Bài học có nội trình trình bày về quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa; mục tiêu quan điểm về công nghiệp hóa hiện đại hóa; đưa ra các đinh hướng về công nghiệp hóa hiện đại hóa trong những năm tới,... Để tìm hiểu rõ hơn nội dung bài học, mời các bạn cùng tham khảo Bài 2: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới.
Tóm tắt lý thuyết
1. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) - Đại hội đổi mới, với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật" đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960-1985, mà trực tiếp là 10 năm, từ năm 1975 đến năm 1985. Đó là:
- Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, v.v.. Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
- Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khâu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
- Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết Đại hội V của Đảng, như: vẫn chưa thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI của Đảng đã cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là thực hiện cho bằng được ba Chương trình mục tiêu: lương thực - thực phẩm; hàng tiêu dùng; hàng xuất khâu.
Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (tháng 1-1994), đã có bước đột phá mới trong nhận thức về khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyên đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao".
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) nhìn lại đất nước sau mười năm đổi mới đã có nhận định quan trọng: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép nước ta chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội IX (tháng 4-2001), Đại hội X (tháng 4-2006), Đại hội XI (tháng 1-2011) và Đại hội XII (tháng 1-2016) của Đảng, bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới về mục tiêu, con đường công nghiệp hóa ở nước ta, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững.
2. Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.1 Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những muc tiêu cu thể. Đại hội X xác định muc tiếu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình hạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội XII đã nhận định: nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được. Trong 5 năm tới (2016-2020), tiếp tục đấy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh, bền vững; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
2.2 Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện trong nước và quốc tế, Đảng ta nêu ra những quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới. Những quan điểm này được Hội nghị lần thứ bảy Ban Châp hành Trung ương khóa VII nêu ra và được phát triển, bo sung qua các Đại hội VIII, IX, X, XI, XII của Đảng. Dưới đây khái quát những quan điểm cơ bản của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới:
- Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Từ thế kỷ XVII, XVIII, các nước Tây Âu đã tiến hành công nghiệp hóa. Khi đó, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thê lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Nhưng trong thời đại ngày nay, Đại hội X của Đảng nhận định: "Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiên nhảy vọt và những đột phá lớn". Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật ữong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên canh đó, xu thê hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiên hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết hợp công nghiệp hóa với hiện đại hóa.
Nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri thức đã phát triển. Chúng ta có thể và cần thiết không trải qua các bước phát triển tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức. Đó là lợi thế của các nước đi sau, không phải là nóng vội, duy ý chí. Vì vậy, Đại hội X của Đảng chỉ rõ: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh thêm: "thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ".
Đại hội XII của Đảng xác định: "tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu".
Kinh tế tri thức là gì? Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra định nghĩa: Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sư sản sinh ra, phổ cập và sử đụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và cả những ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vu được ứng dụng khoa học, công nghệ cao.
- Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Khác với công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, được tiến hành trong nền kinh tế kê hoạch hóa tập trung, lực lượng làm công nghiệp hóa chỉ có Nhà nước, theo kế hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiến hành trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thành phần. Do đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không phải chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế. ơ thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để công nghiệp hoá được thực hiện bằng cơ chế kê hoạch hoá tập trung của Nhà nước, còn ở thời kỳ đổi mới được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị trường. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường không những khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nền kinh tế, mà còn sử dụng chúng có hiệu quả để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bởi vì, khi đầu tư vào lĩnh vực nào, ở đâu, quy mô thế nào, công nghệ gì đều đòi hỏi phải tính toán, cân nhắc kỹ càng, hạn chế đầu tư tràn lan, sai mục đích, kém hiệu quả và lãng phí, thất thoát.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, tât yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới... sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế còn nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ các sản phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế, có sức cạnh tranh cao. Nói cách khác, đó là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng nhanh hơn, hiệu quả hơn.
- Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Trong các yếu tố tham gia vào quá trinh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, yếu tố con người luôn được coi là yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần năm yếu tố chủ yếu là: vốn; khoa học và công nghệ; con người; cơ cấu kinh tế; thể chế chính trị và quản lý nhà nước, trong đó con người lả yếu tố quyết định. Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý cũng như đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. Đại hội XI chỉ rõ: "Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tô" quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững".
- Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm lực khoa học, công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, nhất là công nghệ thông rin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.
- Năm là, phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải phát hiển nhanh, hiệu quả và bền vững. Chỉ như vậy mới có khả năng xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tình thần của nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng... Mục tiêu đó thể hiện sự phát triển vì con người, mọi con người đều được hưởng thành quả của phát triển.
