20 Câu hỏi tự luận môn Triết học có gợi ý trả lời

20 CÂU HỎI TỰ LUẬN MÔN TRIẾT HỌC CÓ GỢI Ý TRẢ LỜI

 

Câu 1: Đặc trưng của tri thức triết học và sự biến đổi đối tượng nghiên cứu của triết học qua các giai đoạn lịch sử? 

Khái niệm “Triết học”, nguồn gốc của triết học 

  • Triết học với tính cách là một khoa học xuất hiện rất sớm trong thời kỳ cổ đại, tuy nhiên sự hình thành và phát triển của triết học, quan niệm về triết học cũng thay đổi và phát triển gắn liền với những điều kiện lịch sử xã hội nhất định.
  • Triết học xuất hiện ở chế độ chiếm hữu nô lệ, khoảng thế kỷ thứ VIII - VI trước công nguyên. Sự ra đời của triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
  • Nguồn gốc nhận thức khẳng định triết học chỉ xuất hiện khi mà trình độ nhận thức của con người có khả năng khái quát và trừu tượng hóa những cái riêng lẻ, cụ thể để nắm bắt được cái chung, cái bản chất và qui luật của hiện thực. Bởi, đối tượng triết học là thế giới vật chất và con người được nó nghiên cứu dưới dạng các qui luật chung và phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy.
  • Nguồn gốc xã hội khẳng định triết học chỉ xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp. Bởi, nó phản ánh và bảo vệ lợi ích cho những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định. Cho nên, triết học mang tính giai cấp. 
  • Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau mà sự phân chia chúng cũng chỉ có tính tương đối. 
  • Thuật ngữ triết học theo từ nguyên chữ Hán có nghĩa là “trí”, bao hàm sự hiểu biết sâu rộng của con người về hiện thực và vấn đề đạo lý của con người. Còn theo gốc Hy lạp có nghĩa là “yêu mến sự thông thái” hoặc “làm bạn với trí tuệ”, xuất phát từ một thành ngữ La tinh cổ có tên là: philosophia.
  • Như vậy, nội dung thuật ngữ triết học bao hàm hai yếu tố: đó là yếu tố nhận thức (sự hiểu biết của con người, sự giải thích hiện thực bằng hệ thống tư duy lôgíc) và yếu tố nhận định (đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ và hành động) về mặt xã hội. Cho nên, dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học biểu hiện khả năng nhận thức và đánh giá của con người, nó tồn tại với tính cách là một hình thái ý thức xã hội. 
  • Khái quát lại, theo quan điểm của triết học Mác - Lênin thì triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
  • Hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới là các hệ thống lý luận của triết học với tính cách là một khoa học và nó khác với hệ thống lý luận của các khoa học cụ thể ở tính chất chung và phổ biến nhất của nó về hiện thực.
  • Hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về vị trí, vai trò của con người không chỉ khẳng định con người có khả năng nhận thức các qui luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; mà còn khẳng định vai trò của triết học tạo nên khả năng cải tạo thế giới của con người thông qua hoạt động thực tiễn và con người là chủ thể của lịch sử. 

Sự biến đổi đối tượng của triết học qua các giai đoạn lịch sử 

  • Đối tượng của triết học là thế giới vật chất và con người được triết học nghiên cứu dưới dạng các qui luật chung và phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của triết học cũng thay đổi và phát triển có tính chất lịch sử. Nhưng triết học bao giờ cũng đặt ra và giải quyết bằng lý luận những vấn đề về thế giới quan, như vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về bản chất và tính thống nhất thế giới của vật chất, về khả năng nhận thức của con người.
  • Khi mới ra đời, triết học thời cổ đại được gọi là triết học tự nhiên, bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm sau này coi triết học là khoa học của các khoa học. Tuy nhiên, triết học thời kỳ này đã đạt được nhiều thành tựu và nó ảnh hưởng to lớn đối vơi sự lịch sử phát triển của các khoa học. 
  • Thời trung cổ, ở Tây âu khi quyền lực của giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì triết học tự nhiên bị thay thế bởi triết học kinh viện, phụ thuộc vào thần học chỉ còn nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho Kinh thánh. 
  • Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ở thế kỷ XV, XVI đã tạo ra cơ sở vững chắc cho sự phục hưng triết học và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, các khoa học chuyên ngành, nhất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là những khoa học độc lập so với triết học. Chủ nghĩa duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đã đạt tới đỉnh cao ở thế kỷ XVII – XVIII như chủ nghĩa duy vật của Ph. Bêcơn, T. Hốpxơ, Điđrô, Xpinôza, v.v… trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Mặt khác,tư duy triết học cũng được phát triển trong chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen. 
  • Điều kiện kinh tế – xã hội và sự phát triển của khoa học đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác, đoạn tuyệt với quan niệm triết học “khoa học của các khoa học”. Triết học mácxít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu các qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
  • Triết học phương Tây hiện đại muốn từ bỏ quan niệm truyền thống về triết học, xác định đối tượng nghiên cứu riêng cho mình, nhưng triết học bao giờ cũng đặt ra và giải quyết bằng lý luận những vấn đề về thế giới quan, như vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về bản chất và tính thống nhất thế giới của vật chất, về khả năng nhận thức của con người.

