Soạn bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam

Hướng dẫn chi tiết

1. Tóm tắt nội dung bài học

  • Các vấn đề xoay quanh văn học dân gian như:
    • Đặc trưng văn học dân gian
    • Thể loại văn học dân gian
    • Giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm văn học dân gian đã học

2. Soạn bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam chương trình chuẩn

Câu 1 : SGK trang 101

  • Nhận xét về hai đoạn miêu tả cảnh Đăm Săn múa khiên và đoạn cuối tả hình ảnh và sức khoẻ của chàng trong đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây

Gợi ý:

  • Trong ba đoạn văn này, nét nổi bật trong nghệ thuật miêu tả nhân vật anh hùng nằm ở các thủ pháp sau:
    • Thủ pháp so sánh: Với những câu văn như “chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc”, “Bắp chân chàng to bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức chàng ngang sức voi đực…”.
    • Thủ pháp phóng đại: “Một lần xốc tới, chàng vợt một đồi tranh”, “khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung”
    • Thủ pháp trùng điệp: Nằm ở nội dung của các câu văn và ở cả cách thức thể hiện. Các hành động, cũng như đặc điểm của Đam Săn đều được luyến láy nhiều lần nhằm tạo nên sự kì vĩ, lớn lao: “Chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây”, “Bắp chân chàng to bằng cây xà ngang… Đam Săn vốn ngang tàng từ trong bụng mẹ”,…

⇒ Sự kết hợp linh hoạt của các biện pháp nghệ thuật này cùng với trí tưởng tượng hết sức phong phú của tác giả, dân gian đã góp phần tôn lên vẻ đẹp của người anh hùng sử thi – một vẻ đẹp kì vĩ lớn lao trong một khung cảnh cũng rất hoành tráng và dữ dội.

Câu 2: SGK trang 101

 Tấn bi kịch của Mị Châu – Trọng Thủy trong chuỗi truyền thuyết An D­ương V­ương

  • Mị Châu – Trọng Thủy
Cái cốt lõi sự thật lịch sử H­ư cấu thành bi kịch gì?

Với những chi tiết hoang đường kì ảo nào?

Tính chất của bi kịch

Kết quả của bi kịch

Bài học rút ra
Cuộc xung đột giữa An Dương Vương và Triệu Đà thời kì Âu Lạc (theo lịch sử nư­ớc ta) Bi kịch tình yêu (lồng vào bi kịch gia đình, quốc gia) Thần Kim Quy, lẫy nỏ thần, Ngọc Trai – giếng nư­ớc, Rùa vàng rẽ nước dẫn An Dương Vương xuống biển Dữ dội, quyết liệt và toàn diện

Mất tất cả:

Tình yêu, gia đình và đất nước

Cảnh giác giữ nư­ớc, không ỷ thế chủ quan như An Dương Vương, không nhẹ dạ cả tin như Mị Châu

Câu 3: SGK trang 101

  • Đặc sắc nghệ thuật của truyện Tấm Cám:
    • Khắc họa đ­ược hình tư­ợng Tấm có sự phát triển về tính cách. Theo dõi câu chuyện, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy điều này :
    • Ở giai đoạn đầu, khi gặp những sự đè nén hay những khó khăn, Tấm rất thụ động, yếu đuối, thường chỉ khóc không biết làm gì (lúc mất giỏ cá, lúc mất con bống, lúc bị bắt ngồi nhặt thóc…). Ở giai đoạn này, Tấm chỉ biết trông đợi vào sự giúp đỡ của bên ngoài (ông Bụt).
    • Như­ng đến giai đoạn sau, Tấm đã kiên quyết đấu tranh để giành lại cuộc sống, giành lại hạnh phúc (chim vàng anh, chiếc khung cửi đều lên tiếng dọa Cám và kết thúc truyện, Tấm đã buộc mẹ con Cám phải nhận một kết cục xứng đáng với tội ác của mình). Ở giai đoạn này, tuy Tấm nhiều lần hóa thân như­ng nhân vật Bụt đã không còn xuất hiện. Thay vào đó, Tấm đã chủ động hơn trong những hành động của mình.
    • Có thể nói, sở dĩ có sự phát triển về tính cách nh­ư vậy là vì ban đầu, Tấm chư­a ý thức đư­ợc thân phận của mình, những mâu thuẫn thì chư­a tới mức căng thẳng và quyết liệt. Hơn nữa, Tấm lại có sự giúp đỡ của nhân vật thần kì nên Tấm còn thụ động. Ở giai đoạn sau, mâu thuẫn bắt đầu quyết liệt đẩy Tấm vào thế phải đấu tranh để giành lại cuộc sống và hạnh phúc của mình. Sự phát triển tính cách của nhân vật Tấm cũng cho thấy sức sống bất diệt của con ngư­ời tr­ước sự vùi dập của các thế lực thù địch. Nó là sự chiến thắng của cái thiện tr­ước cái ác trong cuộc sống.

