Hướng dẫn chi tiết
1. Tóm tắt nội dung bài học
2. Hướng dẫn soạn bài Luyện tập về thao tác lập luận bác bỏ chương trình chuẩn
Câu 1: Phân tích cách bác bỏ trong hai đoạn trích sau:
Ngữ liệu a và b SGK trang 31
- Phân tích cách bác bỏ: Ngữ liệu a
- Nội dung: Bác bỏ quan niệm sống sai lầm "sống bó hẹp trong ngưỡng cửa nhà mình"
- Cách bác bỏ: Dùng lí lẽ bác bỏ trực tiếp, kết hợp so sánh bằng hình ảnh sinh động (mảnh vườn rào kín, đại dương mênh mông) để vừa bác bỏ vừa nêu ý đúng, động viên người nghe làm theo.
- Diễn đạt: Từ ngữ giản dị, phối hợp câu tường thuật và câu miêu tả khi đối chiếu, so sánh → đoạn văn sinh động, thân mật và có sức thuyết phục cao.
- Phân tích cách bác bỏ: Ngữ liệu b
- Nội dung: Vua Quang Trung bác bỏ thái độ e ngại của người hiền tài không chịu ra giúp nước
- Cách bác bỏ: Không phê phán trực tiếp mà phân tích những khó khăn, nỗi lo lắng và lòng mong đợi của nhà vua, đồng thời khẳng định trên dải đất văn hiến của ta không hiếm người tài để bác bỏ thái độ sai lầm, động viên người tài ra giúp nước.
- Diễn đạt: Từ ngữ trang trọng mà giản dị, giọng điệu chân thành, khiêm tốn, sử dụng câu trần thuật và câu hỏi tu từ, dùng lí lẽ và hình ảnh so sánh (Một cây cột ... căn nhà lớn) → có tác dụng: vừa động viên vừa bác bỏ, khích lệ thuyết phục đối tượng ra giúp nước.
Câu 2: Trong buổi hội thảo về kinh nghiệm học môn Ngữ Văn của lớp có hai quan niệm:
a. Muốn học giỏi môn Ngữ Văn chỉ cần đọc nhiều sách, học thuộc nhiều thơ văn.
b. Không cần đọc nhiều sách, không cần học thuộc nhiều thơ văn, chỉ cần luyện nhiều về tư duy, về cách nói, cách viết là có thể học giỏi môn Ngữ Văn
Anh (chị) hãy bác bỏ một trong hai quan niệm đó, rồi đề xuất một vài kinh nghiệm học Ngữ văn tốt nhất.
Gợi ý:
- Quan niệm a và b đều là quan niệm phiến diện
- Cách bác bỏ: dùng lí lẽ và dẫn chứng thực tế
- Quan niệm đúng đắn:
- Muốn học tốt môn Ngữ văn cần phải:
- Sống sâu sắc và có ý thức tích lũy vốn sống thực tế
- Có động cơ và thái độ học tập đúng đắn
- Có phương pháp học tập phù hợp để nắm kiến thức cơ bản và hệ thống
- Thường xuyên trau dồi kiến thức qua sách, báo, tạp chí và thu thập thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Muốn học tốt môn Ngữ văn cần phải:
Câu 3: Có quan niệm cho rằng: "Thanh niên, học sinh thời nay phải biết nhuộm tóc, hút thuốc lá, uống rượu, vào các vũ trường... thế mới là cách sống "sành điệu" của tuổi trẻ thời hội nhập"
Gợi ý:
- Các em có thể tham khảo dàn ý dưới đây:
- Mở bài
- Giới thiệu về quan niệm sống trên
- Thân bài
- Thừa nhận đây cũng là một trong những quan niệm sống đang tồi tại. phân tích ngắn gọn nguyên nhân phát sinh quan niệm sống ấy.
- Bác bỏ quan niệm về cách sống ấy.
- Vấn đề cần bác bỏ: bản chất của quan niệm sống ấy thực ra là lối sống buông thả, hưởng thụ và vô trách nhiệm.
- Cách bác bỏ: dùng lí lẽ và dẫn chứng thực tế.