Câu 2: Vấn đề cơ bản của triết học. Cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm? 

Vấn đề cơ bản của triết học

  • Trong tác phẩm “Lút vích Phoiơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, Ăngghen đã viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, nhất là triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
    • Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi, giữa ý thức hay vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định cái nào?
    • Mặt thứ hai trả lời câu hỏi, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
  • Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học: Bởi vì, vật chất và ý thức là hai phạm trù rộng lớn nhất của triết học và đồng thời nó cũng là nội dung cơ bản nhất được xác định trong đối tượng nghiên cứu của triết học. Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là một tiêu chuẩn để phân biệt sự giống nhau, khác nhau giữa các trường phái triết học, giữa triết học và khoa học. Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận chung về thế giới quan và phương pháp luận của triết học. 

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm 

  • Giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở phân định các trường phái triết học. Có ba cách giải quyết: 
    • Một là, vật chất có trước quyết định ý thức, vật chất quyết định ý thức. Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức. 
    • Hai là, ý thức có trước, vật có sau, ý thức quyết định vật chất. Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, tính thứ hai của vật chất. 
    • Ba là, vật chất và ý thức tồn tại độc lập, chúng không nằm trong quan hệ sản sinh, cũng không nằm trong quan hệ quyết định nhau. 
    • Cách giải quyết thứ nhất và thứ hai tuy đối lập nhau về nội dung nhưng giống nhau ở chỗ, chúng đều thừa nhận tính thứ nhất của một nguyên thể(hoặc vật chất, hoặc ý thức) Hai cách giải quyết này thuộc về triết học nhất nguyên. 

Chủ nghĩa duy vật có ba hình thức cơ bản: 

  • Triết học duy vật cổ đại(duy vật chất phác – ngây thơ) 
    • Chủ nghĩa duy vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ, xuất hiện trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Ấn Độ, Trung Hoa, Hylạp. Bởi vì, xét về thế giới quan là duy vật có ý nghĩa chống lại những tư tưởng sai lầm của triết học duy tâm và tôn giáo; nhưng xét về mặt phương pháp luận thì chưa có cơ sở khoa học, bởi nó mang tính trực quan, cảm tính chủ yếu dựa vào tri thức kinh nghiệm của chính bản thân các nhà triết học hơn là những khái quát khoa học của bản thân tri thức triết học. Quan niệm về thế giới là vũ trụ, là vạn vật… vật chất là vật thể cụ thể hoặc thuộc tính của vật thể cụ thể, v.v… còn ý thức là linh hồn, là cảm giác, v.v… 
    • Aênghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy lạp thời cổ, và nguời đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Héraclite: mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thhời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trình xuất hiện và biến đi”, hoặc là quan điểm về nguyên tử của Démocrite, v.v… 
    • Tóm lại, Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất và đã đồng nhất vật chất với một số chất cụ thể và những kết luận của nó mang nặng tính trực quan nên ngây thơ, chất phác. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy giới tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên, không viện đến thần linh hay Thượng đế. 
  • Chủ nghĩa duy vật siêu hình 
    • Siêu hình là thuật ngữ triết học phản ánh khuynh hướng phát triển của triết học duy vật từ thời kỳ phục hưng đến thời cận đại, còn được gọi là triết học tự nhiên. Xét về mặt thế giới quan là duy vật, nhưng xét về mặt phương pháp luận lại ảnh hưởng bởi phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên (phương pháp thực nghiệm)của thời kỳ này, nhất là khoa học vật lý. Cho nên, nó còn được gọi là phép siêu hình “Méthaphisiqie” – “Méthode Dialectique” Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đỉnh cao ở thế kỷ XVII – XVIII. Đây là thời kỳ cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục 
    • phát triển quan điểm duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sực tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc – phương pháp nhìn nhận thế giới như một tổng thể các sự vật, hiện tượng tạo nên trong trạng thái biệt lâp, tĩnh tại. 
    • Trước đây, tri thức của các lĩnh vực khoa học còn là một bộ phận trực tiếp của triết học. Đến thời kì này nảy sinh nhu cầu các ngành hoa học cụ thể tách ra khỏi triết học trở thành các ngành khoa học cụ thể, độc lập; dùng phương pháp nghiên cứu thật chi tiết nhằm phát hiện các thuộc tính, những qui luật của vật chất như tính năng, tác dụng, độ bền vật liệu, v.v… Từ đó làm xuất hiện phương pháp mới trong khoa học tự nhiên – phương pháp thực nghiệm và cũng trên cở đó xuất hiện sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình. Phương pháp này xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tĩnh tại, không vận động, không biến đổi, không phát triển, v.v… đó là hệ quả của điều kiện lịch sử phát triển của khoa học ở thế kỷ XVII – XVIII. 
    • Triết học duy vật thời kỳ này đại diện cho những tư tưởng của giai cấp tư sản tiến bộ, họ đã tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện, nhà thờ trung cổ. Trong số các đại biểu cơ bản của triết học duy vật thời kỳ này là triết học duy vật Pháp với những quan điểm của La Mettrie, Diderot Denis, Holbach Paul Henri, Helvétus Claude Adrie - chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII,v.v… chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. 
  • Chủ nghĩa duy vật Biện chứng 
    • Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do Mác – Aênghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin phát triển. 
    • Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và vận dụng triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII và nó đã thể hiện được sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật khoa học và phương pháp nhận thức khoa học. 
    • Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học thì chủ nghĩa duy vật đều thừa nhận vật chất là tính thứ nhất, là cái có trước, cái quyết định đối với ý thức còn ý thức là tính thứ hai, cái có sau, cái phụ thuộc vào vật chất. Và giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học thì chủ nghĩa duy vật khẳng định con người có khả năng nhận thức thế giới. 

Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức:

  • Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng cơ sở hết thảy mọi sự vật tồn tại là cảm giác, biểu tượng và ý thức của cá nhân, của chủ thể. Tư tưởng tiêu biểu của trường phái này là Berkeley (Thời cận đại) với quan điểm không thừa nhận ở bên ngoài cảm giác vẫn tồn tại những sự vật, hiện tượng thực tại, độc lập với con người, tác động vào giác quan của con người hình thành cảm giác, nhận thức, v.v… 
  • Chủ nghĩa duy tâm khách quan thì cơ sở của hết thảy mọi sự vật tồn tại không phải là ý thức cá nhân, chủ quan là một thứ ý thức “khách quan” và thần bí nào đó tồn tại thuần túy trừu tượng có trước và quyết định tất cả, kể cả con người và ý thức của con người. 
  • Tiêu biểu cho những quan điểm này phải kể đến Platon (Hy lạp cổ đại) và Héghel (Triết học Cổ điển Đức). 
  • Như vậy, sự khác nhau căn bản giữa chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan chủ yếu thể hiện trong quan niệm về ý thức, nhưng họ lại giống nhau về mặt nguyên tắc khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. 
  • Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học thì họ đều thừa nhận ý thức là tính thứ nhất, là cái có trước, cái quyết định vật chất còn vật chất là tính thứ hai, cái có sau, cái phụ thuộc vào ý thức.
  • Giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghĩa duy tâm không phủ nhận khả năng nhận thức của con người nhưng họ coi khả năng đó phụ thuộc vào chính bản thân ý thức (cảm giác chủ quan thuần túy) hoặc lực lượng siêu nhiên (ý niệm - ý niệm tuyệt đối).
  • Như vậy, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là quan điểm nhất nguyên luận. Bởi vì, mỗi một trường phái đều xuất phát từ quan điểm duy nhất là thừa nhận vật chất, hoặc ý thức là cái có trước cái quyết định, làm nguyên lý xuất phát với tính cách là cơ sở lý luận chung cho hệ thống lý luận triết học của mình. Trong lịch sử triết học còn có trường phái Nhị nguyên luận, Thuyết không thể biết và triết học Tôn giáo; nhưng chủ yếu vẫn là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

Câu 3: So sánh phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình?

  • Phương pháp hiểu theo nghĩa chung nhất là hệ thống các nguyên tắc được sử dụng nhất quán trong hoạt động nói chung của con người. Phương pháp bao gồm có phương pháp nhận thức và phương pháp thực tiễn. Phương pháp của triết học là phương pháp nhận thức thế giới hiện thực. Trong lịch sử phát triển của triết học, đã tồn tại hai phương pháp nhận thức đối lập nhau: đó là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
  • Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức thế giới với quan điểm cơ bản cho rằng, sự tồn tại của mọi sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan nói chung đều ở trong những mối liên hệ, trong sự vận động và phát triển theo những qui luật khách quan vốn có của nó. 
  • Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức thế giới với quan điểm cơ bản cho rằng, mọi sự vật và hiện tượng của thế giới vật chất đều tồn tại cô lập lẫn nhau, cái này ở bên cạnh cái kia và nó luôn ở trong trạng thái tĩnh không có sự vận động và phát triển. Nhưng nếu như có thừa nhận sự phát triển thì chẳng qua chỉ là một quá trình tăng hoặc giảm về số lượng. 
  • Mặt khác, quan điểm này không thừa nhận mâu thuẫn bên trong bản thân các sự vật và hiện tượng. Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong lịch sử triết học chủ yếu về mặt nguyên tắc và phương pháp nhận thức thế giới khách quan. Trong việc nghiên cứu của khoa học tự nhiên, thì vấn đề phân chia thế giới hiện thực thành các thuộc tính, bộ phận, hệ thống tĩnh tại và tách rời nhau đều là những điều kiện cần thiết cho nhận thức khoa học. Nhưng sẽ không đúng, nếu từ đó rút ra kết luận cho rằng phép siêu hình là thế giới quan khoa học và đúng đắn nhất. Cần phải phân biệt một bên là phương pháp trừu tượng hoá tạm thời cô lập sự vật và hiện tượng khỏi mối liên hệ chung, tách khỏi sự vận động và phát triển để nghiên cứu chúng, với một bên là phép siêu hình với tư cách là thế giới quan của triết học. 