Câu 4: SGK trang 102

Bảng phân tích truyện cười

Truyện Đối t­ượng cười (Cười ai?) Nội dung cư­ời (Cư­ời cái gì? Tình huống gây cư­ời Cao trào để tiếng c­ười òa ra
Tam đại con gà Anh học trò “dốt hay nói chữ” Tật “giấu dốt” của con người Luống cuống khi không biết chữ “kê” Khi anh học trò nói: “Dủ dỉ là chị con công…”
Nh­ưng nó phải bằng hai mày Thầy lí Cải và Ngô Tấm bi hài kịch của việc hối lộ và ăn hối lộ Đã đút lót tiền hối lộ mà vẫn bị đánh (Cải) Khi thầy lí nói: “…  Nh­ưng nó lại phải… bằng hai mày!”

Câu 5: SGK trang 102

  • Các bài ca dao với motif tiêu biểu

a. Mở đầu bằng Thân em

Thân em như đóa hoa rơi,

Phải chăng chàng thật là người yêu hoa ?!

Thân em như trái mảng cầu,

Để trên bàn Phật lâu lâu lại nhìn.

Thân em như hạt mưa rào ,

Mưa trên hàng dậu mưa vào nhà anh.

Thân em như chẽn lúa đòng đòng

Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.

Thân em như con cá rô thia

Ra sông mắc lưới vào đìa mắc câu

Thân em làm lẽ chẳng nề

Có như chính thất mà lê giữa gường

Tối tối chị giữ mất buồng

Cho em manh chiếu nằm suông chuồng bò

Mong chồng chồng chẳng xuống cho

Đến khi chồng xuống gà o o gáy dồn

Chém cha con gà kia, sao mày vội gáy dồn

Mày làm cho ta mất vía kinh hồn về nỗi chồng con

Thân em như hoa gạo trên cây

Chúng anh như đám cỏ may giữa đường.

Thân em như cái sập vàng

Chúng anh như manh chiếu rách giữa đàng bỏ quên.

b. Mở đầu bằng Chiều chiều…

Chiều chiều xách giỏ hái rau 

Ngó lên mả mẹ ruột đau như dần 

Chiều chiểu dẫn vợ ra rừng, 

Bẻ roi đánh vợ, biểu đừng có ghen. 

Ghen sao ghen lạ ghen lùng, 

Cá rộn trong thùng cục kịch cũng ghen. 

Chiều chiều én liệng Truông Mây 

Cảm thương chú Liá bị vây trong thành. 

Chiều chiều ra chợ Đông Ba, 

Ngó về làng bột ,trông ra hàng đường. 

Nhìn mai,ngắm liễu,xem hường, 

Cô nào đẹp nhất xin nhường cho tôi. 

Chiều chiều lại nhớ chiều chiều 

Nhớ cha, nhớ mẹ chín chiều ruột đau

Chiều chiều ra đứng bờ sông

 Muốn về với mẹ mà không có đò.

Chiều chiều chim rét kêu chiều

Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau

Chiều chiều ai đứng hàng ba

Quần đen áo trắng nết na dịu dàng.

Chiều chiều bắt bướm đang bay

Bâng khuâng nhớ bạn, bạn rày nhớ ta.

 Chiều chiều bắt nhâm cầm câu

 Nhái kêu cái cọ thảm sầu nhái ơi.

Chiều chiều bước xuống ghe buôn

Sóng bao nhiêu gợn em buồn bấy nhiêu.

⇒ Cách mở đầu những bài ca dao bằng mô thức lặp nh­ư thế này có tác dụng rất nhiều trong việc tạo ấn tư­ợng thẩm mĩ và xúc cảm cho người đọc. Mô típ “thân em nh­ư…” thư­ờng gợi ra thân phận chua xót, ngậm ngùi. Còn mô típ “chiều chiều…” gợi đến một khoảng thời gian “nhạy cảm” – khoảng thời gian của nỗi nhớ nhung.

c. Tìm một số bài ca dao nói về

  • Chiếc khăn, chiếc áo:

Trông em đã mấy thu tròn 

Khăn lau nước mắt muốn mòn con ngươi. 

Em về, anh mượn khăn tay 

Gói câu tình nghĩa, lâu ngày sợ quên. 

Khăn vuông bốn chéo cột giùm 

Miệng cười người nghĩa hò giùm ít câu. 

Qua cầu ghé nón thăm đồng 

Đồng bao nhiêu lúa thương chồng bấy nhiêu 

Tay nâng khăn gói sang sông 

Mồ hôi ướt đẫm, thương chồng phải theo. 

