A. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
B. Dàn bài chi tiết
1. Mở bài
- Giới thiệu về khái niệm làng
- Người ta đã viết rất nhiều về cái làng Việt Nam xưa kia, từ kho tàng đồ sộ ca dao tục ngữ, những khảo cứu phong tục, tập quán, những phóng sự việc làm... cho đến những tiểu thuyết mà cái làng gói trọn số phận của nhiều nhân vật.
- Làng là khái niệm đầu tiên và có lẽ cuối cùng của người nông dân về hai tiếng “quê hương”.
- Giới thiệu truyện ngắn Làng
- Nhưng trong truyện ngắn Làng của Kim Lân, có thể thấy rõ làng chỉ là một cái cớ, một cái nền làm nổi rõ một nhân vật, một “người làng” đó là nhân vật ông Hai.
- Dẫn dắt nội dung nghị luận: Nhân vật người yêu làng trong truyện ngắn Làng của Kim Lân
2. Thân bài
a. Khái quát về nhân vật ông Hai
- Nhân vật ông Hai là một nhân vật có lẽ cũng rất bình thường như bất kì người dân làng quê nào ở miền đất Việt.
- Ông không thuộc hàng cung đình mà số phận có thể tiêu biểu như một người nông dân một thời như anh Pha, chị Dậu; cũng không thuộc hàng vai vế có “miếng” có “tiếng” trong làng.
- Ông chỉ là một người nông dân hay làm, chịu khó và có lẽ khéo tay nữa.
- Ông Hai vui tính và hay chuyện nữa, và tinh khôn láu lỉnh, cái tinh khôn láu lỉnh của người nông dân đã đi đây đi đó, đã tiếp xúc nhiều.
- Ông bàn những chuyện “quốc gia đại sự” thật say sưa, sảng khoái và hưng phấn, mặc dù chính ông vẫn biết là “học lỏm cả đấy thôi”, nhưng vẫn thích thú tự hào.
⇒ Chỉ bằng vài ba nét miêu tả, tác giả Kim Lân đã tái hiện được chân dung một mẫu người lí thú, rất thật, rất sống động, rất thường gặp ở xung quanh ta.
- Tính cách của ông Hai bộc lộ ngay qua lời nói, cử chỉ:
- Phải đi tìm người nói chuyện, và câu chuyện thường là một điều tự nhiên trong tính cách của con người hay chuyện, ưa giao tiếp, thích hiểu biết, cái hiểu biết do học lỏm của người nghèo.
- Thích khoe làng, khoe tất cả những cái gì “hơn người” ở làng ông.
b. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu làm Việt gian
- Vì tình cảnh nên gia đình ông Hai phải đi tản cư
- Khi đang vui mừng tin thắng trận ở khắp nơi thì ông Hai nghe tin dữ: làng chợ Dầu theo giặc làm Việt gian, ông bất ngờ, choáng váng.
- Ông cố trấn tĩnh bản thân, ông hỏi lại như thể không tin vào những điều vừa nghe thấy nhưng người phụ nữ tản cư khẳng định chắc chắn khiến ông Hai sững sờ, ngượng ngùng, xấu hổ.
- Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân ông lão lặng đi tưởng như không thở được
- Về tới nhà ông tủi hổ, lo lắng khi thấy đàn con (nước mắt lão cứ dàn ra, chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư?)