Câu 4: Trình bày vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học và vai trò của triết học Mác - Lênin? 

Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học 

  • Thế giới quan cũng là một hệ thống những quan niệm mang tính khái quát về thế giới và về vai trò của con người đối với thế giới. Nó có ý nghĩa định hướng cho hoạt động nói chung của con người, là cơ sở cho việc hình thành những quan niệm, lý tưởng xã hội, đạo đức, thẩm mỹ v.v... Thế giới quan có cấu trúc phức tạp, bao gồm tri thức, tư tưởng, lý tưởng, niềm tin v.v... thể hiện trong các lĩnh vực: chính trị, đạo đức, triết học, khoa học và tôn giáo, v.v... Trong đó triết học là cơ sở lý luận, hạt nhân của thế giới quan. Bởi vì, vấn đề chủ yếu của mọi thế giới quan cũng là vấn đề cơ bản của triết học, đó là giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. 
  • Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học. Chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan triết học đối lập nhau. 
  • Mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là những nguyên tắc trong việc xác định phương pháp và lý luận về phương pháp. Sự phát triển của thực tiễn và khoa học đã dẫn đến sự ra đời một lĩnh vực đặc thù của tri thức triết học và khoa học lý thuyết - đó là phương pháp luận. Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung của toàn bộ nhận thức khoa học, trong đó bản thân thế giới quan cũng mang một ý nghĩa về mặt phương pháp luận. 

Vai trò của triết học Mác - Lênin 

  • Sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để, và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học; nhờ đó mà triết học Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn về hiện thực.
  • Triết học Mác - Lênin đoạn tuyệt với quan niệm xem triết học là “khoa học của các khoa học” như tham vọng của các trường phái triết học tự nhiên trước kia, mà xem sự gắn bó với khoa học cụ thể là một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Triết học Mác - Lênin với thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học của mình có ý nghĩa định hướng chung cho sự phát triển của khoa học và càng trở nên đặc biệt quan trọng trong thời đại khoa học - công nghệ hiện nay. 
  • Trong thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ, các trào lưu cách mạng xã hội đã và đang tạo nên sự biến đổi sâu sắc và hết sức năng động trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. 
  • Sự thực hiện những nhiệm vụ to lớn nhằm mục tiêu tiến bộ xã hội do thời đại đặt ra đòi hỏi con người phải có thế giới quan khoa học vững chắc và năng lực tư duy sáng tạo. Việc nắm vững triết học Mác - Lênin giúp chúng ta tự giác trong quá trình trau dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và tư duy sáng tạo của mình. Đó còn là đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và của công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta nói riêng.

Câu 5: Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo? 

  • Phật giáo là một trào lưu tư tưởng lớn ở Ấn Độ cổ đại. Xuất hiện vào thế kỷ VI trước công nguyên. Người sáng lập ra Phật giáo là Buddha (Phật) còn có nghĩa "giác ngộ". Ông sinh khoảng năm 623 trước công nguyên, sống gần 80 năm. Sau khi ông mất, các học trò của ông đã phát triển tư tưởng của ông thành hệ thống tôn giáo - triết học lớn ở Ấn Độ có ảnh hưởng rộng rãi, sâu sắc trong đời sống tinh thần và tâm linh của nhân loại.
  • Kinh điển Phật giáo hiện nay rất đồ sộ, gồm ba bộ phận gọi là Tripitaka (Tam Tạng) gồm kinh (Sùtra) - Tạng kinh, được coi là sự ghi lại lời của Buddha thuyết pháp; luật (Vinaya) - Tạng luật tức là những điều mà giáo đoàn Phật giáo phải tuân theo và luận (Sàstra) - Tạng luận, tức là sự luận giải các vấn đề Phật giáo của các học giả - cao tăng về sau. Nghiên cứu tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện:

Bản thể luận 

  • Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng, cũng như con người là không có thực, là ảo giả do vô minh đem lại. Thế giới (nhất là thế giới hữu sinh - con người) được cấu tạo do sự tổng hợp của các yếu tố vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Danh và sắc được chia làm 5 yếu tố (gọi là ngũ uẩn)
  • Danh và sắc chỉ tụ hội với nhau trong một thời gian ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái khác. Cho nên, không có cái tôi (vô ngã). Bản chất tồn tại của thế giới là một dòng biến chuyển liên tục (vô thường), không thể tìm ra nguyên nhân đầu tiên và không thể có cái vĩnh hằng. 
  • Thế giới (sự vật và hiện tượng) luôn biến đổi theo chu trình: Sinh - Trụ - Di - Diệt (hoặc: Thành - Trụ - Hoại - Không) theo luật nhân quả. Khái niệm “Duyên” của Phật giáo được coi vừa là kết quả (quá trình cũ) và là nguyên nhân (quá trình mới). 

