Các dãy núi đều thuộc loại có độ cao trung bình và thấp. Một số núi có độ cao là Tây Côn Lỉnh (2431m), Kiều Liên Ti (2403m) và Pu Ta Ca (2274m).
  • Toàn vùng có 5 hệ thống sông chính: sông Thao, sông Lô, hệ thống các sông Cấu, sông Thương, Lục Nam; hệ thống các sông này chảy ra Biển Đông là trục giao thông giữa miền núi và miền xuôi. Sông Bằng Giang, sông Kì Cùng chảy theo hướng Nam - Bắc là thủy lộ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nét đặc trưng của hệ thống sông ở đây là độ dốc lòng sông lớn, mùa lũ là thời gian dòng chảy mạnh nhất. Mặt khác, trong vùng còn có nhiểu hố như hồ Ba Bể, hồ Thang Hen v.v...
  • Cư dân chủ yếu của vùng Việt Bắc là người Tày và Nùng. Ngoài ra còn có một số dân tộc ít người khác như Dao, H’mông, Lô Lô, Sán Chay. Người Tày và người Nùng, thực ra xưa kia là những tộc người có chung một nguồn gốc lịch sử, cũng thuộc khói Bách Việt. Tên gọi Tày xuất hiện có thể vào nửa cuối thiên niên kỉ thứ nhất sau công nguyên,
  • Thời các vua Hùng, liên minh giữa người Âu Việt - tổ tiên của người Tày với những cư dân Lạc Việt, tổ tiên của người Việt là có thực. Thời nước Âu Lạc, liên minh ấy cảng bén chặt hơn. Sự phát triển của liên mình này cảng về sau cảng gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của nhà nưóc Đại Việt. Và người dân vùng Việt Bắc: Tày và Nùng, càng có vai trò quan trọng trong việc gìn giữ biên cương. Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đấu công nguyên, người Tày, Nung có tham gia vào cuộc khởi nghĩa này. Truyền thuyết và kí ức của cư dân Việt Bắc còn ghi khá kì về tổ tiên họ tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Năm 543, cư dãn Việt Bắc lại ùng hộ cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn chống quân nhà Lương.
  • Trong thời tự chủ, vai trò của cư dân Việt Bắc đối với cuộc chồng xâm lược nhà Tống rất quan trọng. Các đội quân của các thú lĩnh địa phương tham gia đánh quân xâm lược Tống. Trong ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông, nhân dân vùng Việt Bắc lại tích cực tham gia sức người sức của, góp phần vào sự đại tháng của quân dân Đại Việt.
  • Trong 10 năm kháng chiến chống quân Minh, nhân dân Tày - Nùng đã tham gia rất đông đảo dưới sự lãnh đạo của các thủ lĩnh như Nông Văn Lịch, Hoàng Thiên Hữu, Nguyễn Văn Hách, Dương Thế Châu v.v...
  • Nhà Mạc giành ngôi của nhà Lê, thất thủ ở đồng bằng, kéo quân lên miền núi xây thành, đắp lũy để chống lại nhà Lê, Một số tù trưởng đã đứng về phía nhà Lê chống lại nhà Mạc.
  • Khi vua Quang Trung chống quân xâm lược Thanh, người dân Tày - Nũng đã hưởng ứng lời kêu gọi của Quang Trung đứng lên đánh giặc.
  • Người Pháp thiết lập ách cai trị trên đất nước ta, đồng bào Tày - Nùng dã có những cuộc vận động, tổ chức đánh giặc. Từ phong trào Cần Vương đến phong trào Việt Nam Quang Phục Hội, người dân ở đây đều tham gia khá tích cực. Từ sau năm 1940, sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Việt Bắc đả trỏ thành khu căn cứ địa của cách mạng Việt Nam, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, Việt Bắc lại trở thành căn cứ địa kháng chiến chống Pháp ở cả nước.
  • Những năm cả nước chống giặc Mỹ, người Tày - Nùng lại có những đóng góp rất lớn.
  • Như vậy, trong diễn trình lịch sử, cư dân Việt Bắc, và chủ yếu là cư dàn Tày - Nùng cùng gắn bó số phận với các dân tộc ở vùng xuôi. Thời phong kiến, các vương triều đều có ý thức vun đắp cho sự gắn bó này.
