ĐỀ CƯƠNG ÔN THI MÔN TRIẾT HỌC CÓ ĐÁP ÁN
ĐH NGUYỄN TẤT THÀNH
Câu 1: Nêu định nghĩa vật chất và phân tích nội dung định nghĩa vật chất của Lênin? Cho biết ý nghĩa của định nghĩa này. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
Định nghĩa vật chất của Lênin:
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Nội dung định nghĩa vật chất của Lênin:
- Vật chất là một phạm trù triết học: Vật chất không tồn tại cảm tính, nghĩa là không đồng nhất với các dạng tồn tại cụ thể; vật chất là cái vô sinh, vô diệt còn vật thể là cái có sinh có diệt, do đó, không thể đồng nhất vật chất với vật thể.
- Vật chất là phạm trù dùng để chỉ thực tại khách quan: Vật chất là tất cả những gì tồn tại khách quan, tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác, đây là tiêu chuẩn để phân biệt cái vật chất với cái không phải là vật chất (ý thức).
- Vật chất là cái được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chụp lại, chép lại và phản ánh. Khi vật chất tác động vào giác quan thì gây nên cảm giác, điều đó cũng có nghĩa là vật chất có trước và con người có khả năng nhận thức được thế giới.
Ý nghĩa định nghĩa vật chất của Lênin:
- Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác, V.I.Lênin đã thừa nhận rằng, trong nhận thức luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức.
- Khi khẳng định vận chất là cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, V.I.Lênin muốn nhấn mạnh rằng con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã bác bỏ những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết “không thể biết”; đồng thời cũng khắc phục được những khiếm khuyết trong quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất.
- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin còn có ý nghĩa định hướng đối với các khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hay các hình thức mới của vật chất trong thế giới.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
- Vật chất quyết định ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức thể hiện ở những nội dung sau: Vật chất là tiền đề, nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại, phát triển của ý thức.
- Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó.
- Vật chất phát triển đến đâu thì ý thức hình thành và phát triển đến đó.
- Vật chất biến đổi thì ý thức biến đổi theo.
Như vậy, vật chất quyết định cả nội dung và khuynh hướng vận động, phát triển của ý thức. Vật chất cũng còn là điều kiện, môi trường để hiện thực hoá ý thức, tư tưởng.
- Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất
Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập tương đối nên có sự tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Sự tác động này thể hiện ở chỗ: Nó chỉ đạo hoạt động của con người, hình thành mục tiêu, kế hoạch, ý chí, biện pháp cho hoạt động của con người. Ở đây, ý thức, tư tưởng có thể quyết định cho con người hoạt động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định.
Ý nghĩa phương pháp luận về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
- Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải:
- Nếu vật chất quyết định ý thức thì trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Đồng thời phải khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí.
- Nếu ý thức có thể tác động ngược trở lại vật chất thì trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn con người phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan. Đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại, ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay.
Câu 2: Trình bày nội dung hai nguyên lý cơ bản của pháp biện chứng duy vật. Nêu ý nghĩa phương pháp luận.
Nội dung hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Mối liên hệ: Là sự phụ thuộc vào nhau, ràng buộc lẫn nhau, quy định lẫn nhau, là tiền đề, là điều kiện tồn tại cho nhau giữa các yếu tố trong cùng một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
- Mối liên hệ phổ biến: Triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng các sự vật trong thế giới khách quan vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau. Cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật hiện tượng chính là tính thống nhất vật chất của thế giới.
- Tính chất của mối liên hệ
- Tính khách quan của các mối liên hệ nghĩa là các mối liên hệ tồn tại một cách khách quan, không phụ thuộc ý thức của con người.
- Tính phổ biến của các mối liên hệ nghĩa là các mối liên hệ tồn tại một cách phổ biến: Ở đâu cũng có mối liên hệ, không gian, thời gian nào cũng có các mối liên hệ
- Tính đa dạng, phong phú, riêng biệt của các mối liên hệ thể hiện ở chỗ các mối liên hệ vô cùng phong phú, đa dạng, không mối liên hệ nào giống mối liên hệ nào (có mối liên hệ bên trong, có mối liên hệ bên ngoài; có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp; có mối liên hệ tất nhiên, có mối liên hệ ngẫu nhiên…)
Ý nghĩa phương pháp luận
- Xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng, trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn cần phải quán triệt quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể.