Nhân sinh quan 

  • Phật giáo bác bỏ Brahman(Thần sáng tạo) và Atman(cái tôi) nhưng lại tiếp thu tư tưởng luân hồi và nghiệp của Upanisad. Mục đích cuối cùng của Phật giáo là tìm ra con đường giải thoát đưa chúng sinh ra khỏi vòng luân hồi bất tận. Để đi tới giải thoát, Phật nêu lên "Tứ Diệu đế" tức là bốn chân lý tuyệt diệu, thiêng liêng mà mọi người phải nhận thức được. 

Phật giáo Việt Nam 

  • Phật giáo truyền vào Việt Nam khoảng thế kỷ đầu công nguyên đến nay đã hơn 2000 năm. Phật giáo đã tạo ra tín ngưỡng, văn hoá, phong tục tập quán cho đến nhân sinh quan từ tư tưởng đến tình cảm của con người Việt Nam. Đã có thời kỳ Phật giáo tồn tại song song với Khổng giáo, Lão giáo tạo thành thế giới quan của người Việt. Ngày nay đã khác Nho giáo và Lão giáo còn chăng chỉ tồn tại như một tàn dư. Nhưng Phật giáo với tính cách là một tín ngưỡng, một tôn giáo dân tộc vẫn còn tồn tại, nó có nguyên nhân về mặt lịch sử và những điều kiện xã hội, nhận thức về Phật giáo. 
  • Ngày nay khi nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam và đánh giá về vai trò của Phật giáo Việt Nam có nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng sự hình thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam không thể tách rời một quá trình từ một tôn giáo ngoại lai đến bản địa, từ một vùng đến nhiều vùng, từ một số ít người tin theo đến đại đa số mọi người trong nước ngưỡng mộ, từ thô sơ, đơn giản đến sâu sắc và bề thế. Nó cũng trải qua nhiều thăng trầm của những biến cố lịch sử, nhưng Phật giáo đã ảnh hưởng trực tiếp đến nền văn hoá truyền thốngcủa người Việt trong quan niệm về cái vô thường, vô ngã, thuyết nhân quả, tư tưởng từ bi bác ái, v.v... 
  • Sự truyền bá Phật giáo vào Việt Nam là cả một quá trình lâu dài về mặt lịch sử, nhưng lúc đầu trực tiếp từ Ấn Độ sang từ hướng Tây nam sau đó thay thế từ hướng Bắc xuống. Do đó, các Tông phái Thiền tông ở Trung Quốc lần lượt được đưa vào Việt Nam. Việc du nhập diễn ra với nhiều hướng khác nhau, nhiều thời điểm khác nhau, nhiều tông phái khác nhau, tình hình đó đã để lại dấu ấn trong các giai đoạn phát triển của phật giáo Việt Nam. Rõ ràng, đó là một trong những cơ sở tạo nên nét đặc thù của Phật giáo Việt Nam. 

Vị trí của phật giáo trong văn hoá tinh thần truyền thống Việt Nam 

  • Văn hoá tinh thần truyền thống bao gồm: Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng ngước và giữ nước, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, tính lạc quan yêu đờ, tính cần cù dũng cảm, v.v… 
  • Phật giáo: Tư tưởng vị tha(tự tha), từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, tương thân, tương ái. Nếp sống trong sạch, giản dị chăm lo làm điều thiện, v.v…Về tinh thần nhân đạo trong mọi quan hệ người với người, đậm nét nhất là sắc thái tình nghĩa. Tình, ở đây là tình thương, lòng yêu thương nhau trong khổ đau, hoạn nạn theo triết lý nhân sinh phật giáo. 
  • Nhân bản luận phật giáo có một vị trí đặc biệt trong văn hoá tinh thần truyền thống Việt Nam với các giá trị tư tưởng tôn giáo – triết học – đạo đức dân tộc. Các giá trị tư tưởng này đươc thể hiện rất đa dạng thành các giá trị văn học, nghệ thuật, quan niệm sống, lối sống, đạo lý làm phong phú thêm văn hoá truyền thống của người Việt. Đó là các giá trị đề cao tính nội tâm, hướng nội của con người… chẳng hạn, lối sống nội tâm như tư tượng tự tha (chấp ngã – vô ngã) đến vị tha bởi sự hướng thiện qua dưỡng sinh, thơ thiền, tranh thiền, thư pháp, trà đạo, hoa đạo, vô đạo… được đánh giá như những đóng góp độc đáo của phật giáo vào văn hoá tinh thần tuyền thống Việt nam. 
  • Tư tưởng ở “hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”, “không ai giàu ba họ không ai khó ba đời”, v.v… cho đến việc hình thành những phong tục tập quán về việc thờ cúng tổ tiên kết hợp với tín ngưỡng phật giáo trong tín ngưỡng dân gian người Việt cũng là một nét đẹp của văn hoá cổ truyền… 
  • Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, việc xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và làm cho hệ tư tưởng - văn hoá có thể bảo tồn, phát huy và hoàn thiện các giá trị tuyền thống, không thể không tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại và góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá của nhân loại. Đồng thời phải kiên quyết đấu tranh sự xâm nhập của văn hoá độc hại, của các giá trị ngoại lai phản tiến bộ. Và chỉ trên cơ sở đó, các giá trị nhân bản tiến bộ của phật giáo mới có thể giữ gìn và phát huy với tư cách những nét độc đáo so với các giá trị văn hoá khác trong tuyền thống văn hoá tinh thần Việt nam.