  • Dù hiện tại là hai dân tộc nhưng người Tày và người Nung lại có những nét gần gũi, sự gần gũi giữa họ là tương đối. Trong quan hệ bởi văn hóa Hán. người Nùng chịu nhiều ảnh hưởng của Hán tộc nhiều hơn người Tày, người Tày chịu ảnh hưởng của văn hóa Việt nhiều hơn. Về phương diện tổ chức xã hội, cư dân Tày - Nùng chủ yếu sống trong các bản ven đường, cạnh sông suối hay thung lũng Bản là đơn vị cơ sở nhỏ nhất. Các gia đình trong bản và các thành viên hợp lại thành một cộng đồng dân cư và có tổ chức nói cách khác, bản là một công xã nông thôn độc lập, lấy đơn vị nhà làm cơ sở. Nét đáng chú ý, bản của người Tày - Nùng không làm chức năng của một đơn vị sản xuăt, mà nó chi là một cộng đồng về mặt 'xã hội Sự gắn bó con người và con người vẽ cuộc sống kinh tế. dôi sống văn hóa v.v..., cũng chi tồn tại trên ranh giới của bản.
  • Mọi tổ chức xã hội cao hơn bản đã mất. Từ lâu rồi, trên bản chỉ còn những thiết chế xã hội như xã, tổng, châu hay huyện, những thiết chế này thay đổi theo các thể chế chính trị, nhưng bản thì không bao giờ thay đổi. Thành tố cấu thành các bản của người Tày hay người Nùng là những gia đình phụ quyến thuộc các dòng họ khác nhau, có bản gồm 2,3 họ, có bản trên dưới 10 họ. Thiết chế dòng họ, với tư cách là lực vận hãnh xã hội, có nơi chặt chẽ, có nơ lại lỏng lẻo, nhưng  quan hệ giữa những người trong họ vẫn đậm nét. Trong khi đó, quan hệ cộng đồng lại có vai trò quan trọng. Các bản, dù mới lập hay có từ lâu đều có miếu thờ thổ công, mà nhiêu nơi gọi là thổ địa (thô tỉ), thành hoàng (thâm theng). Tổ chức xã hội được coi là chặt chẽ trong các bản của người Tày hay người Nùng là phường đám ma mà họ gọi là phe.
  • Đơn vị xã hội nhỏ nhất của người Tày - Nùng là gia đình, lại là gia đình phụ hệ, chủ gia đình "chẩn rườn" là người cha hay người chồng, làm chủ toàn bộ tài sàn và quyết định mọi công việc trong nhà ngoài làng. Do vậy, ý thức trọng nam khinh nữ khá đậm trong cộng đồng, sự phân biệt đối xử còn thấy rõ trong việc phân chia mặt bằng sinh hoạt trong nhà.
  • Nhà ngoài bao giờ cũng dành cho đàn ông. Trừ các bà già, phụ nữ không bao giờ được ở nhà ngoài.

2. Đặc điểm vùng văn hóa Việt Bắc

  • Tất cả những đặc điểm trên vẽ điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội của vùng Việt Bắc sẽ tác động đến văn hóa của vùng này. Trước tiên là văn hóa vật chất. Người Tày - Nùng có hai loại nhà chính: nhà sàn và nhà đất Nhà sàn là dạng nhà phổ biến, có hai loại nhà sàn, sàn hai mái và sàn bốn mái. Nếu là nhà sàn bốn mái, hai mái đầu hồi bao giờ cũng thấp hơn hai mái chính. Cửa có thể mở ở mật trước hoặc đầu hồi, cầu thang lên xuống bằng tre, gỗ, nhưng số bực bao giờ cũng lẻ, không dùng bậc chẵn.
  • Nhà đất là loại nhà xuất hiện ngày cảng nhiều, nhưng cũng có rất nhiều thay đổi so với ngôi nhà sàn về quy mô, kết cấu, bố cục bên trong.
  • Ở một số vùng còn có loại nhà nữa sàn nửa đất, đây là một loại nhà đặc biệt, vừa có tính chất nhà đất lại vừa mang tính chất nhà sàn.
  • Trang phục của người Tày - Nùng có tính thống nhất, được phân biệt theo giới tính, địa vị, lứa tuổi, theo nhóm địa phương.