- Niềm tin, sự ngờ vực giằng xé mạnh trong tâm trạng ông Hai
- Nghe thấy tiếng chửi bọn Việt gian “ông cúi gằm mặt xuống mà đi”, nỗi tủi hổ khiến ông không dám ló mặt ra ngoài
- Lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, thấy đám đông tụ tập nhắc tới hai chữ “Cam-nhông, Việt gian” ông lại chột dạ
⇒ Tác giả diễn đạt cụ thể nỗi lo lắng, sợ hãi tới mức ám ảnh thường xuyên của ông Hai, trong tâm trạng ông lúc nào cũng thường trực nỗi đau xót, tủi hổ trước tin làng mình theo giặc
- Tình yêu làng quê và tình yêu làng trong ông có cuộc xung đột lớn, gay gắt. Ông Hai dứt khoát chọn theo cách mạng “Làng yêu thì yêu thật, nhưng làng theo giặc thì phải thù"
- Tình yêu nước rộng lớn bao trùm lên tình yêu làng, dù xác định như thế nhưng trong lòng ông vẫn chan chứa nỗi xót xa, tủi hổ
- Ông Hai tiếp tục rơi vào bế tắc, tuyệt vọng khi mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi nơi khác
- Đoạn văn diễn tả cảm động, chân thật nỗi đau sâu xa trong lòng và sự chân thành của nhân vật ông Hai
- Ông Hai chỉ biết tâm sự nỗi lòng mình với đứa con chưa hiểu sự đời. Lời nói của ông với con thực chất là lời nói để ông tỏ lòng mình: nỗi nhớ, tình yêu làng, sự thủy chung với kháng chiến, cách mạng
- Khi nghe tin cải chính, ông Hai như sống lại, mọi nỗi xót xa, tủi hờn, đau đớn tan biến, thay vào đó là niềm hân hoan, hạnh phúc hiện lên trên khuôn mặt, cử chỉ, điệu cười của ông (dẫn chứng trong văn bản)
⇒ Đó là nhận thức của người dân lúc bấy giờ ở vùng tự do cũng như vùng tạm chiến, từ người đàn bà tản cư vô tình đem tin đến, từ mụ chủ nhà với cái lệnh mơ hồ: “đuổi hết những người làng Chợ Dầu không cho ở nữa” - có lẽ cái lệnh ấy là hiển thị thái độ hơi cực đoan lúc bấy giờ.
c. Thành công nghệ thuật
- Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật quá tự nhiên, quá tài tình, vào duyên kể chuyện của tác giả mà quên đi cái cách “gỡ nút” câu chuyện quá giản đơn tưởng như vô lí.
- Ngôn ngữ đậm chất khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân, và thế giới tinh thần của người nông dân.
- Kim Lân thật là tài khi chỉ bằng vài nét chấm phá đã cho ta thấy thế nào là cuộc kháng chiến toàn dân.
3. Kết bài
- Có thế nói, linh hồn của truyện ngắn Làng là nhân vật ông Hai
- Với nhân vật ông Hai, Kim Lân đã đưa vào văn học một bức chân dung sống động, đẹp, một vẻ đẹp riêng về người nông dân Việt Nam những ngày đầu kháng chiến, những con người bình thường mà những gì tốt đẹp của họ - lòng yêu làng, yêu nước được khơi dậy và hoàn thiện để ngày càng đẹp đẽ.
- Chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc về người nông dân và thế giới tinh thần của họ.
C. Bài văn mẫu
Đề bài: Nhân vật người yêu làng trong truyện ngắn Làng của Kim Lân
Gợi ý làm bài:
Người ta đã viết rất nhiều về cái làng Việt Nam xưa kia, từ kho tàng đồ sộ ca dao tục ngữ, những khảo cứu phong tục, tập quán, những phóng sự việc làm... cho đến những tiểu thuyết mà cái làng gói trọn số phận của nhiều nhân vật. Làng, đó khộng phải chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí, mà đó là tất cả cuộc sống xã hội đối với người nông dân xưa, ở đó có tất cả những gì gắn bó với họ, làm nên cuộc đời họ... Làng, đó là khái niệm đầu tiên và có lẽ cuối cùng của họ về hai tiếng “quê hương”.
Nhưng trong truyện ngắn Làng của Kim Lân, có thể thấy rõ làng chỉ là một cái cớ, một cái nền làm nổi rõ một nhân vật, một “người làng” đó là nhân vật ông Hai. Bởi vì câu truyện không xảy ra trên đất của làng đã đành, mà trong suốt cả truyện không có một câu văn nào, một dòng chữ nào miêu tả cái làng Chợ Dầu ấy cả. Người ta chỉ biết về cái làng Chợ Dầu qua lời kể của ông Hai, qua lời người đàn bà tản cư, qua những lời đồn của dân làng đi tản cư, qua lời của người đàn bà chủ nhà... Nhưng nhiều nhất là qua những câu chuyện và những nỗi niềm ôm tưởng nhớ của ông Hai, qua tình yêu lạ lùng của ông đối với tất cả những gì thuộc về làng ông.