- Quan điểm toàn diện đòi hỏi để nhận thức đúng sự vật, chúng ta phải xem xét sự vật đó, một la, trong mối liên hệ tác động qua lai giữa các bộ phận, các yếu tố, thuộc tính khác nhau của chính sự vật đó; hai là, trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác. Đặc biệt, phải làm rõ đâu là mối liên hệ cơ bản nhất, quan trọng nhất của sự vật hiện tượng; đồng thời, phải chống lại quan điểm phiến diện, chủ nghĩa chiết trung và ngụy biện…
- Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta phải chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử - cụ thể đã làm phát sinh ra vấn đề đó, chú ý tới sự ra đời và phát triển của sự vật đó
Nguyên lý về sự phát triển
- Các quan điểm trước Mác về sự phát triển
- Quan điểm siêu hình: Xem phát triển chỉ là sự tăng lên đơn thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi về chất hoặc nếu có thì họ cho rằng sự phát triển cũng chỉ diễn ra theo một vòng tròn khép kín, xem phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co, phức tạp.
- Quan điểm duy tâm thừa nhận sự phát triển nhưng lại cho rằng nguồn gốc của sự phát triển ở tinh thần hay ý thức của con người.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về sự phát triển:
- Triết học Mác – Lênin cho rằng sự phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đế phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng tắp, cũng không diễn ra theo vòng tròn khép kín mà nó diễn ra theo đường xoáy ốc với những bước quanh co, phức tạp, trong đó có thể có những bước lùi tạm thời.
- Sự phát triển không đồng nghĩa với vận động, phát triển là một trường hợp đặc biệt của vận động. Vận động diễn ra theo nhiều khuynh hướng, còn phát triển phản ánh một khuynh hướng của vận động đó là vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Tính chất của sự phát triển: Triết học Mác – Lênin khẳng định rằng sự phát triển của sự vật mang tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng, phong phú, riêng biệt.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Xuất phát từ nguyên lý về sự phát triển, trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải quán triệt quan điểm phát triển. Quan điểm phát triển đòi hỏi khi xem xét sự vật hiện tượng phải đặt sự vật, hiện tượng đó trong sự vận động phát triển, phát hiện ra xu hướng biến đổi của chúng, kiên quyết đấu tranh chống quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
- Mặt khác, trong quá trình phát triển, sự vật thường đồng thời có sự biến đổi đi lên và có cả những biến đổi thụt lùi; vì thế, quán triệt quan điểm phát triển còn cần phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của sự vật; đồng thời phải thấy rõ tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như là một hiện tượng phổ biến.
Câu 3: Quy luật là gì? Trình bày nội dung cơ bản của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn) và nêu ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này?
Phạm trù quy luật:
- Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến được lặp đi lặp lại giữa các mặt, các yếu tố trong cùng một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
- Phân loại quy luật: Có hai loại quy luật: Quy luật tự nhiên và quy luật xã hội.
- Giống nhau: Quy luật tự nhiên và quy luật xã hội đều là những quy luật khách quan của thế giới vật chất. Chúng đều là những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, tương đối ổn định, lặp đi lặp lại.
- Khác nhau:
- Quy luật tự nhiên: Hình thành trước quy luật xã hội, nó diễn ra một cách tự phát thông qua sự tác động của các lực lượng tự nhiên. Nó tồn tại vĩnh viễn.
- Quy luật xã hội: Hình thành sau quy luật tự nhiên, được hình thành và tác động thông qua hoạt động của con người. Nó là sản phẩm khách quan của chính hoạt động đó. Quy luật của xã hội vừa là tiền đề vừa là kết quả hoạt động của con người. Quy luật xã hội mang tính thời đoạn
Nội dung cơ bản của quy luật mâu thuẫn:
- Vị trí: Đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật mâu thuẫn vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Mặt đối lập: Là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khác nhau trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
- Mâu thuẫn: Cứ hai mặt đối lập hình thành một mâu thuẫn, đề cập đến mâu thuẫn là đề cập đến mối quan hệ biện chứng giữa các mặt đối lập.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập: Là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
- Đấu tranh giữa các mặt đối lập: Là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
- Mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
- Các mặt đối lập vừa có mối quan hệ thống nhất lẫn nhau, vừa đấu tranh theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau. Sự thống nhất có mối quan hệ hữu cơ với sự đúng im tương đối, sự đấu tranh có mối quan hệ với sự vận động tuyệt đối của sự vật, hiện tượng.
Tóm lại:
- Sự vật nào cũng là thể thống nhất của các mặt đối lập.
- Các mặt đối lập của mỗi sự vật vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
- Đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
- Đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối, thống nhất chỉ là tương đối.