  • Y phục của nam giới Tày theo một kiểu, gồm có áo cánh 4 thân, áo dài 5 thân, khăn đội đầu và giày vải. Chiếc-áo 4 thân được cát may theo kiểu xề ngực, cổ áo tròn, cao, không có cầu vai, tà áo xẻ cao, có hàng cúc vải ở trước ngực, cùng 2 túi. Hàng cúc của áo này bao giờ cũng là 7 cái. Quần của nam giới dược may theo kiếu đũng chéo, cả quần lẫn áo của nam giới Tày được may bằng vải chàm. Về đồ trang sức, họ ít dùng đổ trang sức. Vì vậy, trang phục của người đàn ông Tày khá giản dị, không có sự trang trí bằng hoa văn.
  • Giữa nam giới Tày và nam giới Nùng chỉ khác nhau đôi chút về kích thước trong trang phục.
  • Trong khi đó trang phục của nữ giới lại đa dang và phong phú
  • Người phu nữ Nùng chỉ mặc một màu chàm, khác với người phụ nữ Tày mặc chiếc áo lót trong màu trắng. Y phục nữ Tày - Nừng gồm có áo cánh, áo dài 5 thân, quấn, thắt lưng, khăn đội đấu, hài vải đồ trang sức cũng đơn giản, ngày trước chị em thường đeo vòng cổ, vòng tay, vòng chân và xà tích bằng bạc. Chiếc khăn của phụ nữ Tày là khăn vuông, khi lễ tết, họ buộc thêm chỉ đỏ, xanh quanh vănh khăn rối thắt nút ra phía sau. Phụ nữ người Nùng có khác đôi chút là họ thường bịt răng văng, ưa thích đố trang sức bằng bạc nhu vòng chân, vòng tay, vòng cổ, khuyên tai, hoa tai v.v...
  • Về mặt ăn uống, tùy theo từng tộc người mà cách thức chế biến thức ăn và khẩu vị của cư dân Việt Bắc có hương vị riêng.
  • Việc chế biến món ăn của cư dân Tày - Nùng, một mạt có những sáng tạo, một mặt tiếp thu kĩ thuật chế biến của các tộc lân cận như Hoa, Việt v.v.... Họ chế biến ngô một cách tỉnh tế. Ngô được giã, hay xay nhỏ để nấu với cơm, làm các loại bánh thức ăn chính là gạo tẻ, nhưng việc chế biến các món ăn từ gạo nếp lại càng được chú trọng. Trong ngày tết, cốm là món đặc biệt hấp dẫn. Các loại xôi màu hấp dẫn thưòng có mặt trong ngày lễ tết của cư dân Tày - Nùng Thịt lợn, thịt vịt quay thường được làm cấu kì như thịt lợn quay Lạng Sơn, vịt quay Thất Khê.
  • Bữa ăn của cư dân Việt Bắc, mang tính bình đẳng, nhân ái Tất cả các thành viên trong nhà ăn chung một mâm, khách đen nhà rất được ưu ái, nể trọng
  • Điều đáng chú ý là tầng lớp trí thức Tày - Nùng hình thành từ rất sớm. Đầu tiên là các trí thức dân gian dưới lớp vỏ nghề nghiệp như thầy Mo, Then, Tào, Put. Trong thời kỉ tự chủ, triều đình có quan tâm đến việc học hành của cư dân Việt Bắc. Nhà Mạc khi chạy lên đóng đô ở Cao Bằng ra sức đào tạo tầng lớp nho sĩ. Quan lại người Việt chạy lên đây bị Tày hóa. Do vậy, tầng lớp trí thức nho học hình thành, có một số đạt tới trình độ học vấn cao như Bế Văn Phúng, Nông Quỳnh Văn, Hoàng Đức Hậu. Khi thực dân Pháp dặt ách cai trị lên toàn quốc, sau này khai thác thuộc địa lần 1, lần 2, tầng lớp trí thức nho học ít dân, tầng lớp tri thức mới được đào tạo trong các nhà trường thực dân như các ống thông, kí, thầy phán, giáo học. Một Bố có lòng yêu nước, được người dân kính trọng, về sau đã di theo ánh sáng của Đảng để cứu nước như Hoàng Vân Thụ, Lương Văn Chi v.v...
  • Trong kháng chiến chống Pháp, nhất, là sau ngày hòa bình lộp lại, giáo dục ở Việt Bắc được chú trọng phát triển Số trường học các cấp có ở các địa phương ngày càng nhiều. Các trường đại học, cao đẳng đươc thành lập trong mấy chục năm qua như: Đại học Sư phạm Việt Bắc, Đại học Y khoa Việt Bắc v.v. Mới đây, Đảng, nhà nước ta lại tổ chức trường Đại học Thái Nguyên trên cơ sở các trường đại học ở đây, để đẩy mạnh việc đào tạo trí thức, cán bộ khoa học cho Việt Bắc.