- Khẳng định một quan niệm về cách sống đúng đắn.
- Kết bài
- Phê phán, nêu tác hại của quan niệm về cách sống sai trái
- Mở bài
- Dưới đây là bài văn mẫu các em có thể tham khảo:
Gần đây có nhiều bạn đua đòi theo những lối ăn chơi không lành mạnh. Những bộ mốt dị thường được các cô cậu choai choai diện đến trường hay đi chơi đâu đó. Cách ăn mặc kiểu ấy không phù hợp với lứa tuổi học sinh, với truyền thống văn hóa của dân tộc cũng như với hoàn cảnh của gia đình. Thiết nghĩ đây là một vấn đề chúng ta rất cần cảnh báo.
Ngày nay các cô cậu học trò và thậm chí cả một bộ phận không nhỏ người dân ta cứ đùa nhau mà chạy theo hai từ “sành điệu”. Họ cứ nghĩ sành điệu là phải khác người. Cái áo phải quái dị hơn người, phải ngắn hơn người một tí, cái quần phải rộng thùng thình hay những lọn tóc phải vừa xanh vừa đỏ lại hoe vàng, thế mới là “sành điệu” (?). Thực ra những người như thế chẳng hiểu gì. Ngay từ nơi phát nguồn của nó (phương Tây) từ sành điệu nghĩa là chỉ những người hiểu biết cách ăn mặc phù hợp và tinh tế. Vậy phải chăng chỉ vì một thuật ngữ mà chúng ta đang bị mất đi thuần phong mĩ tục trong ăn mặc.
Thực tế không phải thế! Các cô cậu trút bỏ chiếc áo sơ mi trắng để mặc vào chiếc áo phông không cổ nghênh ngang đến trường với những hình thù quái dị không đứng đắn thực ra là để ra oai với bạn bè. Đó là kết quả của việc gia đình giáo dục không đúng đắn. Những bạn khác lại bắt chước những gã găng – xtơ mặc quần bò xén gấu, tóc thì hoặc là nhuộm xanh nhuộm đỏ hoặc là cắt trụi trọc hở cả những vết sẹo ngang dọc to nhỏ khắp đầu. Tất cả những sự đổi thay thiếu văn hóa ấy phải chăng do ở các trường các thầy cô không dạy dỗ, không nhắc nhở. Thú thật, tôi đã nhiều lần chứng kiến một thầy giáo đuổi cậu học trò ra khỏi lớp chỉ vì cậu này mặc áo sơ mi mà không cài cúc cổ. Vậy thì chắc chắn không có thầy cô nào, bạn bè tử tế nào chấp nhận cái kiểu ăn mặc quái dị, bất nhã đó.
Bàn đi rồi bàn lại! Vậy chẳng có lẽ dân tộc mình không có một cách ăn mặc nào sành điệu (hiểu theo đúng nghĩa) hay sao! Tôi vội nhớ lại loáng thoáng trong lớp học có mấy lần một bạn nữ nào lên tiếng: “Các thầy cô lúc nào cũng nhắc về cách ăn nặc, chẳng nhẽ mình lại vận áo dài hay áo the khăn xếp mà đến lớp”. Ôi! Cái hiểu biết của cô nữ sinh nọ mới nông cạn làm sao. Nước mình vốn giàu truyền thống, cách ăn mặc của người mình chuộng về kín đáo và lịch sự. Nếu bạn thấy cả một cơ quan, nam nhân viên ai cũng vận quần đen áo trắng bạn sẽ thấy rất rõ điều này. Hoặc ở một nhà hàng xóm nọ, nơi ăn mặc nhiều khi tùy hứng vô cùng, thế mà ông chủ vẫn yêu cầu nhân viên của mình mặc đồng phục lịch sự và kín đáo để còn “làm ăn được lâu dài”. Cái áo dài hay áo the khăn xếp giờ đã thành quốc phục. Tuy hằng ngày ta ít mặc vì bất tiện nhưng sao ta không học cách người phương Tây say sưa bình bàn về nó? Bởi những thứ thuộc về trang phục thử hỏi có cái gì vừa đẹp vừa có sức sống bền lâu trong lòng dân tộc như chiếc áo dài? Chẳng lẽ ông cha ta hàng ngàn đời nay lại không có một chút khái niệm gì về tư duy thẩm mĩ hay sao?