Câu 6: Cuộc đấu tranh giữa triết học duy vật và triết học duy tâm trong triết học Trung Hoa cổ đại?

Những biểu tượng tôn giáo và triết học đã xuất hiện rất sớm ở xã hội Trung Hoa cổ đại. Đó là các biểu tượng về "Đế", "Thượng đế", "Thiên mệnh" và "Quỷ thần", "Âm dương", "Ngũ hành". Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm cũng diễn ra xung quanh những biểu tượng đó. Và cuộc đấu tranh đó chủ yếu diễn ra xung quanh các vấn đề khởi nguyên của thế giới, vấn đề cơ bản của triết học, vấn đề con người, đạo đức, tri thức và biến dịch. 

Vấn đề khởi nguyên của thế giới và vấn đề cơ bản của triết học 

  • Chủ nghĩa duy tâm cho rằng thế giới bên ngoài là do Trời, Thượng đế sáng tạo. Con người cũng do Trời sinh ra và quyết định số phận của họ. Nguợc lại, chủ nghĩa duy vật chorằng vạn vật trong thế giới do "ngũ hành" hoặc do âm dương giao cảm tạo nên trời đất và vạn vật. 
  • Vấn đề cơ bản của triết học được giải quyết qua các việc giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa các phạm trù: " Hình" và "Thần"; "Tâm" và "Vật"; "Lý" và "Khí". Các nhà duy vật cho rằng "Hình" có trước "Thần"; "Vật" có trước "Tâm"; "Khí" có trước "Lý"; "Thần" phải dựa vào "Hình", "Tâm" phải dựa vào "Vật", "Lý" phải dựa vào "Khí". Các nhà duy tâm cho rằng "Thần" có trước "Hình". "Tâm" có trước "Vật", "Lý" có trước "Khí", "Hình" phụ thuộc vào "Thần", "Vật" phụ thuộc vào "Tâm", "Khí" phụ thuộc vào "Lý". 

Vấn đề con người, đạo đức và tri thức 

  • Vấn đề tính người và số phận của con người là vấn đề nổi bật nhất trong lịch sử triết học Trung Hoa Cổ đại. Về nguồn gốc và khả năng nhận thức của con người(tính người) theo chủ nghĩa duy vật thì con người có nguồn gốc từ "Ngũ hành", tư tưởng, tình cảm và tâm lý của con người là do hoàn cảnh bên ngoài sinh ra. Chủ nghĩa duy tâm thì ngược lại, con người là do Trời sinh ra, tư tưởng, tình cảm, tâm lý (tính người)phụ thuộc vào Trời. Về số phận con người các nhà duy tâm gắn liền với mệnh trời; với số kiếp. Còn các nhà duy vật thì cho rằng Trời là giới tự nhiên, đạo trời và mệnh trời là do sự vận hành có tính qui luật của giới tự nhiên không liên quan gì đến số mệnh của con người. 
  • Những phạm trù đạo đức như: Nhân - Lễ - Nghĩa được các nhà triết học đặc biệt chú ý. Lễ đóng vai trò quan trọng nhất trong đời sống đạo đức và đời sống chính trị. Trong quan hệ giữa lễ và nhân, nhân được coi là nền, là nội dung, lễ là hình thức là biểu hiện của nhân. 
  • Nghĩa là lẽ phải, là hành động đúng của đạo lý. Nhân - Lễ - Nghĩa có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc sống của con người và xã hội. 
  • Vấn đề tri thức bàn về khả năng nhận thức của các hạng người của xã hội: Thánh nhân - phàm nhân, thượng trí - hạ ngu; người quân tử - tiểu nhân. Các nhà duy tâm cho rằng chỉ có bậc thánh nhân thượng trí sinh ra đã biết (có thể thấu hiểu việc trời đất) còn kẻ phàm nhân, hạ ngu dù có học cũng không biết được. Các nhà duy vật thì cho rằng ai cũng phải học mới có sự hiểu biết. Cho nên, phàm là thánh nhân hay phàm nhân đều phải học. Hạn chế chung của triết học Trung Hoa cổ đại trong vấn đề nhận thức là không lấy giới tự nhiên là đối tượng nghiên cứu, vì vậy nhận thức luận của họ không trở thành công cụ đắc lực, khám phá và cải tạo giới tự nhiên. 