3. Định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm tới
3.1 Phát triển công nghiệp
- Xây dựng nền công nghiệp và thương hiệu công nghiệp quốc gia với tầm nhìn trung, dài hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn phát triển.
- Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương và có chính sách phù hợp để xây dựng, phát triển các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, tăng hàm lượng khoa học - công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm, tập trung vào những ngành có tính nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu.
Phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hoá chất, công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an ninh. Chú trọng phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh; công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và sản xuất vật liệu mới; từng bước phát triển công nghệ sinh học, công nghiệp môi trường và công nghiệp văn hóa. Tiếp tục phát triển hợp lý một sô ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động.
Phân bố công nghiệp hợp lý hơn trên toàn lãnh thổ, nâng cao hiệu quả các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất; sớm đưa một sô khu công nghiệp công nghệ cao vào hoạt động.
3.2 Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Vân đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn của quá trình công nghiệp hoá đối với tất cả các nước tiến hành công nghiệp hoá trên thế giới, bởi vì công nghiệp hoá là quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp, nông thôn và gia tăng khu vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và đô thị. Nông nghiệp là nơi cung cấp lương thực, nguyên liệu, lao động cho công nghiệp vầ thành thị, là thị trường rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn chiếm đa số dân cư ở thời điểm khi bắt đầu công nghiệp hoá. Vì vậy, quan tâm đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá. Trong những năm tới, định hướng phát triển cho quá trình này là:
- Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuâl khẩu.
- Đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp sinh thái phát triển toàn diện cả về nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn để tăng năng suất, chất lượng, hiêu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài; nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân. Chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp. Có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất, thu hút mạnh các nguồn lưc đầu tư phát triển nông nghiệp; từng bước hình thành các tổ hợp nông nghiệp - công nghiệp - địch vụ công nghệ cao.
- Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới và quá trình đô thị hóa một cách hợp lý, nâng cao chất lượng dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thu hẹp khoảng cách về phát triển giữa đô thị và nông thôn, tăng cường kết nối nông thôn - đô thị, phối hợp các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với phát triển công nghiệp, dịch vụ và đô thị.
- Phát huy vai trò chủ thể của hộ nông dân và kinh tế hộ; xác định vai trò hạt nhân của doanh nghiệp trong nông nghiệp, đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nông, lâm, ngư nghiệp nhà nước; phát triển hợp tác xã kiểu mới và các hình thức hợp tác, liên kết đa dạng; hình thành các vùng nguyên liệu gắn với chế biến và tiêu thụ.
3.3 Phát triển khu vực dịch vụ
- Đẩy mạnh phát triển khu vực dịch vụ theo hướng hiện dại, đạt tôc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế.
- Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như: du lịch, hàng hải, dịch vụ kỷ thuật dầu khí, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin. Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, logistics và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất kinh doanh khác.
- Đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách giá dịch vụ giáo dục - đào tạo, y tế; phát triển dịch vụ giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao, dịch vụ khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể thao; dịch vụ việc làm.
- Hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch tầm cỡ khu vực và quốc tế. Chủ động phát triển mạnh hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ trong nước, tham gia vào mạng phân phối toàn cầu.
3.4 Phát triển kinh tế biển
- Phát triển mạnh kinh tế biển nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia và bảo vệ chủ quvền biển, đảo. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp dầu khí, đánh bắt xa bờ và hậu cần nghề cá, kinh tế hàng hải (kinh doanh dịch vụ cảng biển, đóng và sửa chữa tàu, vận tải biển), du lịch biển, đảo.
- Có cơ chế tạo bước đột phá về tăng trưởng và chuyên dịch cơ cấu kinh tế biển, thu hút mạnh hơn mọi nguồn lực đầu tư để phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, khai thác tài nguyên biển, đảo một cách bền vừng. Tập trung đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động các khu kinh tế ven biển.
3.5 Phát triển kinh tế vùng, liên vùng
- Thống nhất quản lý tổng hợp chiến lược, quy hoạch phát triển trên quy mô toàn bộ nền kinh tế, vùng và liên vùng. Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đồng thời ưu tiên phát triển các vùng kinh tế động lực, tạo sức lôi cuốn, lan tỏa phát triển đến các dịa phương trong vùng và đến các vùng khác. Có chính sách hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó khăn, nhât là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và hải đảo; phát triển kinh tế lâm nghiệp.