Tay mang khăn gói sang sông 

Mẹ gọi mặc mẹ theo chồng cứ theo 

Thuyền đồng trở lái về đông 

Con đi theo chồng để mẹ cho ai. 

Khăn đào vắt ngọn cành mai

Mình xuôi đàng ấy, bao giờ mình lên

Em xuôi em lại ngược ngay

Sầu riêng em để trên này cho anh

Ước gì anh hóa ra hoa

Để em nâng lấy rồi mà cài khăn

Ước gỉ anh hóa ra chăn

Để cho em dắp, em lăn, em nằm

Ước gi anh hóa ra gương

Để cho em cứ ngày thường em soi

Ước gì anh hóa ra cơi

Để cho em đựng cau tươi trầu vàng

  • Nỗi nhớ đôi lứa

Đêm qua mới gọi là đêm

Ruột xót như muối, da mềm như dưa

Trăm năm ghi tạc chữ đồng

Dù ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai

Ai về đường ấy hôm mai

Gởi dặm điều nhớ, gửi vài điểu thương

Gởi cho đến chiếu, đến giường

Gởi cho đến chốn buồng hương em nằm

Rủ nhau xuống biển mò cua

Đem về nấu quả mơ chua trên rừng

Em ơi, chua ngọt đã từng

Non xanh nước bạc xin đừng quên nhau

Nhớ ai em những khóc thầm

Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa

Nhớ ai ngơ ngẩn, ngẩn ngơ

Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa, như ngồi đống rơm

  • Biểu tượng cây đa, bến nước - con thuyền, gừng cay - muối mặn
Biểu tượng cây đa, bến nước - con thuyền

Anh về đợ ruộng cây đa

Đợ đồng nước ngọt sang qua cưới nàng

Cây tùng cây bá anh chê,

Cây đa, cây dứa sum suê anh dùng.

Cây đa bậc cũ lỡ rồi

Đò đưa bến khác, bạn ngồi chờ ai?

Cây đa bến cũ đò đưa 

Người thương có nghĩa nắng mưa vẫn chờ

Cây đa cũ, con yến rũ, cây đa tàn 

Bao nhiêu lá rụng thương nàng bấy nhiêu

Cây đa giếng nước quê nhà

Mái đình còn đó người xa chưa về

Người ơi, người có nhớ quê

Giò Chèm, nem Vẽ, quạt lá đề như xưa.

Cây đa trốc gốc cái miễu còn ngồi

Người thương đâu mất chỗ ngồi còn đây

Cây đa trốc gốc lâu rồi

Đò đưa bến khác, anh ngồi chờ ai?

Cây đa trốc gốc, thợ mộc đang cưa

Gặp em từ lúc ban trưa

Trách trời vội tối, phân chưa hết lời

Chim xanh ăn trái xoài xanh

Ăn no tắm mát đậu cành cây đa

Cực lòng em phải nói ra

Chờ trăng, trăng xế, chờ hoa, hoa tàn

Có chả anh tính phụ xôi

Có cam phụ quít, có người phụ ta

Có quán đình, phụ cây đa

Ba năm quán đổ cây đa vẫn còn

Có mực thì anh phụ son

Có kẻ đẹp giòn tình phụ nhân duyên

Có bạc anh tính phụ tiền

Có nhân nghĩa mới quên tình người xưa

Đầu làng cây ruối, cuối làng cây đa

Cây ruối anh để làm nhà

Cây đa hóng mát, nàng ra anh chào

Đôi tay bâng cái khăn đào

Bằng khi hội hát anh trao cho nàng

Túi anh những bạc cùng vàng

Để anh kéo nhẫn cho nàng đeo tay

Dù ai bấu chí nàng bay

Thì nàng phải giữ nhẫn này cho anh

Dù ai bẻ lá vin cành

Thì nàng phải nhớ lời anh dặn dò

Biểu tượng gừng cay - muối mặn

Tay bưng dĩa muối chấm gừng,

Gừng cay muối mặn xin đừng đổi thay.

Gừng cay sáu tháng còn cay.

Đèn treo dưới gió, ngọn đèn lay,

Đố anh có biết duyên này về đâu?

Tay bưng dĩa muối chấm gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

d. Một số câu ca dao hài ư­ớc có tính chất giải trí, mua vui :

Bà Bảy đã tám mươi tư

Ngồi trông cửa sổ gửi thư kén chồng.

Chồng người đánh giặc sông Lô

Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần

Chồng người đi ngược về xuôi

Chồng em ngồi bếp cầm muôi đánh ruồi.

Học hành ba chữ lem nhem

Thấy gái thì thèm như chửa thèm chua

Hai tay cầm hai quả hồng,

Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai.