Phép biện chứng về biến dịch 

  • Trong "Dịch học" các nhà biện chứng Trung Hoa cổ đại đều cho rằng trời, đất, vạn vật luôn ở trong quá trình biến đổi không ngừng và có tính qui luật. Nguyên nhân của mọi sự biến hóa là do sự giao cảm của âm dương, nước, lửa, đất, trời. Tất cả sự sinh - hóa của vạn vật trong vũ trụ đều nằm trong chữ dịch mà ra. Trời trên đất dưới, sáng tối phân biệt, nam nữ khác nhau đó là bất dịch, để tồn tại và trường tồn luôn có sự trao đổi giữa hai phái đối nhau (âm dương) đó là giao dịch, sau khi giao nhau nảy sinh ra cái mới đó là biến dịch. Vậy chữ dịch bao gồm: bất dịch (không thay đổi), giao dịch (trao đổi lẫn nhau) và biến dịch (biến đổi). 
  • Trong đó biến dịch đóng vai trò quan trọng nhất, vì cốt yếu của dịch là sự biến đổi không ngừng của vạn vật. Xã hội cũng biến đổi theo qui luật của tự nhiên; tuy nhiên sự hạn chế thiếu sót của quan niệm biện chứng sơ khai trong triết học Trung Hoa Cổ đại là thừa nhận biến đổi có tính chất tuần hoàn theo chu kỳ khép kín không có sự phát triển. 

Câu 7: Trình bày nội dung cơ bản những tư tưởng triết học Aâm dương – Ngũ hành? 

Âm Dương – Ngũ hành là hai phạm trù cơ bản trong tư tưởng triết học trung Hoa cổ đại, là những khái niệm có tính khái quát, trừu tượng đầu tiên trong quan niệm của cổ nhân về sự sản sinh, biến hoá của vũ trụ. Đây cũng là một bước tiến bộ hình thành quan niệm duy vật và biện biện chứng về vũ trụ của người trung Hoa cổ đại, nhằm thoát khỏi sự khống chế về tư tưởng do các quan niệm Thượng đế, Qủy thần truyền thống đem lại. 

Học thuyết  Âm - Dương 

  • “Dương”, nguyên nghĩa là ánh sáng mặt trời, hay những gì thuộc về ánh sáng mặt trời và ánh sáng, “ Âm”, có nghĩa là thiếu ánh sáng mặt trời, tức là bóng râm hay bóng tối. Về sau,  Âm – Dương được coi như hai khí; hai nguyên lý hay hai thế lực(thái cực) của vũ trụ: biểu thị giống đực, hoạt động hơi nóng, ánh sáng, khôn ngoan, rắn rỏi, v.v… tức là Dương; giống cái, thụ động, khí lạnh, bóng tối, ẩm ướt, mền mỏng, v.v… tức là  Âm. Chính do sự tác động qua lại giữa chúng là nguồn gốc của vạn vật. Trong Kinh dịch sau này có bổ sung thêm lịch trình biến hoá của vũ trụ có khởi điểm là Thái cực. Từ Thái cực mà sinh ra Lưỡng nghi (Âm – Dương), rồi Tứ tượng, rồi Bát quái. Vậy, nguồn gốc của vũ trụ là Thái cục chứ không phải  Âm – Dương. Đa số các học giả về sau đều cho rằng Thái cực là thứ khí “Tiên Thiên”, trong đó tiềm phục hai yếu tố ngược nhau về tính chất là  Âm – Dương. Đây là một quan niệm tiến bộ so với quan niệm Thượng đế làm chủ vũ trụ của các các quan niệm cổ xưa về nguồn gốc về vũ trụ. 
  • Hai thế lực  Âm – Dương không tồn tại biệt lập mà thống nhất, ước chế lẫn nhau như một một mâu thuẫn theo các nguyên lý sau: 
    • (Âm – Dương thống nhất thành Thái cực. Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn, tính chỉnh thể, cân bằng của cái đa dạng của cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi trong sự biến dịch trong vũ trụ. 
    • Trong  Âm có Dương và nguợc lại. Nguyên lý này không chỉ nói lên sự thống nhất  Âm - Dương, mà trong sự thống nhất đó là sự dấu tranh của những mặt đối lập của mâu thuẫn trong sự biến đổi của  Âm – dương của Thái cực. 
  • Các nguyên lý trên được khái quát bằng vòng tròn khép kín, có hai hình đen trắng tượng trưng cho  Âm – Dương, hai hình này tuy cách biệt nhau, đối lập nhưng ôm lấy nhau, xoắn lấy nhau. Điều đặc biệt, chỗ hình đen phồng ra có một điểm trắng, và ngược lại chỗ hình trắng phồng ra cũng có một điểm đen; chỗ hình đen phồng ra là chỗ hình trắng thót lại, còn chỗ hình trắng phồng ra thì hình đen thót lại. Hình đó diễn tả:  Âm thịnh dần và Duương suy dần, ngược lại Dương thịnh dần và  Âm suy dần; khi  Âm cực thịnh đã có một mần dương(điểm sáng) xuất hiện rồi, khi Dương cực thịnh cũng có một mần âm(điểm đen) xuất hiện.
  • Để giải thích lịch trình biến hoá trong vũ trụ, người Trung Hoa cổ đại đã khái quát cái lôgíc tất định: Thái cực sinh Lưỡng nghi ( Âm – Dương), Lưỡng nghi sinh Tứ tượng [Thái Dương – Thiếu  Âm – Thiếu Dương – Thiếu  Âm – Thái  Âm] và Tứ tượng sinh Bát quái [càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài], Bái quát sinh ra vạn vật (vô cùng, vô tận).Tư tuởng triết học  Âm – Dương đạt tới mức hệ thống hoàn chỉnh trong tác phẩm Kinh dịch. Tinh hoa của Kinh dịch là Dịch, Tượng, Từ với nguyên lý  Âm- Dương. Trong đó, “Dịch” là biến hoá của vạn vật. Quy luật biến hoá ấy là từ không rõ ràng → rõ ràng → sâu sắc → kịch liệt → cao điểm → mặt trái. “Tượng” chỉ biến dịch của vạn vật biểu hiện qua các quẻ. Tám quẻ, ba vạch tượng trưng cho ý nghĩa nào đó về sự vật, hiện tượng gọi là “Tượng”. “Từ” là biểu thị “Tượng” về phương diện lành hay dữ, động hay tĩnh. Nguyên lý  Âm – Dương coi sự giao cảm biến hoá của  Âm – Dương trong Thái cực là nguyên nhân căn bản tạo nên biến hoá trong vũ trụ. 

