-
Phần 1: Đọc - Hiểu (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
Cô bé và cậu bé
- Giá tớ được làm con trai
(Cô bé có lần đã nói)
Từ lâu tớ đã bỏ đi
Sang Châu Phi chơi cho khoái.
- Còn tớ, nếu là con gái
(Cậu bé liền đáp lời ngay)
Thay cho chỉ màu tớ sẽ
Thêu bằng tia nắng ban mai.
Rồi hai người dần khôn lớn
Cùng nhau nên vợ nên chồng
Với nhau sáng - trưa - chiều - tối
Họ toàn nói chuyện tiền nong.
(Maurice Carême - Bản dịch của Hồng Thanh Quang)
-
Chỉ ra các phương thức biểu đạt trong văn bản trên? (0,5 điểm)
Xem đáp án Các phương thức biểu đạt: Biểu cảm và Tự sự.
-
Ước mơ của cô bé và cậu bé là gì? Ý nghĩa của những ước mơ ấy? (1,0 điểm)
Xem đáp án - Ước mơ của cô bé: Sang châu Phi chơi.
- Ước mơ của cậu bé: Thêu bằng tia nắng ban mai.
- ⇒ Ý nghĩa: Đây là những ước mơ đẹp, trong sáng của tuổi thơ. Thể hiện sự trong trẻo, ngây thơ của tâm hồn cô bé và cậu bé cũng như của tâm hồn trẻ thơ.
-
Anh, chị hiểu câu thơ “Họ toàn nói chuyện tiền nong” như thế nào? (0,5 điểm)
Xem đáp án - “Họ toàn nói chuyện tiền nong” cho thấy họ chỉ quan tâm đến tiền. Tiền đã làm thay đổi con người, đánh mất sự ngây thơ, hồn nhiên trong quá khứ.
-
Viết đoạn văn khoảng 5 đến 7 dòng nêu suy nghĩ của anh chị về vai trò của đồng tiền trong cuộc sống? (1.0 điểm)
Xem đáp án - Học sinh viết đoạn văn có thể nêu một số vai trò:
- Tiền rất quan trọng trong cuộc sống.
- Mang lại cuộc sống đầy đủ, tiện nghi.
- Nếu dùng tiền hợp lí nó sẽ là yếu tố nhân lên hạnh phúc.
- Nếu sử dụng đồng tiền không hợp lí hoặc quá coi trọng đồng tiền sẽ làm cho con người trở nên thực dụng, dần đánh mất những giá trị tinh thần đáng quý....
-
Phần 2: Làm văn (7.0 điểm)
Từ văn bản ở phần Đọc - Hiểu, anh chị hãy viết 01 đoạn văn khoảng 200 từ trình bày suy nghĩ về mối quan hệ giữa tiền và hạnh phúc? (2 điểm)
Xem đáp án - Yêu cầu chung
- Kiểm tra năng lực viết bài nghị luận xã hội của thí sinh; đòi hỏi thí sinh phải huy động những hiểu biết về đời sống xã hội, kỹ năng tạo lập văn bản và khả năng bày tỏ thái độ và chủ kiến của mình để làm bài.
- Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng; được tự do bày tỏ chủ kiến của mình nhưng phải có thái độ chân thành, nghiêm túc.
- Yêu cầu cụ thể
- Giải thích từ ngữ:
- Tiền: Tiền bạc, của cải, vật chất.
- Hạnh phúc: Trạng thái sung sướng, thỏa mãn vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện.
- Tiền tài và hạnh phúc đều rất quan trọng, cần phải có quan niệm đúng về hai vấn đề này cũng như cần thấy được mối quan hệ của chúng.
- Bàn luận:
- Nếu chỉ coi đồng tiền là mục đích duy nhất, cao nhất để sống thì nhiều khi chúng ta sẽ rơi vào bi kịch, nhân cách bị huỷ hoại, gia đình tan nát, mọi người sẽ coi thường, xa lánh.
- Nhiều khi có tiền nhưng con người vẫn không thấy hạnh phúc. Nếu vì đồng tiền mà quên đi tất cả người thân bạn bè thì đồng tiền sẽ không tạo nên giá trị cũng như sức mạnh trong cuộc sống.
- Điều quan trọng là ta phải tạo được sự hài hoà giữa chính mình và họ biết cân bằng các giá trị sống.
- Phải trân trọng, giữ gìn hạnh phúc khi đã tạo dựng được. Không vì tiền tài mà tranh giành lẫn nhau, đánh mất đi hạnh phúc đã có.