- Đổi mới cơ chế phân cấp, phân quyền, gắn với phân định và nâng cao trách nhiệm của trung ương và địa phương. Thực hiện quy hoạch vùng, chính sách vùng; sớm xâv dựng và thể chế hóa cơ chế điều phối liên kết vùng theo hướng xác định rõ vai trò đầu tàu và phân công cụ thể trách nhiệm cho từng địa phương trong vùng. Khắc phục tình trạng nền kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính, hoặc đầu tư dàn trải, trùng lặp.
- Xây dựng một số đặc khu kinh tế để tạo cực táng trưởng và thử nghiệm thể chế phát triển vùng có tính đột phá.
3.6 Phát triển đô thị
- Đổi mới cơ chế, chính sách, kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch. Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường, gồm một số đô thị lớn, nhiều đô thị vừa và nhỏ liên kết và phân bố hợp lý trên các vùng; chú trọng phát triển đô thị miền núi, phát triển mạnh các đô thị ven biển.
- Nâng cao chất lượng, tính đồng bộ và năng lực cạnh tranh của các đô thị; chú trọng phát huy vai trò, giá trị đặc trưng của các đô thị động lưc phát triển kinh tế câp quốc gia và cấp vùng, đô thị di sản, đô thị sinh thái, đô thị du lịch, đô thị khoa học.
3.7 Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
- Đẩy mạnh huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội để tiếp tục tập trung đầu tư hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tương đối đồng bộ với một số công trình hiện đại.
- Ưu tiên và đa dạng hóa hình thức đầu tư cho các lĩnh vực trọng tâm là: hạ tầng giao thông đồng bộ, có trọng điểm, kết nối giữa các trung tâm kinh tế lớn và giữa các trục giao thông đầu mối; hạ tầng ngành điện bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; hạ tầng thủy lợi đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp và ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; hạ tầng đô thị lớn hiện đại, đồng bộ, từng bước đáp ứng chuẩn mực đô thị xanh của một nước công nghiệp.
4. Kết quả và nguyên nhân
4.1 Kết quả thực hiện đường lối
- Thành tựu:
- Trong 30 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã tích cực thể chế hóa chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bước đầu tạo môi trường pháp lý bình đẳng và minh bạch cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, phát triển, khơi thông các nguồn lực trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài.
- Cơ cấu kinh tế đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm. Trình độ công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi theo hướng hiện đại. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng, tỷ trọng công nghiệp khai thác giảm dần. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn có tiến bộ. Cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, sinh học hóa được chú trọng gắn với phát triển kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới.
- Ngành công nghiệp và xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá liên tục trong nhiều năm; tốc độ triển khai ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ được cải thiện, nhiều dây chuyền công nghệ hiện đại, thiết bị tiên tiến, quy trình quản lý công nghiệp hiện đại được áp dụng.
- Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá cao, thị trường được mở rộng. Một số ngành dịch vụ mới, chủ lực có giá trị gia tăng cao như khoa học - công nghệ, thiết kế công nghiệp, nghiên cứu thị trường, tài chính, ngân hàng, viễn thông... đã hình thành và từng bước phát triển.
- Kinh tế vùng, liên vùng có bước phát triển. Đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp và các khu kinh tế, khai thác các lợi thế, bước đầu tạo nên thê mạnh của các vùng kinh tế góp phần tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng tích cực. Kinh tế biển đã chuyển biến đáng kể, quy mô mở rộng, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế đất nước.
- Cơ cấu lao động xã hội đã chuyển dịch theo hướng tích cực, chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện, phục vụ tốt hơn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng lao động của các ngành công nghiệp và dịch vụ đã tăng liên tục trong những năm qua1. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng tương đối nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.
- Việc khai thác, sử dụng tài nguyên quốc gia và bảo vệ môi trường gắn với yêu cầu phát triển bền vững đã được quan tâm và đem lại kết quả bước đầu. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã được chú trọng đầu tư phát triển, đặc biệt là hạ tầng giao thông, điện, thông tin, viễn thông, thủy lợi, hạ tầng đô thị, giáo dục, y tế. Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh. Diện mạo đất nước thay đổi căn bản so với thời kỳ trước đổi mới.
- Việc phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao có tiến bộ, tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây dựng kinh tế tri thức.
- Hạn chế:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế và sản xuất công nghiệp thấp so với tiềm năng; 10 năm gần đây (2006-2016) suy giảm. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam so với mức chuẩn của một nước công nghiệp, so với các nước phát triển trong khu vực còn khoảng cách lớn. Sự chênh lệch giữa các vùng, miền, các bộ phận dân cư còn lớn.