Nhân vật ông Hai lại không phải là một nhân vật tiêu biểu gì trong cái làng có lẽ cũng rất bình thường như bất kì làng quê nào từ miền đất Việt.
-----Để tham khảo nội dung đầy đủ của tài liệu, các em vui lòng tải về máy hoặc xem trực tuyến-----
Đọc đến đây, ta có thế thấy mình hình như chưa hiểu hết về con người cũng như dễ hiểu tất cả khi vừa gặp mặt, con người giản đơn bộc trực là ông Hai ấy. Hay là chính ông, ông cũng chưa hiểu hết mình? Tình yêu làng bắt đầu từ tính hay khoe làng, vui chuyện, như một thói quen, một thích thú, đến nỗi nhớ làng, như đó là tất cả những gì đẹp đẽ thân thiết nhất của quê hương, của một cuộc sống đẹp đẽ đối lập với cảnh tản cư khổ sở chật hẹp - lúc này đã trở thành nhận thức Cách mạng: “về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây rồi về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Và tình yêu làng trong ông bây giờ mới thực sự là một tình yêu có ý thức: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”... Thật cảm động, cái cảnh ông Hai chỉ biết thủ thỉ cùng con - đứa con cũng rất đáng yêu - câu chuyện của hai cha con cứ như là một sự giải tỏa những nỗi niềm đau khổ trong ông: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ ở trên đầu trên cổ xoi xét bố con ông...”.
Người đọc bị cuốn vào mạch tâm tư của ông Hai, vào nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật quá tự nhiên, quá tài tình, vào duyên kể chuyện của tác giả mà quên đi cái cách “gỡ nút” câu chuyện quá giản đơn tưởng như vô lí. Làm sao mà cái ông chủ tịch lại biết được tình cảnh của ông Hai, của làng Chợ Dầu - nơi tản cư xa xôi mà xuất hiện đúng lúc thế? Có thể vì những sự tình cờ không thiếu trong kháng chiến, nhưng cái chính là người ta bị thuyết phục, bởi cũng như ông Hai, không ai tin cái điều đồn đại về làng ông kia. Chỉ một vài lời của ông chủ tịch là như có phép hồi sinh, ông Hai trở lại là ông Hai xưa kia. Có lẽ trên đời chưa có ai khoe cái việc “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn” một cách hả hê, sung sướng như ông. Trong sự cháy rụi của nhà ông, là sự hồi sinh của một làng khác: làng Chợ Dầu kháng chiến... Ai cũng mừng cho ông lão kể cả mụ chủ nhà tinh quái. Không những ông Hai mà có lẽ cả người ít ngờ về thái độ vui mừng dễ dãi của mụ. Nhưng nghĩ kĩ lại không bất ngờ, vì người đàn bà ấy cũng là người dân Việt Nam độc lập sống trong không khí của Cách mạng. Kim Lân thật là tài khi chỉ bằng vài nét chấm phá đã cho ta thấy thế nào là cuộc kháng chiến toàn dân.
Có thế nói, linh hồn của truyện ngắn Làng là nhân vật ông Hai. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân đã đưa vào văn học một bức chân dung sống động, đẹp, một vẻ đẹp riêng về người nông dân Việt Nam những ngày đầu kháng chiến, những con người bình thường mà những gì tốt đẹp của họ - lòng yêu làng, yêu nước được khơi dậy và hoàn thiện để ngày càng đẹp đẽ. Bằng sự hiểu biết sâu sắc về người nông dân là cuộc sống nông thôn, với tấm lòng trân trọng yêu mến họ, Kim Lân đã có những tác phẩm độc đáo và đặc sắc về nông thôn và người nông dân (trong đó không thể không kể đến Làng). Điều này đã giúp ông trở thành một trong những nhà văn viết không nhiều nhưng được yêu mến rất nhiều ở nước ta.
Trên đây là bài văn mẫu Nhân vật người yêu làng trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm:
-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----