  • Trong đào tạo, bên cạnh chữ Quốc ngữ, một số tộc như Tày, H’nông cũng có chữ viết xây dựng trên cơ sở mẫu chữ Latinh.
  • Đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Việt Bắc có những nét cơ bản giống với các khu vực khác.
  • Vẽ tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng dân gian của cư dán Tày - Nùng hướng niềm tin của con người tới thần bản mệnh, trời - đất, tổ tiên. Các thần linh của họ rất đa tạp, có khi là nhiều thần như thán núi, thần sồng, thần đất. Ngoài ra lại có các vua, có Giàng Then, ý thức cộng đồng được củng có thông qua việc thờ thần bản mệnh của mường hay của bản. Ý thức về gia đinh, dòng họ được củng cố thông qua việc thừ phụng tổ tiên. Mỗi gia đình có một ban thờ tổ tiên đặt ở vị trí trang trọng nhát trong nhà. Ngoài ra, trong nhả họ còn thờ vua bếp.
  • Diện mạo tôn giáo Việt Bắc cũng có những nét khác biệt, Các tôn giáo như Khổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo đều có ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của người dân ở Việt Bắc. Chùa thờ Phật ít hơn dưới đồng bằng, nhưng cũng có những chùa đáng lưu ý, như chùa Hang, chùa Úc Kỳ ở Bắc Thái, chùa Diên Khánh, chùa Linh Quang, chùa Nhị Thanh, chùa Tam Thanh ờ Lạng Sơn. Tam giáo được cư dân Tày tiếp thu gắn giống với người Việt, nhưng ở mức độ thấp, trong sự kết hợp với các tín ngưỡng vật linh hồn có từ lâu đời trong dân gian.
  • Về chi tiết, vùng Việt Bắc với người Tày - Nùng, chữ viết trải qua các giai đoạn: giai đoạn cổ đại không có chữ viết, giai đoạn cận đại có chữ Nôm, giai đoạn hiện đại, vừa có chữ Nôm vừa có chữ Latinh. Năm 1960, Đảng và Nhà nước ta đà giúp người Tày - Nùng xây dựng hệ thống chữ viết theo lối chữ Quốc ngừ, hàng chữ cái Latinh Cung chính vì vậy, nét đáng chứ ý là cư dân Tày - Nùng ở Việt Bắc đã có những nhà văn viết văn bàng chữ viết dân tộc. Đáng kể là các tác giả như Hoàng Đức Hậu. Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn v.v...
  • Trong khi đó, văn học dân gian Việt Bắc khá đa dạng vá thế loại, phong phú về số lượng tác phẩm, như thành ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích, nói ví câu đố và đồng dao, Kiêng dân ca, loại phong phú là loại khá riêng biệt được viết trên nền giấy vải khá công phu. Đặc biệt, lời ca giao duyên; lượn cọi và lượn slương, là những thể loại tiêu biếu được các thế hệ trẻ Tàv - Nùng ưa chuộng.
  • Lễ hội của cư dân Tày - Nùng rất phong phú. Ngày hội của toàn cộng đống là hội Lồng tồng, diễn ra gồm hai phần: Lễ và hội Nghi lễ chính là rước thán đình và thần nông ra noi mở hội ở ngoài đồng.
  • Nói đến sinh hoạt văn hóa của cư dân vùng Việt Bắc, không thể không nói đến sinh hoạt hội chợ ở đây - Là nơi để trao đổi hàng hóa, nhưng lại cũng là nơi để nam nữ thanh niên trao duyên, tỏ tình. Người ta đã từng nói đến một loại sinh hoạt văn hóa hội chợ ở vừng nãy, và có thể coi như một. sinh hoạt văn hóa đặc thù của vùng Việt Bắc.
  • Tóm lại, Việt Bắc là một vùng văn hóa có nhiều đặc thù. Tộc người chủ thể: Tày - Nùng với lịch sử và văn hóa của họ tạo ra nét đặc thù này. Tuy nhiên, những đặc thù này không phá vỡ tính thống nhất của văn hóa Việt Bắc và văn hóa cả nước.

Tham khảo thêm

Bình luận

Có Thể Bạn Quan Tâm ?