Đêm nằm vuốt bụng thở dài,

Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều.

Hoài hơi mà đấm bị bông

Đấm được bên nọ, nó phồng bên kia.

Nhà cô có con chó đen

Người lạ nó cắn, người quen nó mừng

Một hôm uống rượu lâng lâng

Người quen nó cắn, nó vồ gãy tay

Buồn buồn ngồi đốt đống rơm

Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào

Khói bay lên tận thiên tào

Ngọc Hoàng phán hỏi: thằng nào đốt rơm

Còn duyên anh cưới con heo

Hết duyên anh cưới con mèo cụt đuôi.

Chiều chiều lửa cháy cơm sôi

Heo la, con khóc, chồng người nhậu say.

Chiều chiều mang giỏ hái dâu

Hái dâu không hái nhớ câu ân tình.

Chiều chiều mây phủ Hải Vân

Chim kêu ghềnh đá gẫm thân em buồn

Buồn riêng rồi lại tủi thầm

Hai tay áo vải ướt đầm cả hai.

Chiều chiều lo bảy lo ba

Lo cha mẹ già đầu bạc tuổi cao.

Chiều chiều mú lụa mười ba

Cắt áo cổ giữa tra ba nút vàng.

Chiều chiều ngư phủ đi câu

Sấm bắt ngư phủ biết đâu mà tìm.

Chiều chiều ông Lữ thả câu

Sấu ăn ông Lữ chúi đầu xuống sông.

Câu 6: SGK trang 102

  • Một số câu thơ (bài thơ) của các nhà thơ trung đại hoặc hiện đại có sử dụng văn học dân gian làm chất liệu sáng tác:
  • Nổi bật nhất là nhà thơ Tố Hữu, Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Nguyễn Khoa Điềm, Hồ Xuân Hương...
  • Những vầng trăng, những câu thề nguyền, hò hẹn…đi vào truyện Kiều từ miền ca dao cũ . Vầng trăng trong Kiều:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường


Được học từ vầng trăng trong ca dao một thuở:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng.

  • Nhà thơ Tố Hữu cũng sử dụng thể thơ lục bát và đem vào thơ kết cấu mình- ta, mượn cách tỏ tình đôi lứa trong ca dao để diễn đạt những tình cảm lớn lao đối với đất nước, dân tộc:

Mình về mình có nhớ ta,

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng…

  • Nguuyễn Khoa Điềm trong trường ca"Mặt đường khát vọng" cũng tìm về ca dao để cắt nghĩa, lý giải sự sinh thành, phát triển của đất nước ở bề sâu văn hoá:

Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái ngày xửa, ngày xưa mẹ thường hay kể

Đất nước bắt đầu với những miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn…

  • Còn có thể tìm thấy ở nhiều tác giả khác những sáng tác liên quan ít nhiều đến văn học. Điều đó chứng tỏ văn học dân gian có một sức sống trường tồn và không những thế nó còn có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển văn học viết.

Câu 7. (bài tập phần các hình thức hoạt động ngoài giờ học) SGK trang 103

  • Dưới đây là gợi ý:Tác phẩm Văn học dân gian ở địa phương (sưu tầm)
    • Câu đố xứ Nghệ

Có một anh học trò tên Bạch ở trọ cùng năm bạn học trong thôn. Một hôm anh Bạch sang nhà láng giềng chơi, vô tình trộm thấy cô Hồng đang thay áo. Về phòng trọ anh ta ra vế đối:

Cô Hồng cởi áo là cô Hồng trần

Và anh ta kêu những người bạn của mình đối lại. Năm anh bạn học liền lấy tên anh Bạch Và anh đề nghị các bạn học đối lại. Năm anh bạn học liền lấy tên anh Bạch để điền vế đối, nhưng kết quả ra năm câu khác nhau:

Anh thứ nhất:

Anh Bạch mặc quần là anh Bạch diện

Anh thứ hai:

Anh Bạch vạch quần là anh Bạch đái

Anh thứ ba:

Anh Bạch nhăn răng là anh Bạch xỉ

Anh thứ tư:

Anh Bạch ra tay là anh Bạch chỉ

Anh thứ năm:

Anh Bạch bạc đầu là anh Bạch phát

Các em có thể tham khảo thêm bài giảng Ôn tập văn học dân gian Việt Nam để nắm vững hơn các kiến thức trọng tâm của bài học trước khi đến lớp.

3. Soạn bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam chương trình Nâng cao

Mod Ngữ văn sẽ cập nhật bài soạn trong thời gian sớm nhất!

4. Hỏi đáp về Ôn tập văn học dân gian Việt Nam

Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn Chúng tôi sẽ sớm trả lời cho các em. 

Bình luận

Có Thể Bạn Quan Tâm ?