Phân loại mâu thuẫn:
- Mâu thuẫn bên trong
- Mâu thuẫn bên ngoài
- Mâu thuẫn cơ bản
- Mâu thuẫn không cơ bản
- Mâu thuẫn đối kháng
- Mâu thuẫn không đối kháng
- Mâu thuẫn chủ yếu
- Mâu thuẫn thứ yếu
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì mâu thuẫn là cái khách quan vốn có của sự vật, là nguồn gốc động lực bên trong của sự phát triển, do vậy, nghiên cứu sự vật phải nghiên cứu những mâu thuẫn của nó: Mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn không cơ bản, mâu thuẫn đối kháng….
- Vì mâu thuẫn mang tính chất đa dang, phong phú, riêng biệt nên ta phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết mâu thuẫn. Trong một sự vật, một quá trình có nhiều mâu thuẫn và mỗi mâu thuẫn lại có vị trí vai trò khác nhau... nên khi nghiên cứu và giải quyết mâu thuẫn phải biết phân loại mâu thuẫn để có những phương thức, những biện pháp, những phương tiện, những lực lượng để giải quyết mâu thuẫn.
- Giải quyết mâu thuẫn phải theo phương thức đấu tranh giữa các mặt đối lập, chứ không theo hướng dung hòa các mặt đối lập.
Câu 4: Trình bày nội dung và sự thống nhất biện chứng hai giai đoạn của quá trình nhận thức.
Quá trình nhận thức của con người phát triển qua hai giai đoạn: Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.
- Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính): Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động, phong phú các sự vật khách quan bằng các giác quan của con người. Nó được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản là: Cảm giác, tri giác, biểu tượng.
- Cảm giác: Là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài của sự vật khi các sự vật đó tác động trực tiếp vào các giác quan của con người.
- Tri giác: Là sự phản ánh tổng hợp nhiều cảm giác, nó đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn về sự vật.
- Biểu tượng: Là hình ảnh về sự vật được giữ lại trong trí nhớ một cách khái quát khi không còn trực tiếp tiếp xúc với sự vật.
- Đặc điểm của nhận thức cảm tính là sự phản ánh trực tiếp, sinh động, phong phú, nhưng đó là sự phản ánh bề ngoài của sự vật.
- Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính): Là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức. Đó là sự phản ánh gián tiếp và khái quát hiện thực khách quan. Nó được thể hiện ở các hình thức như: Khái niệm, phán đoán, suy lý.
- Khái niệm: Là hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của một lớp các sự vật hiện tượng.
- Phán đoán: Là hình thức của tư duy trừu tượng, vận dụng các khái niệm đã có để khẳng định hay phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan.
- Suy lý: Là hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ một hay nhiều phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết luận.
- Đặc điểm của nhận thức lý tính là sự phản ánh gián tiếp, trừu tượng, khái quát. Đó là sự phản ánh bản chất, quy luật của sự vật.
Sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn khác nhau về chất, có đặc điểm và vai trò khác nhau trong việc nhận thức sự vật khách quan. Tuy nhiên chúng lại thống nhất biện chứng với nhau, liên hệ, tác động, bổ sung cho nhau, không tách rời nhau. Nhận thức cảm tính là cơ sở, tiền đề và điều kiện của nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính không thể thực hiện được nếu thiếu những tri thức do nhận thức cảm tính mang lại. Trái lại, nhận thức cảm tính mà không có nhận thức lý tính thì không thể nắm bắt được bản chất và quy luật của sự vật.
- Tóm lại, có thể khẳng định: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý khách quan.
Câu 5: Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Cho ví dụ.
Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
- Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Thực tiễn gồm có những dạng cơ bản sau đây:
- Hoạt động sản xuất vật chất
- Hoạt động chính trị – xã hội
- Hoạt động thực nghiệm khoa học
- Trong đó:
- Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động đầu tiên, cơ bản nhất . Nó tồn tại cùng với quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài người, là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên.
- Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của cộng đồng người nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội theo hướng tiến bộ.
- Hoạt động thực nghiệm khoa học là quá trình mô phỏng hiện thực khách quan dưới hình thức thu nhỏ để chứng minh giả thuyết, những kết luận để hình thành chân lý hay để đề xuất chân lý.
- Mỗi hình thức của hoạt động thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau, không thể thay thế cho nhau, song chúng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Trong ba dạng cơ bản trên, hoạt động sản xuất vật chất giữa vai trò quyết định, hai dạng hoạt động còn lại cũng có sự tác động trở lại hoạt động sản xuất vật chất.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức thể hiện ở chỗ: Thực tiễn là điểm xuất phát để nhận thức. Con người có nhu cầu tất yếu khách quan là phải giải thích thế giới, cải tạo thế giới nên con người phải tác động vào sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho sự vật bộc lộ những thuộc tính, những mối quan hệ. Xét đến cùng mọi tri thức của con người xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Chính thực tiễn đã cung cấp những tài liệu cho nhận thức, lý luận.