- Bài học nhận thức, hành động
- Muốn tạo được sự hài hoà giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, mỗi người phải nỗ lực phấn đấu không ngừng trong học tập, lao động, rèn luyện đạo đức.
- Tạo ra của cải vật chất một cách chân chính. Biết sử dụng nó một cách hợp lí, có ý nghĩa.
-
“…Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm
rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào
những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài
chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng…”
“…Từ tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng
vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa
hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả…”
(Hoàng Phủ Ngọc Tường – Ai đã đặt tên cho dòng sông?)
Anh, chị hãy cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương qua đoạn trích trên, từ đó chỉ ra đặc điểm của cái tôi tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường? (5 điểm)
Xem đáp án - Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương qua trích đoạn trên, từ đó chỉ ra đặc điểm của cái tôi tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường?
- Yêu cầu chung
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; thể hiện khả năng cảm thụ văn học tốt; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính lien kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp. Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo những cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ, có căn cứ xác đáng, không được thoát li văn bản.
- Yêu cầu cụ thể
- Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận và xác định đúng vấn đề cần nghị luận.
- Khái quát:
- “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về dòng sông trữ tĩnh, thơ mộng của Huế với vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy qua lòng thành phố- sông Hương. Tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường huy động vốn tri thức, vốn ngôn ngữ phong phú, kết hợp giữa trữ tình và chính luận, trí tuệ và cảm xúc, cảm hứng lịch sử và chiều sâu văn hóa, khả năng liên tưởng và ngôn từ trong sáng, đẹp đẽ.
- Cảm nhận hai đoạn văn:
- Đoạn văn 1: Đoạn văn viết về sông Hương ở thượng nguồn là khám phá độc đáo, mới mẻ của tác giả với vẻ đẹp “phóng khoáng và man dại”:
- Bản trường ca của rừng già.
- Rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn.
- Mãnh liệt qua những ghềnh thác.
- Cuộn xoáy như cơn lốc.
- "Dịu dàng và say đắm”
- ⇒ Đây là kết quả từ trí tưởng tượng tài hoa của tác giả. Cảnh sông Hương ở thượng nguồn được khắc họa với những hình ảnh ấn tượng, thể hiện năng lực quan sát tinh tế và sự phong phú về ngôn ngữ.
- Đoạn văn 2: Miêu tả sông Hương ở ngoại vi thành phố, một mặt vẫn còn đọng dư vị của rừng già Trường Sơn, mặt khác đã dần tìm lại dòng chảy êm ả của mình, gắn với những địa danh quen thuộc của Huế: núi Ngọc Trản, Vọng Cảnh, Thiên Thai,...
- Vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn.
- Vượt qua một lòng vực sâu.
- Sắc nước trở nên xanh thẳm.
- Dòng sông mềm như tấm lụa.
- Sắc nước biến đổi: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
- ⇒ Tác giả sử dụng lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa, sử dụng phép nhân hóa khi miêu tả dòng chảy sông Hương vùng ngoại vi với cách đặc tả màu nước đặc trưng phản quang hai bên bờ và thay đổi trong ngày.
- Đánh giá: Cả hai đoạn văn đều tập trung thể hiện cái nhìn mới mẻ của nhà văn về sông Hương. Không chỉ là dòng sông của những giá trị văn hóa, truyền thống lâu đời, không chỉ gắn với vẻ êm đềm, thơ mộng, sông Hương cũng gần gũi bình dị như bao dòng sông khác, cũng ghềnh thác, dữ dội nơi thượng nguồn. Từ đó đưa người đọc tìm về những dòng sông của riêng mình, gợi tình cảm nước non.
- Nhận xét cái tôi tác giả:
- Cái tôi: Là nét riêng của mỗi người. Trong văn chương, “cái tôi” là phong cách riêng của nhà văn.
- Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua đoạn trích:
- Cái tôi say đắm với cảnh sắc thiên nhiên, gắn bó với quê hương, xứ sở.
- Cái tôi uyên bác gắn với cái nhìn mang tính khám phá, phát hiện vẻ đẹp của sông Hương, vẻ đẹp của quê hương đất nước.
- Cái tôi tinh tế, tài hoa, thể hiện lối hành văn hướng nội, sâu lắng, giàu xúc cảm về thiên nhiên đất nước.
- Kết luận: Đánh giá khái quát vấn đề.