Học thuyết Ngũ hành 

  • Từ “Ngũ hành” được dịch là năm yếu tố: Kim – Mộc – Thủy – Hoả – Thổ. Song chúng ta không nên coi đó là những yếu tố tĩnh mà là năm thế lực động có tác động qua lạilẫn nhau: Kim ⇔ Mộc ⇔ Thủy ⇔ Hoả ⇔ Thổ. Từ “Hành” có nghĩa là làm, “hoạt động”, cho nên từ “ Ngũ hành” theo nghĩa đen là năm hoạt động, hay năm tác nhân.
  • Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng phân tích cấu trúc của vạn vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau, nhưng tương tác với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim – Mộc – Thủy – Hoả – Thổ, trong đó Kim tượng trưng cho tính chất trắng, khô, cay, phía Tây, v.v… Thủy tượng trưng cho tính chất đen, mặn, phía Bắc, v.v… Mộc tượng trưng cho tính chất xanh, chua phía Đông, v.v… Hoả tượng trưng cho tính chất đỏ, đắng, phía Nam, v.v… Thổ tượng trưng cho tính chất vằng, ngọt, ở giữa, v.v… 
  • Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh hưởng Sinh – Khắc với nhau theo các nguyên tắc sau đây: 
    • Tương sinh (sinh hoá cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc, Mộc sinh hoả, Hoả sinh Thổ, v.v…
    • “Ngũ hành tương sinh” là quá trình các yếu tố tác động, chuyển hoá cho nhau, tạo ra sự biến chuyển liên hoàn trong vũ trụ, vạn vật. Đất sinh ra các thể rắn biến thành kim loại. Kim loại nóng chảy sinh ra nước. Thủy là nguồn gốc của sự sống của gỗ. Gỗ cháy sinh ra lữa. Lửa thiêu cháy mọi sinh vật sinh ra đất, v.v… 
    • Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc, và Mộc khắc Thổ, v.v…
    • “Ngũ hành tương khắc” là quá trình các yếu tố ngũ hành đối lập, tạo ra sự ràng buộc chế ước lẫn nhau giữa chúng. Thủy khắc Hoả vì nước lạnh làm hạ nhiệt và dập tắt lửa. Hoả khắc Kim vì lửa làm nóng chảy, biến dạng kim loại và các thể rắn. Kim khắc Mộc vì vì kim khí có thể cưa, chặt cây cối. Mộc khắc Thổ vì rễ cây ăn sâu vào đất, v.v… 
  •  Thuyết  Âm – Dương và Ngũ hành kết hợp với nhau làm một vào thời Xuân thu Chiến quốc. Các nhà  Âm Dương gia, Ngũ hành dùng các nguyên tắc Tương sinh – Tương khắc của Ngũ hành để giải thích vạn vật và từ đó phát sinh ra ra quan niệm duy tâm về “Ngũ đức”. Từ đó về sau, các nhà thống trị có ý thức phát triển thuyết  Âm – Dương, Ngũ hành biến thành một triết lý Thần học, chẳng hạn như thuyết “Thiên nhân cảm ứng” của Đổng Trọng Thư, hoặc “Phụng mệnh trời” của các triều đại sau đời Hán.

 

{-- Xem đầy đủ nội dung tại Xem online hoặc Tải về--}

Trên đây là trích dẫn một phần 20 Câu hỏi tự luận môn Triết học có gợi ý trả lời, để xem đầy đủ nội dung đề thi và đáp án chi tiết các em vui lòng đăng nhập website Chúng tôi chọn Xem online hoặc Tải về máy tính. Chúc các em học tốt và thực hành hiệu quả!

Tham khảo thêm

Bình luận

Có Thể Bạn Quan Tâm ?