- Trình độ công nghệ nhìn chung còn thâp. Quá trình đổi mới công nghệ chậm, không đồng đều. Phần lớn sản xuất công nghiệp là hoạt động gia công lắp ráp, chủ yếu sử dụng máy móc, thiết bị và nguyên liệu nhập khẩu. Các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm có hàm lượng tri thức và công nghệ cao chiếm tỷ lệ thấp, tốc độ tăng chậm. Năng suất, châ't lượng, hiệu quả, sức cạnh ưanh của nền kinh tế thấp. Hầu hết các ngành kinh tế, kể cả một sô' ngành được coi là chủ lực, chưa xác lập được vị trí trong mạng sản xuẩt và chuỗi giá trị toàn cầu.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn chưa đạt yêu cầu. Nền nông nghiệp, về nhiều mặt còn lạc hậu, manh mún. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch và các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng cao chưa được chú trọng đúng mức, còn nhiều hạn chế.
- Chuyển địch cơ cấu kinh tế ngành và trong từng ngành còn chậm. Đặc biệt, trong 10 năm gần đây, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chưa đáp ứng nhu cầu chuyển dịch dân cư và lao động giữa thành thị và nông thôn. Liên kết kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, liên kết kinh tế vùng, liên vùng còn yếu, hiệu quả thấp; phát triển các khu công nghiệp, chế xuất, kinh tế ven biển và cửa khâu dàn trải, trùng lắp, gây lãng phí.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ, còn lạc hậu, thiếu tính kết nối. Việc quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên còn lỏng lẻo và gây lãng phí nghiêm trọng.
- Sau 30 năm đổi mới, về cơ bản, vẫn chưa hình thành được các ngành công nghiệp có tính nền tảng cho nền kinh tế; công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp vả nông thôn phân tán, manh mún; công nghiệp hỗ trợ còn non yếu. Những khiếm khuyết trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm bộc lộ sự phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Việc tạo nền tảng để nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn chậm, không đạt được mục tiêu đề ra.
4.2 Nguyên nhân
- Những thành tựu đạt được trước hết là do đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng, về cơ bản, là đúng đắn. Việc thể chế hóa, tổ chức thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa được quan tâm. Sức sản xuất được giải phóng, các nguồn lực bên trong và bên ngoài được khai thác, phát huy phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự nỗ lực phấn đấu của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và của các chủ thể khác ngày càng tăng.
- Những hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:
- Về khách quan, việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa có tiền lệ trong lịch sử. Điểm xuất phát của nước ta khi bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa rất thấp; điều kiện và khả năng còn hạn chế, trong khi đó phải đối mặt với nhiều thách thức trong cạnh tranh kinh tế khu vực và quốc tế ngày càng gay gắt.
- Về chủ quan:
- Tư duy lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa bắt kịp với các thay đổi và chuẩn mực chung của thế giới, vẫn còn biểu hiện chủ quan, duy ý chí; chưa hoàn toàn phù hợp với cấu trúc của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng.
- Việc nghiên cứu, xây dựng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch tổng thể về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung và của từng ngành, từng lĩnh vực, các sản phẩm chiến lược nói riêng chậm, chât lượng thấp, thiếu tầm nhìn xa, chưa dựa trên nguyên tắc của kinh tế thị trường, còn nhiều lúng túng, vừa chồng chéo vừa có khuynh hướng chia cắt, cục bộ. Thể chế, cơ chế, chính sách, chất lượng, năng lực của bộ máy nhà nước còn nhiều hạn chế. Việc ban hành một số cơ chế, chính sách liên quan trực tiếp đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa sát thực tiễn. Sự chỉ đạo, tổ chức thực hiện chưa kiên quyết, hiệu quả chưa cao.
- Huy động nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn nhiều bất cập. Đầu tư, nhất là đầu tư công, còn dàn trải, kém hiệu quả, chưa có những giải pháp mang tính đột phá để giải phóng sức dân, nuôi dưỡng và phát triển mạnh mẽ hệ thống doanh nghiệp dân doanh cừng như các nguồn lực quan trọng khác ở trong nước. Mặt khác, chưa thực sự chủ động, nâng cao hiệu quả hoạt động hội nhập quốc tế, chưa tận dụng tốt cơ hội và hạn chê tác động tiêu cực do hội nhập quốc tế tạo ra. Chưa thực hiện tốt chủ trương phát huy nội lực, tăng cường tính dộc lập, tự chủ của nền kinh tế ữong quá trình hội nhập quốc tế. Tình trạng tham nhũng, lãng phí, "lợi ích nhóm" làm hạn chế kết quả đầu tư phát triển.