- Thực tiễn là động lực của nhận thức thể hiện ở chỗ: Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng cho nhận thức phát triển. Khi những tri thức, những kết quả của nhận thức được vận dụng làm phương pháp chung cho hoạt động thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người, càng kích thích con người tích cực bám sát vào hoạt động thực tiễn.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức thể hiện ở chỗ: Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân tri thức mà để cải tạo hiện thực khách quan. Thế nên nhận thức của con người phải quay về phục vụ thực tiễn, kết quả nhận thức phải hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
- Để kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức, ngoài tiêu chuẩn thực tiễn ra không có tiêu chuẩn nào khác. Nói cách khác chỉ có đem tri thức thu được áp dụng vào trong thực tiễn mới thấy được tính đúng đắn của tri thức.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, những tri thức đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức nhân loại, những kết luận chưa phù hợp với thực tiễn sẽ được tiếp tục bổ sung, điều chỉnh và nhận thức lại. Giá trị của tri thức nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, tổng kết thực tiễn. Hoạt động thực tiễn càng phong phú và đa dạng thì tri thức sẽ càng đầy đủ và đa dạng hơn.
- Đồng thời, lý luận phải đi đôi với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu lý luận mà không gắn với thực tiễn thì đó chỉ là lý luận suông, thực tiễn mà không gắn với lý luận sẽ trở thành thực tiễn mù quáng. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc…Nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn thì sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa kinh nghiệm, thế nên cần phải thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Câu 6: Vì sao môi trường tự nhiên là điều kiện vật chất của đời sống xã hội? Vì sao vấn đề bảo vệ môi sinh hiện nay mang tính toàn cầu cấp bách? Đảng, Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách cụ thể về vấn đề này như thế nào? Bản thân anh, chị cần làm gì để bảo vệ môi trường sinh thái?
Môi trường tự nhiên là điều kiện vật chất của đời sống xã hội bởi vì:
- Môi trường là nơi sinh sống và hoạt động của con người, là nơi tồn tại của xã hội. Giữa xã hội và tự nhiên thường xuyên diễn ra sự trao đổi vật chất. Sự trao đổi đó được thực hiện trong quá trình lao động sản xuất. Điều kiện tự nhiên là yếu tố thường xuyên, tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển xã hội tuy nó không phải là yếi tố quyết định chính sự phát triển của xã hội.
- Điều kiện tự nhiên như đất đai, sông, biển, khí hậu có thể tạo những thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất, cho đời sống sinh hoạt hàng ngày của con người. Mặc dù vậy nó vẫn không giữ vai trò quyết định sự phát triển xã hội. Bản thân xã hội là một hệ thống khác về chất so với giới tự nhiên. Nó có quy luật vận động và phát triển riêng của nó. Tự nhiên tác động vào xã hội hoàn toàn mang tính tự phát, còn xã hội tác động vào tự nhiên, bao giờ cũng thông qua hoạt động có ý thức của con người. Sự tác động đó có thể diễn ra theo hai hướng: làm cho nó tốt lên hoặc xấu đi.
Vấn đề bảo vệ môi sinh hiện nay mang tính toàn cầu cấp bách vì:
- Ngày nay bảo vệ môi sinh là vấn đề có tính toàn cầu cấp bách, nhằm bảo vệ loài người thoát khỏi những hậu quả do chính mình gây ra.
- Việc bảo vệ và sử dụng môi trường thiên nhiên một cách thông minh, khôn ngoan trong phạm vi mỗi nước và trên toàn cầu trở thành một vấn đề sống còn đối với loài người.
- Ở Việt Nam, gần một thế kỷ sống dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và trải qua hơn ba mươi năm chiến tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, môi trường tư nhiên bị phá hoại nghiêm trọng: Hàng trăm kilômét vuông rừng tự nhiên và đất canh tác bị chất độc hoá học huỷ diệt và bom đạn cày xới; tình trạng ô nhiễm đất, nước, không khí có nơi đến mức báo động nghiêm trọng…
Trước vấn đề này chủ trương, chính sách, biện pháp cụ thể của Đảng ta được thể hiện như sau:
- Áp dụng các biện pháp mạnh mẽ để ngăn chặn các hành vi huỷ hoại hoặc gây ô nhiễm môi trường, từng bước khắc phục tình trạng xuống cấp, cải thiện chất lượng môi trường, tập trung khắc phục nạn cháy rừng, ô nhiễm các lưu vực sông, các đô thị và khu công nghiệp, các làng nghề, nơi có đông dân cư và các hoạt động kinh tế
- Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hoá với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững
- Tăng cường quản lý, bảo đảm khai thác tài nguyên hợp lý và tiết kiệm, xây dựng và thực hiện nghiêm các quy định về phục hồi môi trường, các khu khai thác khoáng sản và các hệ sinh thái đã bị xâm phạm, bảo đảm cân bằng sinh thái.