Thế đấy các bạn ạ! Sự sang trọng và văn minh đâu chỉ hiểu đơn thuần là ta đang mặc cái gì, mà còn phải hiểu thêm, ta mặc nó theo cách nào. Cách mặc ấy liệu có phù hợp với lứa tuổi không, có phù hợp với đặc trưng của dân tộc hay không và có phù hợp với hoàn cảnh kinh tế gia đình mình không chứ! Không hiểu biết về những điều này, chúng ta không bao giờ văn minh được, càng không thể nào vươn tới một cách ăn mặc vừa đẹp vừa lịch sự, lại vừa văn hóa.
Các em có thể tham khảo thêm bài giảng Luyện tập thao tác lập luận bác bỏ để nắm kĩ hơn các kiến thức lí thuyết cần nhớ.
3. Hướng dẫn soạn bài Luyện tập về thao tác lập luận bác bỏ chương trình Nâng cao
Câu 1 (SGK/ Tr. 41-44)
Gợi ý:
a. Đoạn văn của Nguyễn Đình Thi
- Sử dụng cách bác bỏ luận điểm
- Luận điểm cần bác bỏ: Có người nghĩ rằng thơ là những lời đẹp.
- Luận cứ dung để bác bỏ:
- Không phải thơ là những lười đẹp
- Không phải thơ là những đề tài đẹp
b. Đoạn văn của Đặng Thai Mai
- Bác bỏ luận điểm bằng cách dùng lập luận phân tích để bác bỏ
- Luận điểm cần bác bỏ: Trong sáng tác văn nghệ, lí tính không tham dự.
- Lập luận phân tích dùng để bác bỏ: Lí tính chi phối việc:
- Lựa chọn đề tài
- Sắp đặt tư tưởng, nghiên cứu hình thức phân tích tài liệu
- Vận dụng kinh nghiệm về bút pháp
- Lựa chọn hình thức phù hợp với nội dung
c. Đoạn văn của Đỗ Kiên Cường
- Bác bỏ luận điểm bằng cách dùng luận cứ và lập luận
- Luận điểm cần bác bỏ: Có rồi hãy cho
- Cách bác bỏ: bài viết có 6 đoạn :
- Đoạn 1: Xác định luận điểm cần bác bỏ
- Đoạn 2: Chỉ ra thực chất của luận điểm trên là sản phẩm của chủ nghĩa thực dụng.
- Đoạn 3: Dùng luận cứ tỉ lệ dân nước Mĩ ăn bám và luận điểm về mẹ Tê-rê-da để bác bỏ.
- Đoạn 4: Phê phán luận điểm của Ây Ren-đơ là thiếu hiểu biết xã hội và bản chất nhân văn của xã hội loài người.
- Đoạn 5: Khẳng định tính đúng đắn của luận điểm “Giá trị của một người chính là ở chỗ người đó phục vụ xã hội như thế nào” để gián tiếp bác bỏ luận điểm “có rồi cho”.
- Đoạn 6: Chỉ ra sự thiển cận và phiến diện của chủ nghĩa thực dụng Ây Ren-đơ.
Câu 2: Lập dàn ý bác bỏ luận điểm sau: Chỉ có vào đại học thì cuộc đời mới có tương lai
Gợi ý:
- Vào đại học thường có một tương lai rất tốt đẹp
- Vẫn còn có nhiều con đường khác để đi tới tương lai tốt đẹp.
- Con đường đi chi phối tương lai nhưng quan trọng hơn là cách đi như thế nào.
⇒ Khẳng định không chỉ vào đại học thì cuộc đời mới có tương lai.
Câu 3: Chọn một trong hai thành ngữ sau nhằm bác bỏ ý cũ và tìm ý mới:
a. Múa rìu qua mắt thợ
b. Bới lông tìm vết
4. Hỏi đáp về bài Luyện tập thao tác lập luận bác bỏ
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn Chúng tôi sẽ sớm trả lời cho các em.