- Nhà nước tăng cường đầu tư và đổi mới chính sách để thu hút đầu tư xã hội vào lĩnh vực môi trường; trước hết là hoạt động thu gom, xử lý và tái chế chất thải. Phát triển và ứng dụng công nghệ sạch hoặc công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường.
- Hoàn chỉnh pháp luật, tăng cường quản lý nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức và trách nhiệm của mọi người dân, của toàn xã hội đối với phòng ngừa ô nhiễm, bảo vệ và cải thiệm môi trường. Thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải xử lý ô nhiễm, hoặc phải chi trả cho việc xử lý ô nhiễm.
- Từng bước hiện đại hoá công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng thuỷ văn, chủ động phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.
- Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên; chú trọng quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.
- Như vậy, ngày nay việc bảo vệ môi trường là vấn đề mang tính toàn cầu cấp bách nhằm bảo vệ loài người thoát khỏi những hậu quả do chính mình gây ra. Điều đó phải được tiến hành theo chương trình, kế hoạch thống nhất không chỉ trong phạm vi quốc gia, châu lục mà toàn thế giới nhằm phục vụ tốt nhất cuộc sống con người.
Học sinh, sinh viên tự liên hệ (Bản thân anh, chị cần làm gì để bảo vệ môi trường sinh thái?)
Câu 7: Trình bày nội dung cơ bản của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Khái niệm và cấu trúc của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
- Phương thức sản xuất: Là cách thức tiến hành sản xuất của cải vật chất trong một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức sản xuất là mối quan hệ kép, là sự thống nhất hai mối quan hệ: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Lực lượng sản xuất: Là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, là trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là mặt tự nhiên của phương thức sản xuất.
- Lực lượng sản xuất bao gồm: Tư liệu sản xuất và người lao động với trình độ, kỹ năng và thói quen trong lao động của họ. Trong lực lượng sản xuất, người lao động có vai trò quan trọng nhất.
- Tư liệu sản xuất gồm có đối tượng lao động và công cụ lao động, trong đó công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất.
- Quan hệ sản xuất: Là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, là mặt xã hội của phương thức sản xuất
- Quan hệ sản xuất bao gồm:
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
- Quan hệ trong tổ chức quản lý, phân công lao động
- Quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt đó quan hệ hữu cơ với nhau, có vai trò và vị trí khác nhau trong nền sản xuất, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất là mặt quyết định các quan hệ khác.
Nội dung cơ bản của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
- Khái niệm về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
- Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất cá nhân hay tính chất xã hội trong việc sử dụng tư liệu lao động, mà chủ yếu là công cụ lao động của con người để chế tạo sản phẩm.
- Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động, của khoa học công nghệ, khoa học kỹ thuật, phân công lao động và người lao động, trong đó phân công lao động và trình độ chuyên môn hoá là sự chuyển hoá rõ ràng nhất. Trong đó, người ta coi công cụ lao động là tiêu chí quan trọng nhất, là bậc thang phát triển của lực lượng sản xuất.
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Biểu hiện ra là:
- Tính chất và trình độ lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất phải như thế ấy để đảm bảo sự phù hợp với nó.
- Khi lực lượng sản xuất đã thay đổi về tính chất và trình độ thì quan hệ sản xuất cũng phải thay đổi theo để đảm bảo sự phù hợp.
- Khi lực lượng sản xuất cũ mất đi, lực lượng sản xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất cũ cũng phải mất đi và quan hệ sản xuất mới phải ra đời để đảm bảo sự phù hợp.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
- Nguyên tắc của sự tác động trở lại là nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại nếu quan hệ sản xuất không phù hợp thì nó kìm hãm, thậm chí phá vỡ lực lượng sản xuất.
{-- Xem đầy đủ nội dung tại Xem online hoặc Tải về--}
Trên đây là trích dẫn một phần Đề cương ôn thi môn Triết học có đáp án - ĐH Nguyễn Tất Thành, để xem đầy đủ nội dung đề thi và đáp án chi tiết các em vui lòng đăng nhập website Chúng tôi chọn Xem online hoặc Tải về máy tính. Chúc các em học tốt và thực hành hiệu quả!